Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tiểu thuyết lịch sử sông côn mùa lũ của nguyễn mộng giác (từ góc độ thể...

Tài liệu Luận văn tiểu thuyết lịch sử sông côn mùa lũ của nguyễn mộng giác (từ góc độ thể loại)

.PDF
124
115
104

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN DANH PHÚ Tiểu thuyết lịch sử Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác (từ góc độ thể loại) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI, 2005 Phần mở đầu Lời nói đầu - cấu trúc luận văn I. Lời nói đầu 1. Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài. Đất nước chuyển biến mạnh mẽ trên con đường đổi mới, nhất là từ 1986. Đảng chủ trương mở cửa, hội nhập với cộng đồng Quốc tế, nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đổi mới toàn diện của đất nước, những đứa con xa đã trở về, trở về bằng cả con người và bằng cả những giá trị tinh thần. Những năm cuối XX đầu XXI, đội ngũ kiều bào đã có những gương mặt thành đạt và yêu nước, có những đóng góp đáng quý trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Trong không khí đó, đời sống văn học khởi sắc với sự góp mặt của tiểu thuyết lịch sử trong và ngoài nước. Tiêu biểu là những tên tuổi: Nam Dao với "Gió lửa"; Vũ Ngọc Đĩnh với "Bắn rụng mặt trời", " Mười hai sứ quân", " Hào kiệt Lam Sơn"; Trần Đại Sĩ với "Nam quốc Sơn Hà", "Anh hùng Đông A dựng cờ bình Mông", "Anh hùng Tiêu Sơn", "Thuận thiên di sử", "Anh hùng Bắc Cương", "Anh linh thần võ tộc Việt" ... (theo phụ san trang cuối tập II "Sông Côn mùa lũ". Nhiều tác phẩm đạt đến độ trường thiên, viết về lịch sử bằng thể loại tiểu thuyết lịch sử, trong đó phải kể đến "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác với bốn tập NXB An Tiêm California 1991 được gửi qua Trung tâm văn hoá Quốc tế, được xuất bản trong nước 2001 (4 tập) và tái bản 2003 (2 tập). Khi được sự bố trí của khoa văn học làm luận văn tốt nghiệp với GS - VS Phan Cự Đệ với sự gợi ý của GS-VS, tôi đề đạt nguyện vọng viết về "Sông Côn mùa lũ" (từ góc độ thể loại) và được sự đồng ý. 1 Mục đích của luận văn với đề tài trên, bản thân chúng tôi không có tham vọng bàn đến những vấn đề quá rộng lớn, mà chỉ dừng ở mức độ nhất định, phạm vi nhất định trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp thạc sĩ: - Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết - Xác định những nét đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử - Những nét tương đồng và dị biệt của tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử - Để tìm hiểu về tiểu thuyết lịch sử"Sông Côn mùa lũ" từ góc nhìn thể loại: nội dung, kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật. - Xác định tác giả viết theo cảm hứng nghệ thuật nào? - Xác định tác giả viết theo cách nào: lịch sử là "cứu cánh" hay lịch sử là "phương tiện" . - Mối quan hệ giữa chất liệu tiểu thuyết và chất liệu lịch sử trong tác phẩm. Nói chung là từ xuất phát điểm giới thuyết về thể loại, phạm vi bài viết chủ yếu tìm hiểu "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác. 2. Lịch sử vấn đề Tiểu thuyết lịch sử có mặt trên văn đàn Việt Nam từ cuối XVIII đầu XIX với "Hoàng Lê nhất thống chí". Tiểu thuyết lịch sử bốn mươi nhăm năm đầu thế kỷ XX ở nước ta phát triển tương đối mạnh mẽ: Nguyễn Tử Siêu có " Tiếng sấm đêm đông" (1928), "Đinh Tiên Hoàng" (1929), "Vua Bố cái" (1929), "Lê Đại Hành" (1929), "Trần Nguyên chiến kỷ" (1935), "Việt Thanh chiến sử" (1935), "Hai Bà đánh giặc" (1936); Đinh Gia Thuyết có "Ngọn cờ vàng" (1934); Trần Trung Viên có "Cầu vồng Yên Thế", Tân Dân Tử có "Giọt máu chung tình" (1926), Phạm Mạnh Kiên có " Việt Nam Lý Thường Kiệt"; Trần Thanh Mại có "Ngô Vương Quyền"; Đào Trinh Nhất có "Phan Đình Phùng" (1936); Chu Thiên có "Lê Thái Tổ" (1941); Ngô Tất Tố có "Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ" (1935), "Vua Tây chúa 2 Nguyễn" (1937), "Lịch sử Đề Thám" (1935); Nguyễn Huy Tưởng có "An Tư" (1944 - 1945)... Những năm cuối thế kỷ XX, tiểu thuyết lịch sử xuất hiện những tác phẩm ở trong nước, nổi bật là "Hồ Quý Ly" của Nguyễn Xuân Khánh, ở ngoài nước với những tên tuổi: Nam Dao, Trần Sĩ Đại, Nguyễn Mộng Giác với hàng chục trường thiên tiểu thuyết (tên tác phẩm đã nêu ở phần I - tác phẩm đã và sẽ xuất bản trước và sau 2003). ở lĩnh vực phê bình, bàn về tiểu thuyết lịch sử không phải là điều mới, vì ngay từ 1957 đã diễn ra cuộc tranh luận về "Tiêu Sơn tráng sĩ". "Cuộc tranh luận năm 1957 xung quanh "Tiêu Sơn tráng sĩ" tập trung vào vấn đề: các Đảng viên Tiêu Sơn là những người yêu nước hay là những kẻ đi ngược lại xu thế của lịch sử". Nhiều cây bút đã tham gia vào cuộc tranh luận như: Phan Cự Đệ, Trương Chính, Minh Tranh, Trần Thanh Mại. (Thế nào là quan điểm lịch sử trong văn học - Văn nghệ số 3, tháng 8/1957). Từ "năm 1966, trong cuốn Nguyễn Huy Tưởng (viết chung với Hà Minh Đức), chúng tôi đã viết về sự khác biệt trong công việc của nhà tiểu thuyết lịch sử và nhà sử học" (Phan Cự Đệ). Gần đây có luận án tiến sĩ của tác giả Bùi Văn Lợi "Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đến 1945" (1999). Nhìn từ góc độ số lượng và thời gian sáng tác, có thể thấy tiểu thuyết lịch sử xuất hiện đến nay đã trải hai thế kỷ. Số lượng tác phẩm cũng không phải là ít, song dường như có hai khoảng thiếu hụt: ở XIX và nửa cuối XX trong nền văn học cách mạng. Chỉ rộ lên ở những năm cuối của XX. Về phê bình cũng có sự ngắt quãng cùng với sự thiếu hụt của loại hình tiểu thuyết lịch sử. 3. Nhiệm vụ của luận văn: Tổng hợp sơ lược giới thuyết về thể loại tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử, chỉ ra những khác nhau giữa nhà viết sử, nhà viết tiểu thuyết và nhà viết tiểu thuyết lịch sử. Tập trung phân tích nội dung tác phẩm "Sông Côn 3 mùa lũ", xem thể loại tiểu thuyết lịch sử như là sự quy chiếu để thấy được những vấn đề của tác phẩm: Nguyễn Mộng Giác viết "Sông Côn mùa lũ" từ cảm hứng nghệ thuật nào? Mối quan hệ giữa chất liệu lịch sử và chất liệu tiểu thuyết trong tác phẩm. Lịch sử là "cứu cánh" hay là "phương tiện" của nhà văn. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tổng hợp phân tích - Phương pháp so sánh văn học - Phương pháp loại hình (loại hình tiểu thuyết lịch sử) II. Cấu trúc luận văn Phần mở đầu I. Lời nói đầu: - Lý do chọn đề tài, mục đích của đề tài - Lịch sử vấn đề - Nhiệm vụ của luận văn - Phương pháp nghiên cứu II. Bố cục luận văn Chương I: Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những tương đồng và dị biệt. 1 - Tiểu thuyết, giới thuyết về thể loại: - Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. - Giới thuyết về hành trình của tiểu thuyết trong văn học. - Vị trí, vai trò của tiểu thuyết với văn học và cuộc sống. 2 - Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại. - Đôi điều về thể loại tiểu thuyết lịch sử . - Vấn đề phản ánh qua tiểu thuyết lịch sử. 4 3 - Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử, những tương đồng và dị biệt - Nét tương đồng - Dị biệt Chương II Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác - nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử 1 - Chất liệu lịch sử - nhân vật lịch sử trong" Sông Côn mùa lũ" 1.1. Chất liệu lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ". 1.2. Nhân vật lịch sử trong "Sông Côn mùa lũ" - Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc - Nguyễn Lữ 2 - Chất liệu tiểu thuyết-nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ" 2.1 - Chất liệu tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ" 2.2 - Nhân vật tiểu thuyết trong "Sông Côn mùa lũ". - Trí thức thời loạn trong "Sông Côn mùa lũ". - Nhân vật trung gian trong "Sông Côn mùa lũ". - Hình tượng người phụ nữ trong "Sông Côn mùa lũ". - Nhân vật thường dân trong "Sông Côn mùa lũ". Chương III Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ" 1. Kết cấu. - Tuyến lịch sử. - Tuyến hư cấu. - Kết cấu đan xen các chủ đề 5 2. Phương thức kết cấu - Phân nhánh, lan toả, trật tự tuyến tính, đan xen, đối ảnh, xâu chuỗi 3. Ngôn ngữ nghệ thuật - Ngôn ngữ tác phẩm - Ngôn ngữ nhân vật - Ngôn ngữ tạo hình và đa thanh Đôi lời kết luận - Tiểu thuyết lịch sử với văn học, với văn hoá đọc nói chung - Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết hiện nay phát triển theo hướng nào. - Tiểu thuyết lịch sử "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác và vấn đề - tính thời sự của văn học Phần nội dung Luận văn gồm ba chương (không kể phần mở đầu và đôi lời kết luận) Chương I Tiểu thuyết, tiểu thuyết lịch sử: giới thuyết về thể loại, những tương đồng và dị biệt. Chương II Nội dung "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác nhìn từ góc độ tiểu thuyết lịch sử Chương III Kết cấu và ngôn ngữ nghệ thuật của "Sông Côn mùa lũ". 6 Chương I Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử: Giới thuyết về thể loại, những tương đồng và dị biệt I. Tiểu thuyết, giới thiệu về thể loại: Thể loại tiểu thuyết trong sự phát triển lịch đại của văn học sinh sau đẻ muộn. Sự ra đời và phát triển của một số thể loại của văn học rất sớm. Có những thể loại ra đời tiền văn tự như: Sử thi cổ đại, các thể loại văn học thuộc văn hoá dân gian - FOLKLORE. Nó tồn tại gắn liền với các hình thái sinh hoạt dân gian và cả trong lễ hội. Sự chuyển dịch từ văn học dân gian thành văn học thành văn là sự phát triển nhảy vọt của văn học. Nó chuyển hẳn từ văn hoá nghe qua giọng kể, văn hoá nhìn qua biểu diễn thành văn hoá đọc. Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết trong văn học nâng tầm văn hoá đọc lên một bước mới, một tầm cao mới. Có lẽ cũng vì thế mà tiểu thuyết không phải là món ăn tinh thần cho tất thảy quảng đại quần chúng; cho dù tác giả muốn hướng tới quần chúng đến mức cao nhất trong phản ánh cuộc sống bằng thể loại đặc biệt này. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi không có tham vọng trình bày những vấn đề về thể loại và thi pháp tiểu thuyết một cách đầy đủ mà ở đây chỉ trình bày ở góc độ giới thuyết ( có giới hạn) như là những nét khái quát về tiểu thuyết trong sự phát triển của văn học với tư cách là một thể loại đặc biệt, như là một nhịp nối để bàn về tiểu thuyết lịch sử. Hê ghen gọi tiểu thuyết là "Sử thi thị dân" điều này có nghĩa là tiểu thuyết hiện đại phương Tây ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của yếu tố tư bản, với sự hình thành của giai cấp tư sản. Nhận định này của Hê ghen còn giúp ta thấy cái mốc đã làm nảy sinh một thể loại văn học mới 7 mẻ là tiểu thuyết. Biê lin x ki cho rằng: " Sử thi của thời đại chúng ta là tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết có tất cả những dấu hiệu thể loại quan trọng của sử thi, chỉ có sự khác nhau là trong tiểu thuyết khống chế những yếu tố khác và sắc màu khác"(Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại). Nói như vậy có nghĩa là tiểu thuyết ra đời không tách rời sự vận động nội tại của văn học. Bị chi phối bởi yếu tố khách quan là cuộc sống, song tiểu thuyết, một sản phẩm tinh thần của con người có sự vận động nội tại để hoàn thiện. Khi Biêlinxki nói rằng: " Trong tiểu thuyết có những sắc màu khác" thì chính là sự phản ánh, miêu tả " cuộc sống hàng ngày". Cuộc sống đang diễn ra hôm nay chứ không phải là cái quá khứ sử thi tuyệt đối. Vì thế, tiểu thuyết có thể tái hiện cuộc sống bằng những nguồn đề tài khác nhau. Đề tài trong quá khứ là lịch sử. Đề tài trong cuộc sống hiện tại là "tình trạng hiện tại của nó". Vì thế, tiểu thuyết phải miêu tả cuộc sống như là nó vốn có. Tiểu thuyết hướng tới cuộc sống, miêu tả cuộc sống của cộng đồng xã hội. Nhân vật của tiểu thuyết vì thế mà sinh động như trong cuộc đời. "Bằng nghệ thuật điển hình hoá, nhà tiểu thuyết nâng cái cá biệt, cái cụ thể lên chiều cao của sự khái quát. Cái đích của tiểu thuyết mà cũng là phương tiện để thực thi hoàn thành tiểu thuyết là hư cấu, song là hư cấu, từ chính cuộc sống hiện tại mà tác phẩm phán ánh. Điều này khác hẳn với một số tiểu thuyết từ trước nửa thế kỷ XVIII. Đó là sự hư cấu trên cơ sở những truyền thuyết thần thoại cổ như kiểu Tristan Iseult của Josef Bedie'. Hoặc là tiểu thuyết kỵ sĩ thời phục hưng sử dụng những hình tượng và những thủ pháp nghệ thuật của sử thi kỵ sĩ trung thế kỷ để kể lại những cuộc du hành thám hiểm những khám phá lớn lao về sức mạnh vạn năng của con người trong thế kỷ XVI. Như vậy là mãi đến cuối thế kỷ XVIII và đặc biệt thế kỷ XIX người ta mới quan niệm Roman như ta hiểu ngày nay, nghĩa là một tác phẩm "miêu tả cuộc sống với tất cả tính chất văn xuôi của nó, một chuyện hư cấu về những việc có tính 8 chất xác thực của cuộc sống nhân loại" (Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại Phan Cự Đệ ). Sử thi hướng về cái quá khứ tuyệt đối với một " khoảng cách sử thi " đầy tôn kính, còn tiểu thuyết là cuộc sống bình thường hàng ngày, là một thể loại mang tính dân chủ (dân chủ với nhân vật, dân chủ với bạn đọc ). Tiểu thuyết phát huy cao độ vai trò của hư cấu, thậm chí có những hư cấu cao độ ( Don Qui chotte, Xuân Tóc Đỏ ), đến mức không thể tìm được một nguyên mẫu đúng như thế trong cuộc đời. Tiểu thuyết hướng về cuộc sống đương đại, về cái hiện thực đang vận động, đang phát triển, nên dù có nói chuyện trung thế kỷ hay kể chuyện khoa học viễn tưởng thì chủ yếu cũng phải giải quyết những vấn đề bức xúc của đương đại. ở cái nôi văn hoá phương Đông, điển hình là Trung Quốc, tiểu thuyết đã xuất hiện trong đời sống văn học từ rất sớm. Theo "Trung Quốc tiểu thuyết sử lược" của Lỗ Tấn ,"Hán thư nghệ văn chí" cho rằng phái các nhà tiểu thuyết là vốn xuất phát từ chức tỳ quan, chép những lời ngoài đường ngoài ngõ. Những chuyện ngụ ngôn, những chuyện quái lạ, những giai thoại, những chuyện hoang đường có tính chất lịch sử... là những chuyện hết sức vụn vặt ngoài đường ngoài ngõ. Tiểu thuyết theo quan niệm trên là những lời nói nhỏ - "tiểu thuyết" - vụn vặt được ghi chép. Như thế, theo quan niệm này, " tiểu thuyết" chưa được coi là sự sáng tạo mang tính chất văn học bác học, chưa thể xuất hiện tiểu thuyết gia sáng tác mà chỉ có tiểu thuyết gia chí mà thôi. Cũng chính vì thuần tuý là ghi chép mà tiểu thuyết, dưới cái nhìn của Nho gia cửa Khổng, sân Trình không phải là chính thư, trái với đạo Nho. Tiểu thuyết ở đây còn có thể hiểu là tạp thuyết. Điều này hoàn toàn khác với khái niệm tiểu thuyết mà Lỗ Tấn dùng sau này. Với quan niệm "Văn dĩ tải đạo" của đạo Nho, văn học Trung Quốc một thời gắn với lịch sử, dường như không tách rời lịch sử. Văn học là cái chí hướng tới của người quân tử để lập ngôn nếu không lập nổi đức, lập nổi công, thì lưu danh sử sách bằng " trước thư lập ngôn ". Vì lẽ đó mà một thời kỳ phát triển 9 đến tột đỉnh của thơ ca từ thời Đường, Tống, tiểu thuyết vẫn hầu như tránh mặt trên văn đàn Trung Quốc. Mãi đến thời Minh -Thanh (Thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI), tiểu thuyết mới xuất hiện mà điển hình là: Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thuỷ Hử, Tây Du Ký và Hồng Lâu Mộng. Với bốn pho đại tiểu thuyết này, văn học Trung quốc đã xuất hiện những tiểu thuyết gia lớn : La Quán Trung, Thi Nại Am, Ngô Thừa Ân, Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc. ở Việt Nam, tiểu thuyết hiện đại như ta quan niệm hiện nay thực sự hiện hữu trên văn đàn từ những năm 20 của thế kỷ XX, với những tên tuổi: Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình, Hoàng Ngọc Phách. Truyện ngắn đã xuất hiện, trong văn học Việt nam khá sớm. Nó bắt nguồn từ các loại: thần tích, chí quái, truyền kỳ. Quá trình phát triển của văn xuôi, cũng là quá trình tách rời giữa lịch sử và văn học. Tính lịch sử, tính chất chí bớt đi và tính sáng tạo, hư cấu nghệ thuật tăng lên. Cũng là quá trình đi lên từ chuyện lạ hoang đường đến những chuyện bình thường hàng ngày trong cuộc sống. Có thể nói, truyện ngắn Việt Nam được khai sinh từ nguồn gốc dân gian và lịch sử. Vì lẽ đó, văn học thành văn của Việt Nam gắn liền với những chuyện kể dân gian, các loại thần tích (Việt điện u linh), chí quái (Lĩnh Nam chích quái), truyền kỳ (Truyền kỳ tân phả, Truyền kỳ mạn lục), truyện thơ nôm từ truyện cổ tích (Thạch Sanh), truyện thơ nôm khuyết danh Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa... Nguồn mạch và dòng chảy của văn học thành văn của Việt Nam mãi đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX xuất hiện những thiên ký sự, tuỳ bút, tiểu thuyết lịch sử (Thượng kinh ký sự, Vũ trung tuỳ bút, Hoàng Lê nhất thống chí). Những năm 20 của thế kỷ XX, hiện tượng Hồ Biểu Chánh với hơn 60 tiểu thuyết phản ánh cuộc sống Nam bộ, đồng thời thể hiện quan niệm đạo đức tốt đẹp của ông đối với cuộc sống đương thời. Hiện tượng Biểu Chánh - Hồ Văn Trung có thể xem là con người tiên phong trong lĩnh vực tiểu thuyết văn xuôi, mang tính luận đề. Hiện tượng Hoàng Ngọc Phách với "Tố Tâm" có thể xem là người đặt nền 10 móng cho tiểu thuyết mới với bút pháp lãng mạn. Hiện tượng Phạm Duy Tốn với "Sống chết mặc bay"... có thể xem là người đặt nền móng cho truyện ngắn mới với bút pháp hiện thực phê phán. Tiểu thuyết có vị trí đặc biệt trong văn học như trên đã trình bày một cách tóm tắt. Bên cạnh đó, tiểu thuyết có ưu thế tuyệt đối trong phản ánh toàn vẹn cuộc sống với bình diện lớn, tổng thể. Tiểu thuyết hiện vẫn còn là một thể loại chưa có hồi kết . Mối quan hệ, cách nhìn nhận, việc phản ánh cuộc sống, tái tạo cuộc sống, các nhà văn đã làm nên những dòng chảy, những chủ thuyết trong quá trình sáng tạo. ở phương Tây, tiểu thuyết cổ điển phát triển mạnh ở thế kỷ XIX, đồng thời cũng làm bùng nổ những dòng chảy, chủ thuyết về tiểu thuyết ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX: chủ nghĩa tự nhiên của E'mile Zola, chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul Satre, Camus, Hiện tượng Milan Kundera đã đưa vào văn học đương đại tiểu thuyết giả tưởng khi mà ông chủ trương " suy nghĩ về một câu chuyện". Hiện tượng văn học Harry Potter được xem là một loại hình mới của văn học hậu hiện đại phương Tây. Giữa thế kỷ XX, phe xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển, đối trọng với chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây. Trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, văn học được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, làm nảy sinh một hiện tượng văn học phát triển rực rỡ với những tên tuổi như: Maxime Gorki; Alexis Tolstoi; Cholokhov; Fade'ev; Ehrenbourg; Aimatov thuộc Liên bang Xô viết (cũ). Từ những năm 30 của thế kỷ XX trên văn đàn Việt Nam, tiểu thuyết phát triển mạnh trong tư trào văn học lãng mạn của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Tư trào này dường như cáo chung vào những năm 40. Từ sau Cách mạng tháng Tám, văn học nói chung tiểu thuyết nói riêng phát triển mạnh mẽ. Thể loại tiểu thuyết mang cảm hứng sử thi, mang hơi thở của hai cuộc 11 kháng chiến, chống Pháp và chống Mỹ kéo dài ngót 30 năm và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gần mười năm (1955-1964). Chúng ta có một di sản tiểu thuyết dù chưa tương xứng với tầm vóc lịch sử, song nó làm tròn sứ mệnh của văn học là phản ánh một cách chân thật và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão cùng với công nghệ thông tin, đặc biệt là loại hình nghệ thuật thứ bảy đang tác động mạnh đến mối quan hệ giữa tiểu thuyết với bạn đọc. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng thì có lẽ phải hiểu nó là sự chững lại như một lát cắt. Tiểu thuyết là một sản phẩm mà thông qua nghệ thuật ngôn từ có giá trị phi vật thể rất lớn trong đời sống tinh thần con người. Tiểu thuyết có chỗ đứng quan trọng trong văn học và do chính cuộc sống (thế sự) tạo nên nó song nó vẫn tồn tại theo một quy luật riêng. Một quy luật khách quan là mọi hiện tượng trong cuộc sống, khi đã phát triển đến đỉnh điểm rực rỡ thì có sự chuyển hoá. Tiểu thuyết không nằm ngoài quy luật nghiệt ngã đó. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng thì đây chính là một trong những nguyên nhân khách quan. Khoa học kỹ thuật tiến bộ đẩy nhanh vòng xoáy của công việc lao động. Giờ làm giảm, cường độ lao động tăng, con người tìm đến những hình thức giải trí bằng nhiều hình thức khác. Từ đói phương tiện giải trí, văn hoá đọc là chính đã chuyển sang văn hoá nghe nhìn phong phú và nhiều hình thức giải trí khác nữa. Vì thế, bạn đọc tiểu thuyết cũng một phần bị thưa vãn. Mặt khác, ngay cả khi nghèo phương tiện thông tin, phương tiện giải trí, tiểu thuyết vốn không phải là điểm hẹn cho tất cả mọi người. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, nhiều hình thức giải trí có liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày. Tiểu thuyết thuộc phạm trù tinh thần, đảm trách trọng yếu chức năng của văn học: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, dự báo, giải trí, lại thiếu những gì thiết thực như nhu yếu của con người. Trong thế giới kim tiền, một thế giới thù nghịch với nhiều ngành nghệ thuật chân chính, trong 12 đó có văn học, các tiểu thuyết gia buộc phải xem các tác phẩm của mình như một hàng hoá trên thị trường. Sản phẩm tiểu thuyết có giá trị phi vật thể, những giá trị nhân bản được sáng tạo bởi tài năng và thiên chức sáng tác lại được định giá bằng tiền. Đồng tiền định giá giá trị tinh thần thì nhân cách của nhà văn bị xúc phạm. Đây chính là sự mất tự do lớn nhất. Nếu tiểu thuyết khủng hoảng thì đây là một tác nhân không nhỏ. Những năm gần đây (thập kỷ IX của thế kỷ trước và những năm đầu của thế kỷ này), một câu hỏi lớn đặt ra: "tiểu thuyết Việt Nam phát triển theo hướng nào", là một trăn trở của giới cầm bút, của các tiểu thuyết gia và là sự chờ đợi về phía độc giả. Nhìn ở góc độ khách quan, văn nghệ nói chung đã được "cởi trói", đất nước đổi mới với chủ trương hội nhập là một vận hội mới cho tiểu thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại, phải góp phần tạo nên một nền văn học xứng đáng với tầm vóc Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, đội ngũ độc giả với mặt bằng dân trí như hiện nay cũng là một vận hội không nhỏ đối với văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng. Câu hỏi trên là sự mong đợi của độc giả, một đội ngũ được xem là đồng tác giả đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Từ đổi mới đến nay (1986 - 2005), những tác phẩm văn học ở các thể loại khác như truyện ngắn phát triển mạnh, đặc biệt là kịch bản phim truyện. Tiểu thuyết thì tuy có phát triển về số lượng nhưng chưa nhiều những tác phẩm hay. Thành công tiêu biểu phải kể đến "Mùa lá rụng trong vườn" (Ma Văn Kháng), " "Thời xa vắng" (Lê Lựu), "Bến không chồng" (Dương Hướng), "Mảnh đất lắm người nhiều ma" (Nguyễn Khắc Trường), "Chim én bay" (Nguyễn Trí Huân) "Ăn mày dĩ vãng" (Chu Lai), "Hồ Quý Ly" Nguyễn Xuân Khánh ... Tiểu thuyết Việt Nam chuyển mình theo hướng nào là một thông điệp chung với tiểu thuyết gia của đội ngũ độc giả. 2. Tiểu thuyết lịch sử, giới thuyết về thể loại: 13 Tiểu thuyết lịch sử không phải là mới vì nó đã hiện hữu ở Việt Nam từ cuôí thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với "Hoàng Lê Nhất Thống Chí" (Ngô Gia Văn Phái). Đồng thời cũng xuất hiện tiếp trên văn đàn không phải là hy hữu với "Trùng Quang tâm sử" (Phan Bội Châu) (1925 - Trùng Quang tâm sử đăng trên Binh sự tạp chí (The military magazine) từ tháng 1/1921 đến tháng 4/1925 - xuất bản lần thứ nhất mang tên "Hậu Trần dật sử (Trần Lê Hữu dịch) NXB Văn hoá 1957, "Tiếng sấm đêm đông"(Nguyễn Tử Siêu), Tiêu Sơn tráng sỹ (Khái Hưng)... vấn đề ở đây là quan niệm về tiểu thuyết lịch sử. Nói như Goncourt, "Lịch sử là cuốn tiểu thuyết đã viết xong, tiểu thuyết là lịch sử có thể diễn ra như thế" (Pierre Louis-Rey- Tiểu thuyết Hachette-Paris 1992, trang 11 (tiểu mục tiểu thuyết và lịch sử).Với lời khẳng định này ta thấy rằng: tiểu thuyết và lịch sử có mối quan hệ đặc biệt. Lịch sử với sự ghi chép bằng văn bản là cuốn tiểu thuyết đã hoàn tất. Tiểu thuyết là "cuốn sử" có thể diễn ra như thế, có thể diễn ra theo giả thiết suy luận , là lịch sử chưa có hồi kết. Dù vậy, khi các tiểu thuyết gia chọn đề tài lịch sử để viết tiểu thuyết lịch sử, thì những gì đã trở thành "giấy trắng mực đen", tiểu thuyết gia không thể làm thay tạo hoá được nữa. Mọi sáng tạo đều có quyền hư cấu, song với nhà tiểu thuyết lịch sử thì phần sáng tạo chỉ là một đối trọng với lịch sử. Nó là một phần quan trọng thể hiện qua tác phẩm. Tiểu thuyết lịch sử phải được coi là một loại thể trong phạm trù thể loại tiểu thuyết nói chung. Do nhà văn chọn đề tài để đối thoại với cuộc sống mà có tiểu thuyết tâm lý xã hội, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết lịch sử... Từ thái độ, cách thể hiện đối thoại với cuộc sống của nhà văn theo một quan điểm nào đó mà tạo ra các trường phái tiểu thuyết theo các chủ thuyết như: hiện thực, lãng mạn, hiện sinh... tiểu thuyết hiện đại chủ nghĩa (thế kỷ XX) và hậu hiện đại. Những năm cuối XX và đầu XXI có nhiều tiểu thuyết sáng tác theo các chủ thuyết trên tạo thành sự phong phú đa dạng của tiểu thuyết phương Tây. Với khuôn khổ và mục đích bài viết này chúng tôi không nói gì thêm về những chủ thuyết trên mà chỉ 14 nêu ra với tư cách như là sự điểm danh của các chủ thuyết đó trong văn đàn. Tiểu thuyết là kết quả của thiên chức sáng tác cùng với vốn sống, vốn hiểu biết và kinh lịch trong cuộc sống của tác giả. Tác giả viết tiểu thuyết lịch sử phải am tường lịch sử, sự kiện, tôn trọng những gì lịch sử đã hoàn tất. Lịch sử được phản ánh trong tiểu thuyết lịch sử phải là sự thể hiện: am tường sự kiện, nhân vật, không gian, thời gian, địa điểm lịch sử. Dựa vào lịch sử còn những "điểm trắng", nhà tiểu thuyết lịch sử sáng tạo, tái hiện những nhân vật không góp mặt trong tác phẩm của sử gia. Những nhân vật này là gương mặt của cuộc sống thường nhật, chính loại nhân vật này làm nên chất tiểu thuyết của tác phẩm. Bên cạnh đó, " những điểm trắng " về nhân vật lịch sử, được các tiểu thuyết gia lịch sử thêm vào làm cho nhân vật lịch sử thêm chất tiểu thuyết song không nhào nặn lại nhân vật, không vi phạm vào tính chân thực của lịch sử, của cuốn lịch sử đã được hoàn tất. Cái khó của nhà tiểu thuyết lịch sử là phải đảm bảo tính khách quan, đòi hỏi tham khảo đến tường tận cứ liệu lịch sử, phải am tường về những yếu tố địa lý, thổ nhưỡng, phong tục, tập quán... Muốn vậy phải điều tra hồi cố các sự kiện, nhất là để phát hiện ra những điều mà vốn nó nằm ngoài sự ghi chép của lịch sử. Hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử là tất yếu, song hư cấu không thể vượt qua hai tiếng lịch sử. Nếu vượt qua, nó sẽ trở thành tiểu thuyết dã sử, lấy lịch sử làm phương tiện, coi lịch sử là điều đang diễn ra mà quyền nhào nặn của nhà văn như chính là tạo hoá. Như vậy, nhà văn đã tiểu thuyết hoá lịch sử chứ không phải là viết một tiểu thuyết lịch sử. Tóm lại: Tiểu thuyết lịch sử nằm trong phạm trù tiểu thuyết nói chung nhưng viết về đề tài lịch sử. Vì những lẽ đó, tiểu thuyết lịch sử luôn tồn tại hai hệ thống nhân vật: nhân vật lịch sử và nhân vật thuộc "điểm trắng" của lịch sử - nhân vật sáng tạo của tiểu thuyết gia. Mặt khác, khi lấp những điểm trắng" nghĩa là tạo ra những chi tiết bổ sung cho lịch sử, sáng tạo những nhân vật phi lịch sử - những cuộc đời thường, nhà tiểu thuyết 15 phải tránh hiện đại hoá con người nhất là khi gắn nối giữa hai hệ thống nhân vật: lịch sử và phi lịch sử. Để tạo ra một kết cấu tác phẩm lô gíc, nhà văn cũng rất dễ hiện đại hoá mối quan hệ giữa người với người. Khi đã hiện đại hoá mối quan hệ này thì cho dù tác phẩm có kết cấu lô gíc đến chừng nào, người đọc cũng không dễ dàng cảm thông trong tiếp nhận. Mặt khác, khi gắn nối hai hệ thống nhân vật trên nhà văn có thể làm cho nhân vật lịch sử không còn là lịch sử nữa (hoặc thêm vào những nét cao thượng vốn đã đầy ắp của nhân vật lịch sử hoặc là sẽ tầm thường hoá nhân vật lịch sử). Nếu nhà văn rơi vào tầm thường hoá nhân vật lịch sử, hiện đại hoá mối quan hệ giữa người với người trong tác phẩm sẽ tạo ra một dã sử được ghi chép bằng tác phẩm văn học. 3. Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử - những tương đồng và dị biệt Tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử đều có chức năng tái hiện cuộc sống. Tiểu thuyết tái hiện những gì đang diễn ra như chính cuộc sống đồng đại với bạn đọc. Tiểu thuyết lịch sử tái hiện những gì đã diễn ra trong quá khứ, những gì mà thượng đế không làm gì được nữa. Tiểu thuyết lịch sử có sự gặp gỡ giữa tác giả với bạn đọc là sự giao tiếp về lịch sử, về quá khứ, song nó không hoàn toàn là những gì thuộc công việc của sử gia, cũng không hoàn toàn là tiểu thuyết. Công việc của nhà tiểu thuyết lịch sử là làm sống lại phần cuộc sống đã bị "che khuất" để tạo nên bình diện tổng thể của cuộc sống. Phần khuất lấp ấy - phần không là nét lớn, nét chính của sử gia khi tái hiện, tiểu thuyết gia lịch sử hoàn toàn có quyền hư cấu như chính các tiểu thuyết gia. Thậm chí cả những yếu tố thuộc lịch sử mà còn các "điểm trắng" thì khi lấp các "điểm trắng", nhà tiểu thuyết lịch sử có quyền hư cấu, làm cho những gì thuộc lịch sử vẫn là lịch sử, song sinh động hơn, hấp dẫn hơn. Nhà tiểu thuyết tái tạo cuộc sống bằng hư cấu để tạo ra những gương mặt tiêu biểu của đời thường đang diễn ra; nhà tiểu thuyết lịch sử hư cấu để 16 tạo ra những gương mặt tiêu biểu của đời thường đã diễn ra trong quá khứ. Khi hư cấu, nhà tiểu thuyết ít bị chi phối bởi tính niên đại. Khi hư cấu, nhà tiểu thuyết lịch sử phải đặt bình diện phản ánh trong niên đại. Nhà tiểu thuyết khi viết về cuộc sống đang diễn ra, đồng hành với nhà chép sử đồng đại. Họ đều là " thư kí " của cuộc sống. Nhà tiểu thuyết lịch sử với sử gia là tiếng nói đồng vọng của hôm nay với hôm qua, nối quá khứ với hiện tại, giao thoa giữa hiện tại với quá khứ. Có sự khác biệt trong công việc của nhà tiểu thuyết lịch sử và nhà viết sử, "việc nghiên cứ lịch sử là vô cùng cần thiết đối với nghệ sỹ, nhưng sự nghiên cứu ấy không thể thay thế sự sáng tạo. Có khi nhà nghệ sỹ chỉ cần vài khoảnh khắc trong đời sống của nhân vật lịch sử, có khi nghệ sỹ đưa vào tác phẩm những điều phi lịch sử, không quan trọng, thậm chí trong một chừng mực nào đó có quyền vi phạm sự đúng đắn về sự kiện lịch sử, bởi vì tác giả chỉ cần " sự đúng đắn lý tưởng" mà thôi" (Phan cự Đệ - Tiểu thuyết lịch sử - tạp chí Nhà văn số 1 2003, trang 56). Nhà tiểu thuyết, như ta quan niệm hiện nay, lấy những sự kiện đang diễn ra hàng ngày, đối thoại với cuộc sống để sáng tạo cuộc sống trong tác phẩm. Nó là những " chuyện ngoài đường ngoài ngõ ", những điều mà sử gia phong kiến không ghi chép. Những con người ngày xưa được dùng chung bằng một từ " bách tính" mà ngày nay được dùng là nhân dân, đồng bào, các sử gia không ghi chép gương mặt cá thể trong phạm trù này. Nhà viết sử không thể tạo ra tính cách toàn diện của nhân vật lịch sử trong lịch sử. Nhà tiểu thuyết thì trái lại, sáng tạo cuộc sống thứ hai trong tác phẩm, tạo ra những cá tính, những số phận, cả những buồn vui trong đời sống con người. Tiểu thuyết lịch sử có thể ví như nhịp cầu nối giữa lịch sử và tiểu thuyết. Nó chọn đề tài là lịch sử để sáng tác, vì thế vừa phải là tiểu thuyết mang diện mạo tiểu thuyết, vừa phải là lịch sử như lịch sử đã diễn ra hoặc " có thể diến ra như thế ". Tiểu thuyết là thế sự đang diễn ra, tiểu thuyết lịch 17 sử là thế sự đã khép lại nhưng nhà văn cũng có thể giả định, tiên đoán xu thế phát triển của nó. Theo dòng chảy thời gian, cái hôm nay sẽ thành cái hôm qua, cái ngày mai rồi sẽ là cái ngày nay, nghiã là thế sự rồi cũng đi vào quá khứ, đi vào lịch sử. Những gì mà tiểu thuyết thế sự tạo ra là gương mặt của những cuộc đời thường trong cuộc sống thường nhật hôm nay. Tiểu thuyết lịch sử làm sống lại những gì mà thời gian đã đẩy vào dĩ vãng. Tiểu thuyết lịch sử bị chi phối bởi khách quan là lịch sử. Dù sáng tạo chủ quan đến mức cao nhất, tiểu thuyết gia lịch sử cũng không thể thế sự hoá lịch sử mà chỉ có thể thêm vào trong tác phẩm những gì mà sử gia không làm như thế. Tác giả chỉ có thể đưa vào tác phẩm những chi tiết chủ quan không làm lệch lạc cái công việc của tạo hoá, không can thiệp công việc của tạo hoá bằng chủ quan cá nhân. Nếu không, tiểu thuyết gia lịch sử đã lạm dụng, đã thiên lệch tính tiểu thuyết để dã sử hoá lịch sử. Tiểu thuyết có sức hoành tráng hoá một nền văn học, có sức thu nạp lớn nhất là cuộc sống đang diễn ra, đang hiện hữu, tiểu thuyết gia có mặt chính trong thế sự đó. Thế sự đang hiện hữu được các nhà tiểu thuyết hiện thực cổ điển thể hiện thành công ở cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX ở Châu Âu với những tên tuổi lớn như DicKens ( Anh), Balzac (Pháp ), Lev Tolstoi ( Nga )...ở Việt Nam là những tên tuổi thời tiền chiến (thế kỹ XX): Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thế sự trong tiểu thuyết lịch sử là thế sự tái hiện bằng kết quả nghiên cứu lao động trí tuệ về nhiều phương diện: văn hoá, lịch sử, địa lý... Tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi vấn đề phản ánh phải dừng trước vạch cấm chỉ của lịch sử để tác phẩm đảm bảo tính chân thực lịch sử. Vượt qua vạch cấm chỉ, tiểu thuyết lịch sử đã tiểu thuyết hoá lịch sử. Cái " có thể diễn ra như thế" không thể là phương tiện để tiểu thuyết gia tạo dụng ý " bình cũ rượu mới", chuyển hẳn nó sang tiểu thuyết luận đề, dã sử hoá lịch sử nhằm thực hiện thiên kiến của tác giả, hoặc một biểu tượng hai mặt về cuộc sống 18 hiện tại. Như vậy tiểu thuyết lịch sử chỉ còn là một phương tiện (Gió lửa của Nam Dao). Tiểu thuyết lịch sử muốn hay không, để nó đảm trách nhiệm vụ lịch sử (Hystory) thì không gian, thời gian, địa điểm..., thể hiện trong tác phẩm phải mang dấu ấn của thời điểm lịch sử mà tác phẩm phản ánh. Mặt khác, tuyến nhân vật sáng tạo của tác giả - loại nhân vật không là đối tượng của sử gia, khi được tái tạo phải là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử, không thể hiện đại hoá con người trong quá khứ. Những nhân vật sáng tạo phải mang dấu ấn lịch sử: Phong tục, tập quán, lời ăn tiếng nói, trang phục, nhất là quan hệ giữa người với người. Nếu không, tác phẩm sẽ trở thành hai mảng riêng biệt: lịch sử và thế sự không ăn nhập, không lô gíc. Như vậy, tác giả đã mượn danh lịch sử để viết tiểu thuyết với dụng ý nào đó chứ không phải là viết tiểu thuyết lịch sử. Bàn về tiểu thuyết lịch sử, trong một chuyện luận cùng tên, giáo sư Phan Cự Đệ đã đề cập đến những vấn đề có tính phổ quát về thi pháp tiểu thuyết lịch sử khi dẫn những chính kiến của các lý luận gia tên tuổi các nước: Anh, Pháp, Nga và của chính những cây bút tiểu thuyết lịch sử. Một nhà phê bình vừa khen vừa chê Dumas như sau "Alexandre Dumas đã hiếp dâm lịch sử mà đẻ ra những đứa con hoang sinh động hơn những đứa con chính thức "(Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn). Nhưng nhà văn lãng mạn Alexandre Dumas, người có biệt tài viết tiểu thuyết lịch sử (Ba người lính Ngự lâm, Hai mươi năm sau, Hoàng hậu Margot, Ba tước Monte Cristo...) đã đáp lại: " Lịch sử đối với tôi là gì ? Nó chỉ là một cái đinh để tôi treo cái bức hoạ của tôi thôi" (Phan Cự Đệ - tài liệu đã dẫn) "Không tôn trọng sự chính xác lịch sử hoặc chỉ dùng quá khứ lịch sử để ám chỉ những vấn đề hiện tại, đó là khuynh hướng đường như không thể thay đổi của một số nhà lãng mạn. Trong "Những suy nghĩ về chân lý nghệ thuật" ( 1827 ), vốn là Lời tựa của cuốn tiểu thuyết lịch sử Cing Mars 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan