Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tiếp nhận truyện kỳ mạn lục của nguyễn dữ thời kỳ đổi mới...

Tài liệu Luận văn tiếp nhận truyện kỳ mạn lục của nguyễn dữ thời kỳ đổi mới

.PDF
102
144
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM  HOÀNG THỊ HUYỀN TRANG TIẾP NHẬN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC CỦA NGUYỄN DỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn Thái Nguyên - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong khoa Văn học Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo của PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn, người trực tiếp hướng dẫn tôi làm luận văn. Qua đây, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn và toàn thể thầy cô trong Khoa, những người đã tạo điều kiện cho tôi và chỉ bảo cho tôi suốt hai năm vừa qua. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, người thân, những người đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện tốt nhất trong thời gian qua. Thái Nguyên, / 04 / 2013 Học viên Hoàng Thị Huyền Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là luận văn do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn. Luận văn chưa được công bố trong công trình nghiên cứu nào. Xác nhận của ngƣời hƣớng dẫn Tác giả luận văn PGS. TS Nguyễn Hữu Sơn Hoàng Thị Huyền Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn Lời cam đoan MỤC LỤC ............................................................................................................ i Quy ước các chữ viết tắt ......................................................................................iii PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................iii 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 7 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 8 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 9 Chƣơng 1. LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TRUYỀN KÌ MẠN LỤC .............. 11 1.1. Khái lược về lý thuyết tiếp nhận ............................................................. 11 1.2. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục từ cơ sở lịch sử - văn hóa......................... 15 1.3. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục từ vai trò chủ thể tiếp nhận ...................... 20 1.4. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục từ sự thay đổi của các phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 23 Chƣơng 2. CÁC NHÀ VIỆT HỌC Ở NƢỚC NGOÀI TIẾP NHẬN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC THỜI KÌ ĐỔI MỚI ................................................ 26 2.1. Khái lược về vấn đề tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục và đội ngũ các nhà nghiên cứu ở nước ngoài ................................................................................ 26 2.2. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Nga........................................................ 26 2.3. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Hàn Quốc .............................................. 29 2.4. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Nhật Bản ............................................... 32 2.5. Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Trung Quốc và lục địa Đài Loan .......... 35 i Chƣơng 3. TIẾP NHẬN TRUYỀN KỲ MẠN LỤC THỜI KÌ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM .................................................................................................... 39 3.1. Khái quát về đội ngũ các nhà nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục ở Việt Nam ................................................................................................................. 39 3.2. Tiếp nhận các phương diện nội dung Truyền kỳ mạn lục........................ 41 3.3. Tiếp nhận các phương diện nghệ thuật Truyền kỳ mạn lục ..................... 46 3.4. Nghiên cứu so sánh Truyền kỳ mạn lục ................................................... 56 3.5. Truyền kỳ mạn lục trong nhà trường ....................................................... 80 KẾT LUẬN........................................................................................................ 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 88 ii QUY ƢỚC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Nxb: Nhà xuất bản H.: Hà Nội Tr.: trang Trong nội dung của luận văn này chúng tôi trích dẫn tư liệu nào sẽ được chú vào khung [X; Y]. X là số thứ tự đơn vị thư mục tham khảo, Y là ghi số trang trích dẫn tư liệu tham khảo. iii PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chúng tôi chọn đề tài Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kì Đổi mới bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng chủ yếu vẫn là xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của đề tài với một số lý do như sau: Truyền kỳ mạn lục phản ánh tình hình tư tưởng của thời đại. Nguyễn Dữ viết tác phẩm cơ bản theo quan điểm Nho giáo. Bên cạnh tư tưởng Nho giáo còn có ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và ảnh hưởng văn hóa dân gian. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu những quan điểm tiếp nhận của các nhà nghiên cứu tác phẩm trong và ngoài nước để thấy được sự mới mẻ, khác biệt của Truyền kỳ mạn lục so với các tác phẩm khác. Giới nghiên cứu thế kỉ XX xem Truyền kỳ mạn lục như là sự mở đầu và mẫu mực của sáng tác truyền kì trong văn học Việt Nam trung đại, tác động vào sự phát triển của đề tài này, với sự xuất hiện sau nó những tác phẩm như Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Lan trì kiến văn tiểu lục của Vũ Trinh và nhiều tác phẩm khác. Trong chương trình hiện nay, một số thiên truyện của tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy chính thức hoặc đọc thêm ở trường phổ thông. Điều này khẳng định giá trị thẩm mỹ và ý nghĩa giáo dục của Truyền kỳ mạn lục. Tác phẩm đã được tuyển chọn giảng dạy ở nhiều cấp học: Chuyện Người con gái Nam Xương được học ở lớp 9, Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên được học ở lớp 10, toàn bộ 20 thiên truyện được giới thiệu trong chương trình giảng dạy Đại học và Cao đẳng. Thời kì Đổi mới cũng là thời kì mà cái nhìn cũng rộng mở, tự do ngôn luận hơn. Sự tiếp nhận các tác phẩm trong và ngoài nước có phần thuận lợi hơn. Cũng vì thế mà chúng ta biết đến Truyền kỳ mạn lục không chỉ được các nhà nghiên cứu trong nước quan tâm mà các nhà Việt học nước ngoài cũng đặc biệt chú ý. Trong thời kì Đổi mới, họ đưa ra khá nhiều công trình nghiên cứu, 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn chuyên luận… đối với tác phẩm. Về phía giới nghiên cứu trong nước cũng có điều kiện thuận lợi khi tiếp cận với những lý giải mới mẻ của các nhà Việt học về Truyền kỳ mạn lục, giúp chúng ta hiểu được các nhà Việt học nước ngoài có khảo sát, đánh giá gì khác với các nhà nghiên cứu trong nước và cũng phần nào nhìn nhận được vị trí của Truyền kỳ mạn lục nói riêng cũng như văn học Việt Nam trên tầm mức khu vực và thế giới. Truyền kỳ mạn lục cũng được nhiều độc giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Như vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu việc tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở trong nước cũng như một số quốc gia trên thế giới, việc tiếp nhận tác phẩm trong nhà trường mà chủ thể là các em học sinh, sinh viên . 2. Lịch sử vấn đề Tìm hiểu lịch sử vấn đề Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục thời kì Đổi mới ở Việt Nam, chúng ta thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học về Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và khá nhiều những bài báo và công trình nghiên cứu về quá trình tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu đã có sự tự ý thức về vấn đề tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục. Quá trình Đổi mới các phương hướng nghiên cứu văn học, trong đó có nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam - giai đoạn từ khoảng 1986 đến nay – đã đã đưa đến những đóng góp và thành tựu mới trong hoạt động nghiên cứu và tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Việt Nam cũng như ở một số nước trong khu vực và thế giới. Truyền kỳ mạn lục có tiếng vang lớn trong giới nho sĩ sáng tác gần như ngay từ khi sinh thời tác giả (thế kỷ XVI). Việc Nguyễn Thế Nghi, người cùng thời với Nguyễn Dữ, đem dịch Nôm đã chứng tỏ điều này. Ở các thời sau nhiều người như Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Khuyến có các bài thơ vịnh các nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Trong lời đề tựa, tác giả Bùi Duy Tân gọi đây là “áng văn hay của bậc đại gia”, là “thiên cổ kỳ bút”, tuy chưa tính đến mức độ vay mượn, cũng cho thấy sự đánh giá cao. 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Trong Hội thảo quốc tế “90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam”, do Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia và Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp tổ chức tại Hà Nội vào tháng 12 năm 1992, Giáo sư Xuyên Bản (Kawanmoto Kurunie), Đại học Tổng hợp Keio đã có bài tham luận với tựa đề “Những vấn đề khác nhau liên quan đến “Truyền kỳ mạn lục” (Lịch sử sáng tác, xuất bản và sự nghiên cứu tập truyện theo cách nhìn của văn học so sánh) (Bản tiếng Pháp, Ngân Xuyên dịch). Ngoài việc đi sâu nghiên cứu tác giả và văn bản Truyền kỳ mạn lục, tác giả cũng so sánh phương pháp cải biên của Truyền kỳ mạn lục với Ca tỳ tử và đưa ra những nhận xét về sự khác biệt trong quan điểm của tác giả thuộc hai quốc gia với hai nền văn hóa khác nhau. Nhà nghiên cứu Nguyễn Nam trong công trình nghiên cứu có ý nghĩa tổng thành Phiên dịch học lịch sử - văn hóa: trường hợp Truyền kỳ mạn lục đã vận dụng lý thuyết phiên dịch học vào khảo sát Truyền kỳ mạn lục điểm qua bản phiên Nôm của Nguyễn Thế Nghi (Thế kỉ XVI-XVII), Trần Gia Du (1876) và các bản trích dịch, lược dịch, tuyển dịch, tổng dịch ra chữ Quốc ngữ của Trần Đại Học trên Gia Định báo (1891) ở Sài Gòn, của học giả người Pháp E. Nordeman trong bộ Quảng tập viêm văn (1898) ở Hà Nội, sau đó là nhiều bản dịch Việt ngữ trong thế kỉ XX của các dịch giả Cát Thành Trần Thúy, Phan Kế Bính, Cao Thiện Khánh, Trúc Khê Ngô Văn Triện, Thứ Lang Bùi Xuân Trang… Với mỗi bản dịch, nhà nghiên cứu đều có phân tích, đánh giá quan niệm văn bản, dịch thuật, nhu cầu xã hội về tác phẩm, phương thức in ấn, truyền bá, tâm lý tiếp nhận của độc giả, đặc điểm nghệ thuật truyền đạt ngôn từ, mức độ thành công và những hạn chế. Tất cả những điều đó hợp lại không chỉ cung cấp lịch sử vấn đề dịch bản Truyền kỳ mạn lục mà còn giúp người đọc hình dung đầy đủ hơn mối quan hệ giữa văn học và văn hóa, mức độ tiến triển nghệ thuật phiên dịch và khả năng tự ý thức về đối tượng qua các thời đại, giai đoạn, thời kì. Chiều sâu tư duy nghiên cứu và biên giới khoa nghiên cứu văn 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn học được mở rộng chính bởi ngày càng có thêm nhiều những khảo luận chuyên sâu như thế. Sau khi nghiên cứu so sánh hai tác phẩm Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, nhà nghiên cứu ở Đài Loan Trần Ích Nguyên nhận xét: “Mạn lục chịu ảnh hưởng rõ rệt của Tân thoại song không phải là sự sao chép cứng nhắc mà là kết tinh của việc Nguyễn Dữ vận dụng trí tuệ để gia công sáng tác. Sách vừa tiếp thu thành phần ưu tú của dân tộc nước ngoài, vừa không quên bắt rễ ở mảnh đất nước mình, vì vậy mặc dù sáng tác bằng Hán văn song sách vẫn không mất đi phần có giá trị là văn học dân tộc Việt Nam” [54; 285]. Phạm Tú Châu đánh giá về công trình nghiên cứu của tác giả Trần Ích Nguyên trong cuốn Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, tác giả cũng bỏ nhiều công sức để tìm nguồn gốc của Truyền kỳ mạn lục. Ngoài ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại ra, tác giả còn đưa ra nhiều dẫn chứng để khẳng định Nguyễn Dữ đã vay mượn thần thoại, chí quái của nước nhà, đưa cả truyền thuyết dân gian địa phương vào truyện của mình. Chính sự ham hiểu biết nền văn hóa trong và ngoài nước, Nguyễn Dữ đã nhào nặn vốn kiến thức và sự sáng tạo của chính bản thân sáng tác thành những thiên truyện hay, có giá trị trong lịch sử truyền kì nước nhà và đóng góp cho cả lịch sử thể loại truyền kì thế giới. Trong chuyên khảo Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc Trung Quốc - Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục in tại Việt Nam năm 2004, nhà nghiên cứu Hàn Quốc Jeon Hye Kyung (Toàn Huệ Khanh) xác định hai tác phẩm Kim Ngao tân thoại và Truyền kỳ mạn lục đều chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, nhưng tác giả cũng lý giải hai tác phẩm đó không hoàn toàn là sự mô phỏng vay mượn một cách đơn giản mà chịu ảnh hưởng một cách toàn thể từ phương diện thể loại tiểu thuyết truyền kỳ để sáng tạo nên tác phẩm truyền kỳ của riêng mỗi nước - vừa mang những đặc điểm thể loại tác phẩm chung, vừa mang những 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn nét riêng về tác giả cũng như văn hóa, địa lý mỗi quốc gia. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu so sánh để làm sáng tỏ đặc trưng của tác phẩm, trong đó lấy Tiễn đăng tân thoại làm thước đo để xem xét diện mạo biến đổi của Kim Ngao tân thoại và Truyền kỳ mạn lục về tác giả, tác phẩm và văn hóa, từ đó nêu ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ ba nước. Tác giả có kết luận sự giống nhau và khác nhau trên các phương diện thể loại, cốt truyện, nhân vật, môtip, truyền thống văn hóa dân tộc. Từ những dẫn giải trên, học giả Jeon Hye Kyung đi đến kết luận: “Về quan hệ ảnh hưởng, ta thấy Truyền kỳ mạn lục và Kim ngao tân thoại có nhiều chỗ được coi là chứng cứ chịu ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại, nhưng Truyền kỳ mạn lục có thể được coi là chịu ảnh hưởng toàn diện về nhiều mặt của Tiễn đăng tân thoại; còn Kim ngao tân thoại đã mô phỏng nhiều phần các mô típ của các truyện cá biệt trong Tiễn đăng tân thoại nhưng về mặt phương pháp sáng tác, tác giả đã sử dụng lối viết một cách nhất quán để thể hiện tư tưởng của mình nên đã thể hiện rõ động cơ sáng tác và ý thức sáng tác của tác giả trong ba tác phẩm” [18; 187-188]. Qua thời gian dài tiếp cận Truyền kỳ mạn lục, nhiều vấn đề học thuật đã được đặt ra, mở rộng và nâng cao, ngày càng toàn diện, hệ thống và chuyên sâu hơn. Từ việc chỉ khảo sát, giới thiệu riêng tác phẩm Truyền kỳ mạn lục đã tiến tới nghiên cứu so sánh tập truyện “thiên cổ kỳ bút” này với các tác phẩm cùng trong vùng Đông Á như Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc), Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Hàn Quốc), Ca tỳ tử của Nhật Bản nhằm cho thấy những ảnh hưởng và vay mượn, tiếp nhận và sáng tạo, tiếp nối và phát triển giữa Nguyễn Dữ với Cù Hựu. Theo nhiều mức độ khác nhau, do trình độ nghiên cứu ngày một nâng cao, ngày càng tiếp nhận được những phương pháp mới và kinh nghiệm từ các nhà nghiên cứu nước ngoài tác động mạnh mẽ đến giới nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục trong nước. Bước sang giai đoạn Đổi mới từ 1986 đến nay có thể kể đến một số công trình nghiên cứu, giới thiệu, tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục tiêu biểu ở trong nước như: Nguyễn Phạm Hùng với Tìm 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn hiểu khuynh hướng sáng tác trong “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Tạp chí Văn học, số 2- 1987, tr.65-76 (In lại trong Trên hành trình văn học trung đại. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.487-506); Phạm Tú Châu: Về mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn lục”. Tạp chí Văn học, số 3- 1987, tr.71-78; Vũ Thanh: Những biến đổi của yếu tố “kỳ” và “thực” trong truyện truyền kỳ Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 6-1994, tr.25-42; Trần Đình Sử: So sánh văn học và văn hoá - Nguyễn Dữ và tiên thoại Trung Quốc qua truyện Từ Thức lấy vợ tiên. Tạp chí Văn học, số 5-2000, tr.21- 26; Quá trình truyền nhập và lưu hành “Tiễn đăng tân thoại” ở Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 5- 2001, tr.65-71; Nguyễn Nam: Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương (Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương”). Nghiên cứu Văn học, số 4-2004, tr.49-63; Đinh Phan Cẩm Vân: Góp thêm vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa “Chuyện cây gạo” và “Chiếc đèn mẫu đơn”. Nghiên cứu Văn học, số 6-2005, tr.50-55; Nguyễn Nam: Phiên dịch học lịch sử - văn hoá: Trường hợp “Truyền kỳ mạn lục” (Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2002, 474 trang); Vũ Thanh: Chương VI- Truyền kỳ mạn lục, trong sách Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử - Thi pháp – Chân dung (Nxb. Giáo dục, H., 2007, tr.172-215; Trần Nho Thìn: Truyền kỳ mạn lục, trong sách Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX (Nxb. Giáo dục Việt Nam, H., 2012, tr.372-410)… Cùng với các tác giả trên, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn cũng có một số bài viết như: Đọc Phiên dịch học lịch sử - văn hóa: trường hợp Truyền kỳ mạn lục. Tạp chí Văn học, số 1-2004, tr.123-126; Đọc Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc - Trung Quốc - Việt Nam. Giáo dục và thời đại, số 15, ra ngày 3-2-2005, tr.9; “Văn học sử Hàn Quốc - Từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX”. Giáo dục và thời đại, số 47, ra ngày 20-4-2006, tr.9; Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên, trong sách Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 10 nâng cao (Nguyễn Khắc Phi chủ biên). Nxb. Giáo dục, H., 2006, tr.155-159; So sánh kiểu truyện “người lạc cõi tiên” trong văn học Việt Nam với tiểu thuyết Cửu 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn vân mộng (Hàn Quốc). Nghiên cứu Văn học, số 6-2008, tr.78-86; Tác phẩm Kim Ngao tân thoại của Hàn Quốc và quá trình tiếp nhận, nghiên cứu tại Việt Nam, trong sách Thúc đẩy Hàn Quốc học ở Việt Nam. Nxb. Thế giới, H., 2010, tr.199-211; Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục – từ điểm nhìn văn học so sánh, bàn về mối quan hệ giữa truyền thống và giáo lưu, hội nhập văn hóa, trong sách Kỷ yếu Hội thảo Khoa học 50 năm Trường Đại học Vinh, Tập II, tháng 10-2009, tr.105-210; Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng tạo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Nghiên cứu văn học, số 1-2010, tr.30-40… Lịch sử nghiên cứu của Truyền kỳ mạn lục đã hình thành lâu dài, nhiều vấn đề cơ bản về nội dung và nghệ thuật đã được đề cập đến. Trong giai đoạn Đổi mới từ 1986 đến nay, việc nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục đã có bước tiến vượt bậc và bản thân tiến trình nghiên cứu ấy đã đủ làm thành lịch sử của những khuynh hướng tiếp nhận khác nhau, từ đó đặt ra yêu cầu cần đánh giá lại một quá trình tiếp nhận, nói khác đi là vấn đề tiếp nhận, nghiên cứu về một giai đoạn nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục. Kế thừa những công trình nghiên cứu của các thế hệ đi trước, luận văn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kì Đổi mới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng của đề tài: Việc tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kì Đổi mới. Phạm vi luận văn của chúng tôi là sơ bộ tiếp cận một số vấn đề liên quan đến tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ trong thời kì Đổi mới. Những vấn đề mà chúng tôi đề cập đến trong luận văn này không phải là toàn bộ các vấn đề liên quan đến lý thuyết tiếp nhận qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mà chỉ quan tâm mức giới hạn hoạt động nghiên cứu, tiếp nhận tác phẩm trong thời kì Đổi mới. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn chính là những những nhận định, phản ứng trực tiếp hoặc gián tiếp của giới nghiên cứu và người đọc đối với tác giả, tác phẩm Truyền kỳ mạn lục. Đặc 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn biệt với thành tựu nghiên cứu, tiếp nhận của giới Việt học người nước ngoài, chúng tôi dựa chủ yếu vào các công trình nghiên cứu, dịch thuật của họ đã được giới thiệu, xuất bản tại Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ thời kì Đổi mới, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp cơ bản sau. - Phương pháp thống kê Trên cơ sở tập hợp, khảo sát các công trình nghiên cứu Truyền kỳ mạn lục từ khoảng năm 1986 đến nay, luận văn tiến hành thống kê và phân loại các định hướng nghiên cứu và tiếp nhận tác phẩm. Đó là cơ sở khoa học chứng minh cho những luận điểm mà chúng tôi sẽ trình bày trong luận văn của mình. - Phương pháp phân tích Luận văn vận dụng phương pháp này để phân tích cụ thể các cứ liệu đã thống kê, từ đó đưa ra nhận xét cho các đặc điểm nêu ở luận điểm. Kết quả thu được từ sự phân tích này sẽ là những luận cứ khảo chứng cho các luận điểm mà chúng tôi đề xuất trong đề tài. - Phương pháp tổng hợp và hệ thống Bên cạnh việc thống kê, phân loại, phân tích, chúng tôi còn tiến hành so sánh đối chiếu hoạt động tiếp nhận giữa Truyền kỳ mạn lục với một số tác phẩm truyền kỳ xuất hiện ở các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Dựa trên các sự phân tích còn có những thao tác tổng hợp, xem xét, đánh giá tác phẩm trong hệ thống văn học trung đại. Qua phân tích, so sánh, chúng tôi có điều kiện mở rộng nghiên cứu tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục không chỉ ở Việt Nam mà còn ở Trung Quốc, lục địa Đài Loan, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản... Mở rộng so sánh như vậy, chúng tôi hy vọng sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Việt Nam và trên thế giới. 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Với đề tài Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ trong thời kì Đổi mới, chúng tôi tiến hành tiếp cận trên một số vấn đề sau: Chúng tôi đề cập một số nét cơ bản tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận tác phẩm Truyền kỳ mạn lục trên thế giới và ở Việt Nam thời kì Đổi mới như thế nào? Và dựa vào những khái niệm cơ bản và tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận để thấy được giá trị đích thực cũng như vị trí của tác phẩm đối với nền văn học Việt Nam nói riêng và nền văn học thế giới nói chung. Trên cơ sở những tiếp nhận của các nhà Việt học trong nước và ngoài nước, chúng tôi muốn sử dụng lý thuyết tiếp nhận để tiến hành nghiên cứu các quan điểm về tác phẩm, tìm hiểu những yếu tố mới, các quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu trong thời kì Đổi mới ở Việt Nam và trên thế giới. Với đề tài Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ trong thời kì Đổi mới, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn bộ tiến trình tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của độc giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam mà chỉ tiếp cận một số vấn đề có liên quan đến việc độc giả tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ để sơ bộ lý giải và làm cơ sở định hướng cho những nghiên cứu dài hơn. Những vấn đề như công việc dịch, vấn đề chuyển mã văn bản sang chữ Quốc ngữ không được đề cập chi tiết trong đề tài này. Với kết quả nghiên cứu trên đây, chúng ta có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho học sinh, sinh viên và nhiều đối tượng khác có nhu cầu tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến lý thuyết tiếp nhận và một số vấn đề nổi bật trong tiến trình tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ trong thời kì Đổi mới. Ngoài việc vay mượn tác phẩm của Cù Hựu, ta còn thấy dấu vết của các truyền thuyết dân gian, tác phẩm vẫn chứng tỏ một ý thức về quyền hư cấu nghệ thuật của tác giả. Ông sáng tạo các truyện lạ chứ không chỉ là ghi lại những truyền thuyết, những chi tiết huyền hoặc xung quanh các nhân vật. 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Việc nghiên cứu đề tài còn để thấy được cách tiếp nhận tác phẩm từ cơ sở văn hóa của các quốc gia khác nhau thời kì Đổi mới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng đối với một tác phẩm được đánh giá là “thiên cổ kì bút” trong tiến trình văn học trung đại Việt Nam. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương như sau: Chương 1- Lý thuyết tiếp nhận và những nhân tố tác động đến quá trình tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục Chương 2- Các nhà Việt học ở nước ngoài tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục thời kỳ Đổi mới Chương 3- Tiếp nhận Truyền kỳ mạn lục ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1 LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN TRUYỀN KÌ MẠN LỤC 1.1. Khái lƣợc về lý thuyết tiếp nhận Tiếp nhận văn chương là hoạt động tiêu dùng, thưởng thức, phê bình văn học của độc giả thuộc nhiều loại hình, nhiều trình độ khác nhau. Có sáng tác văn học thì dĩ nhiên có tiếp nhận văn học và chính sự tiếp nhận văn học đã tác động ngược trở lại sáng tác, khiến cho cả hai thực sự góp phần làm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu thẩm mỹ của con người trong cuộc sống Theo Từ điển thuật ngữ văn học: Tiếp nhận văn học là quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tình cảm, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của nhà văn… đến sản phẩm sau khi đọc: Cách hiểu, ấn tượng, trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch. Tiếp nhận văn học có liên quan đến các khái niệm: Đọc văn bản, đọc văn chương, tiếp nhận văn chương, cảm thụ văn chương, tiếp thu, thưởng thức… Khác với “Tiếp nhận” là khái niệm chỉ hoạt động tiếp thu (đọc, nghe, xem) tác phẩm (gồm cả sáng tác văn học và khoa học) với nhiều mục đích khác nhau, để hiểu biết, giải trí, thưởng thức, khảo cứu… Tiếp nhận văn học là khái niệm chỉ việc tiếp thu những sáng tác văn học, là chỉ cách tiếp thu thiên vể thưởng thức, cảm thụ. Tuy vậy, tiếp nhận văn học cũng khác với cảm thụ văn học. Cảm thụ văn học là sự nhận biết bằng cảm tính trực cảm, nó là tiền đề để đi vào tác phẩm. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự bộc lộ của cá tính, thị hiếu, lập trường xã hội, sự tán thành hay phản đối… Do đó, khái niệm tiếp nhận văn học bao quát hơn và bao hàm các khái niệm “Cảm thụ”, “Thưởng thức”, “Lý giải văn học”. Tiếp nhận văn học là một hoạt động sáng tạo, nó làm cho tác phẩm không đứng yên mà luôn luôn lớn lên, phong phú thêm. Tính sáng tạo của tiếp 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn nhận văn học đã được khẳng định từ lâu, nhà ngữ văn Nga Pôlepnhia đã nói: Chúng ta có thể hiểu được tác phẩm thi ca chừng nào chúng ta tham gia vào việc sáng tạo nó. Nói tóm lại, với tư cách là phương pháp luận, tiếp nhận văn học đã đem lại ánh sáng mới, đã mở rộng phạm vi nghiên cứu văn chương, mở thêm một lối đi cho khảo sát văn chương khiến nó không bị đóng khung trong việc xem xét mối quan hệ nhà văn và tác phẩm. Hoạt động văn học từ xưa đến nay vận hành theo ba khâu: Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc. Mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn đọc đã từ rất lâu được người ta ít nhiều đề cập. Hoạt động tiếp nhận chỉ thực sự được đặt ra một cách có hệ thống từ khi văn học thành văn ra đời. Lý luận tiếp nhận văn chương theo kiểu truyền thống quan niệm tiếp nhận văn chương ở hai dạng: tri âm và ký thác. Tiếp nhận theo kiểu tri âm: Là tiếp nhận tác phẩm theo đúng ý đồ của tác giả. Sự cắt nghĩa và hiểu tác phẩm ở người đọc trùng khít với ý định của tác giả ký gởi vào tác phẩm từ giữa ý đồ tác giả, ý đồ của người lý giải nằm trong cùng một vòng tròn đồng tâm. Tri âm là biểu hiện tột cùng của sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Tiếp nhận theo kiểu này là tiếp nhận mang tính chủ quan, người ta quan niệm rằng tác phẩm được viết là để dành riêng cho những người sánh văn chương, có khả năng đi sâu tìm hiểu dụng tâm, dụng ý, nỗi lòng của tác giả, chứ không phải viết ra cho đông đảo độc giả công chúng ngoài xã hội thưởng thức, tiếp nhận. Quan điểm tiếp nhận theo kiểu tri âm đòi hỏi sự gặp gỡ, đồng điệu tuyệt đối giữa người sáng tác và bạn đọc, nhưng trên thực tế việc này rất khó khăn. Tiếp nhận theo kiểu ký thác: Là sự tiếp nhận mà người đọc mượn tác phẩm để biểu lộ nỗi lòng của mình đối với cuộc đời. Do đó, tác phẩm văn chương được coi như là một phương tiện để người đọc giải bày tấm lòng, gửi gắm những quan niệm nhân sinh, những cảm xúc về thế cuộc hoặc những vấn 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn đề bức thiết của cuộc sống mà trong một chừng mực nào đó người đọc không có điều kiện để nói ra một cách trực diện. Tiếp nhận theo kiểu tri âm và ký thác gặp nhau ở tính đồng cảm giữa tác phẩm và bạn đọc. Với lý luận tiếp nhận, văn chương hiện đại thừa nhận tác phẩm văn chương là một loại hàng hóa đặc thù. Đó là một loại hàng hóa tinh thần do nhà văn sáng tạo nên nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống của con người trong xã hội. Nó có những thước đo chất lượng và giá trị tiêu dùng rất khác nhau giữa mọi người. Do tác phẩm văn chương được xem như một loại hàng hóa nên tiếp nhận văn chương vượt ra ngoài tính cá thể riêng biệt, nó mang tính xã hội cao. Tiếp nhận văn chương hiện đại xác định đối tượng bạn đọc là tầng lớp công chúng rộng rãi, có nhu cầu và sở thích khác nhau. Lý luận tiếp nhận văn chương hiện đại thực ra không phải là sự phủ nhận lý luận tiếp nhận truyền thống, mà là sự bổ sung thêm bình diện xã hội và văn hóa lịch sử. Lý luận tiếp nhận hiện đại vừa kế thừa những mặt tích cực của tiếp nhận truyền thống, vừa không ngừng mở rộng giới hạn nghiên cứu của mình: Đi sâu khám phá những cấp độ khác nhau, lý giải về tính quy luật của hoạt động tiếp nhận… Nhờ vậy mà cơ chế phức tạp của hoạt động này ngày càng được nhận thức một cách khoa học và đầy đủ hơn. Tác phẩm văn chương mang tính đa nghĩa, mỗi người đứng ở góc độ khác nhau để khám phá, phát hiện những điểm khác nhau. Do vậy sẽ tạo ra chân trời tự do cho việc tiếp nhận. Ngoài ra, tác phẩm không phải là sản phẩm cố định mà là một quá trình, một sự đi tìm, một sự khám phá chứ không phải là sự minh họa cho một kết luận có sẵn. Chính vì vậy sẽ tạo cơ hội cho những lý giải, những tiếp nối, những kết luận khác nhau. Người đọc đa dạng dẫn đến sự đa dạng trong tiếp nhận văn học. Mỗi loại người đọc có một cách tiếp nhận khác nhau. Có người đọc để thưởng 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn thức, nghiên cứu, phê bình… Có người quan tâm đến nội dung tư tưởng, có người quan tâm đến hình thức nghệ thuật. Vì vậy, cùng một tác phẩm có thể có nhiều cách cảm nhận khác nhau, đánh giá khác nhau (người tán đồng, người phê phán). Người đọc đa dạng về trình độ, lứa tuổi, kinh nghiệm, nghề nghiệp, giới tính, địa vị xã hội… cũng sẽ dẫn đến tiếp nhận khác nhau trong cùng một tác phẩm. Tiếp nhận văn học mang đậm dấu ấn chủ quan, gắn liến với thị hiếu, tình cảm của mỗi người. Giá trị của tác phẩm không phải là cố cộng cách tiếp nhận nó, có cách tiếp nhận đúng nhưng lại có cách tiếp nhận sai lệch. Trong các cách tiếp nhận tác phẩm có chỗ đúng, chỗ sai nhưng không có nghĩa là chỉ có một cách tiếp nhận nào đó là duy nhất đúng. Một tác phẩm có thể có nhiều cách tiếp nhận khác nhau và có thể đều tỏ ra hợp lý, điều này gắn với sự đa nghĩa của tác phẩm văn học. Vấn đề lý luận tiếp nhận đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình. Đã có những bài nhiên cứu về vấn đề này xuất hiện trên các báo, tạp chí: Năm 1974, trên Tạp chí Văn học số 4, Nguyễn Văn Hạnh đã đề cập vấn đề này như một “khâu thường thức”. Năm 1980, Hoàng Trinh tìm hiểu vấn đề tiếp nhận văn học trong mối quan hệ với văn học so sánh. Ông đã đưa ra các „hình thái” và “cấp độ tiếp nhận” (Tạp chí Văn học, số 4/1980). Ở nước ta khi mà giáo trình Lý luận văn học đã có bài “Tiếp nhận văn học” thì công chúng tiếp nhận văn học từ năm 1986 trở về đây đã khác so với công chúng tiếp nhận văn học trước năm 1985 rất nhiều. Người ta không còn đến với tác phẩm văn học như là đến với bản sao của hiện thực để xem các nhân vật trong tác phẩm có giống ngoài hiện thực, “ngang tầm” với hiện thực hay không, mà chủ yếu để xem tác phẩm văn học nói gì về hiện thực, có tư tưởng gì mới về hiện thực. 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan