Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn tiếp cận sáng tác của nguyễn ngọc tư và đỗ bích thúy từ phương diện giá...

Tài liệu Luận văn tiếp cận sáng tác của nguyễn ngọc tư và đỗ bích thúy từ phương diện giá trị văn học văn hóa

.PDF
140
62
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  DƯƠNG THỊ KIM THOA TIẾP CẬN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ VÀ ĐỖ BÍCH THÚY TỪ PHƯƠNG DIỆN GIÁ TRỊ VĂN HỌC – VĂN HÓA Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34. LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN PGS.TS. Vũ Tuấn Anh HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài ............................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................... 4 a) Các bài nghiên cứu, phê bình về Nguyễn Ngọc Tƣ có nhấn mạnh đến vấn đề văn hoá. 5 b) Các bài nghiên cứu, phê bình về Đỗ Bích Thuý có nhấn mạnh đến vấn đề văn hoá ... 12 3. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................................... 15 4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................................. 15 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................................... 17 CHƢƠNG I: TIẾP CẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ ........................ 17 1. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và văn học............................................................ 17 a. Mối quan hệ và sự chi phối giữa văn hoá và văn học trong quan niệm của giới học giả thế giới và trong nƣớc ....................................................................................................... 17 b. Sự tác động trở lại văn hoá của văn học ....................................................................... 21 c. Văn học khai thác giá trị văn hoá – một “dòng riêng giữa nguồn chung” .................... 23 2. Nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ và Đỗ Bích Thuý từ góc độ văn hoá .......... 30 CHƢƠNG II: TỪ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG ĐẾN “VÙNG THẨM MỸ” CỦA VĂN CHƢƠNG ................................................................................................................................. 38 2.1 Nguyễn Ngọc Tƣ - Sự phản ánh sinh động đời sống sinh hoạt, tâm lý của ngƣời dân miền Nam .............................................................................................................................. 38 2.1.2 Nam Bộ là vùng đất phong phú tài nguyên thiên nhiên nhƣng còn nhiều ngƣời nghèo khổ .......................................................................................................................... 45 2.1.3 Đời sống hiện đại của ngƣời dân trong không gian sinh hoạt Nam Bộ ................... 47 2.2 Đỗ Bích Thuý – Nhà văn thành công với mảng đề tài miền núi và dân tộc thiểu số..... 49 2.2.1 Đỗ Bích Thuý tái hiện thành công mảng không gian hiện thực miền núi phía Bắc với những trang văn miêu tả phong cảnh giàu chất thơ .................................................... 49 2.2.2 Cuộc sống, sinh hoạt của ngƣời dân miền núi đƣợc phác hoạ rõ nét....................... 52 CHƢƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI VÀ THÁCH THỨC CỦA CUỘC SỐNG ĐƢƠNG ĐẠI .................................................................................................... 56 3.1 Tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ đi sâu vào những vấn đề thân phận con ngƣời, nhất là con ngƣời bé nhỏ, do vậy mà đậm chất nhân văn ................................................................. 56 3.1.1 Ám ảnh về sự phiêu dạt của kiếp ngƣời, về những trắc trở trong cuộc sống và nỗi đắm đuối vì nghề của các văn nghệ sỹ .............................................................................. 56 3.1.2 Ám ảnh về khát khao vƣơn tới hạnh phúc của con ngƣời ....................................... 59 3.1.3 Con ngƣời trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ dù thế nào vẫn luôn rất chí tình, chí nghĩa, luôn cố gắng xoá bỏ hận thù bằng lòng bao dung, nhân ái. ............................. 62 3.2 Tác phẩm của Đỗ Bích Thuý đặc biệt dụng công khai thác hình ảnh và thân phận ngƣời phụ nữ, đặc biệt là ngƣời phụ nữ dân tộc thiểu số ................................................................ 64 3.2.1 Hình ảnh ngƣời phụ nữ suốt đời chịu thƣơng chịu khó ........................................... 65 3.2.2 Hình ảnh ngƣời phụ nữ chịu nhiều thiệt thòi, bất công xã hội và thƣờng chịu nhiều mất mát, đau khổ trong tình yêu ....................................................................................... 67 3.2.3 Hình ảnh ngƣời phụ nữ bao dung, nhân hậu, thuỷ chung ........................................ 69 1 CHƢƠNG IV: NHỮNG ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN VĂN HOÁ VÀ NGÔN NGỮ............................................................................................................. 72 4.1 Những đặc trƣng nghệ thuật trong bút pháp của Nguyễn Ngọc Tƣ ................................ 72 4.1.1 Các biểu tƣợng văn hoá ........................................................................................... 72 a. Gió......................................................................................................................... 73 b. Dòng sông - Con thuyền ...................................................................................... 75 c. Cánh đồng ............................................................................................................. 76 4.1.2 Tính nhịp điệu rất rõ trong văn Nguyễn Ngọc Tƣ ................................................... 78 a. Sử dụng các cấu trúc lặp ....................................................................................... 78 b. Dùng các cấu trúc câu đăng đối về ý nghĩa, thanh điệu ........................................ 81 c. Nhịp điệu tạo nên từ mạch cảm xúc bên trong của nhân vật ................................ 81 4.1.3 Sắc sảo trong nghệ thuật miêu tả tâm lý, đặc biệt chú ý phân tích những đoạn đóng mở ngoặc đơn trong văn Nguyễn Ngọc Tƣ ...................................................................... 83 a. Phân tích tâm lý nhân vật thông qua chi tiết, sự việc nào đó ................................ 83 b. Phân tích tâm lý nhân vật qua tình huống giả định nào đó ................................... 85 c. Phân tích tâm lý nhân vật qua những bổ sung trong ngoặc đơn (nét nghệ thuật đặc biệt ở truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tƣ) ........................................................................... 86 4.1.4 Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ ................................................................................... 87 4.2 Những đặc trƣng nghệ thuật trong bút pháp viết truyện của nhà văn Đỗ Bích Thuý ..... 88 4.2.1 Ngôn ngữ - điểm nhìn ra chất văn hoá của ngƣời dân tộc trong tác phẩm của Đỗ Bích Thuý.......................................................................................................................... 89 4.2.2 Văn viết giàu hình ảnh, nhiều đoạn nhƣ những thƣớc phim quay chậm ................. 93 PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 95 PHỤ LỤC...................................................................................................................................... 96 PHỤ LỤC I : CẤU TRÖC LẶP TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƢ .............. 96 PHỤ LỤC II: THỐNG KÊ VỀ GIÓ ....................................................................................... 104 PHỤ LỤC III: THỐNG KÊ VỀ DÕNG SÔNG ..................................................................... 112 PHỤ LỤC IV: THỐNG KÊ VỀ CÁNH ĐỒNG ..................................................................... 118 PHỤ LỤC V: THỐNG KÊ VỀ NGHỆ THUẬT VÍ VON ..................................................... 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 136 I. SÁCH .................................................................................................................................. 136 II. BÁO, TẠP CHÍ .................................................................................................................. 137 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Trong khoảng gần chục năm trở lại đây, cái tên Nguyễn Ngọc Tƣ và Đỗ Bích Thuý đã trở nên khá quen thuộc với công chúng độc giả yêu văn học. Dƣ luận thoạt đầu chú ý tới họ chính vì bởi họ là những cây bút trẻ đoạt giải quán quân trong các cuộc thi viết truyện ngắn do các đơn vị có uy tín tổ chức. Nguyễn Ngọc Tƣ từng đạt giải nhất cuộc thi "Văn học tuổi 20 lần thứ II" do Nhà xuất bản Trẻ, Hội nhà văn TP HCM và báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2000 với tập truyện Ngọn đèn không tắt. Tập truyện này cũng đem lại cho cô giải thƣởng Văn học của Hội nhà văn Việt Nam năm 2001 và đƣợc chọn in lại trong "Tủ sách Vàng" của NXB Kim Đồng năm 2003. Không chỉ thế, Nguyễn Ngọc Tƣ còn đoạt giải 3 cuộc thi sáng tác truyện ngắn 2003-2004 của báo VN với truyện ngắn Đau gì như thể... Tuy thành tích không “dày dặn” nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ, nhƣng Đỗ Bích Thuý cũng đã để lại một dấu ấn không dễ quên với chùm truyện ngắn nộp vào chót hạn của cuộc thi truyện ngắn Tạp chí VNQĐ 1998-1999 nhƣng lại đem lại thứ hạng cao nhất cho cô. Đó là những truyện Sau những mùa trăng, Ngải đắng ở trên núi và Mùa nước nổi. Sau những thành công bƣớc đầu đó, độc giả bắt đầu ghi nhận những thành tựu vững vàng khẳng định phong cách và hƣớng đi của họ. Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ liên tục tái bản, tập truyện Ngọn đèn không tắt đã tái bản đến hơn mƣời lần, đặc biệt với tập truyện CĐBT, nếu không tính số lƣợng sách in ngoài luồng thì số lƣợt tái bản đã lên tới 16 lƣợt với hàng vạn bản. Truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (TĐMSBRĐ) của Đỗ Bích Thuý đã đƣợc dựng thành phim và bộ phim này đã đoạt giải Cánh diều vàng cho thể loại phim truyện nhựa trong liên hoan phim lần thứ V (2006-2007). Nếu theo số liệu thống kê của chúng tôi trên các báo Văn nghệ (VN), Văn nghệ trẻ (VNT), Tạp chí Văn nghệ quân đội (VNQĐ), Tạp chí Nghiên cứu văn học (NCVH) và một số trang báo mạng khác từ năm 2000 trở lại đây, đã có trên bốn mƣơi bài viết lớn nhỏ nói về hai nhà văn trẻ này. 3 Nhƣ khá nhiều ngƣời đã nhận ra, có một điều đặc biệt vô tình nhƣng đặc biệt thú vị, nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ là cây bút của vùng đất Cà Mau, cực Nam của tổ quốc còn nhà văn Đỗ Bích Thuý lại là cây bút của vùng đất Hà Giang, miền cực Bắc nƣớc ta. Đã có nhiều bài viết, bài nghiên cứu đặt hai tác giả trong vị thế so sánh để đặt ra những vấn đề riêng chung về đề tài, phong cách nhƣ Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ [29]; Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thuý và Nguyễn Ngọc Tư [35]; v.v. Một cảm nhận khá rõ với bất cứ độc giả nào khi tiếp cận tác phẩm của hai chị là chất văn hoá vùng miền nói riêng và văn hoá dân tộc nói chung thấm đẫm trong các trang văn, nói cách khác, trong tác phẩm của họ có một chiều sâu văn hoá, và đây chính là điểm mà luận văn này đặc biệt quan tâm. Chúng tôi muốn thông qua việc tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm của hai nhà văn này để khám phá rõ hơn giá trị văn hoá, văn học trong tác phẩm của họ. Một cây bút trẻ xuất sắc viết về vùng miền núi phía Bắc, một mạch văn trẻ độc đáo viết về vùng đồng bằng Nam Bộ, đây cũng chính là hai khu vực với hai sắc thái văn hoá đặc trƣng. Từ việc tiếp cận tác phẩm của hai tác giả từ phƣơng diện giá trị văn học – văn hoá nhƣ vậy, chúng tôi muốn khẳng định quan điểm, việc coi văn hoá nhƣ một cội rễ của văn học, là nền tảng, bệ đỡ của văn học đã và đang trở thành một hƣớng đi không thể thiếu trong văn chƣơng. Có thể nói, trong văn chƣơng từ trƣớc tới nay có rất nhiều hƣớng khai thác, khám phá cuộc sống, có những tác giả tìm về nguồn cội lịch sử để lý giải hiện thực nhƣ Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo; có nhà văn dùng chính hiện thực đời sống và những diễn biến tâm lý con ngƣời trong cuộc sống đó để đặt ra những vấn đề cần suy ngẫm của thời cuộc nhƣ Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh; v.v. và nhìn qua lăng kính văn hoá, dùng văn hoá để gắn kết, lý giải và bồi đắp tâm hồn con ngƣời theo chúng tôi cũng là một cách khám phá đời sống qua văn chƣơng theo chiều sâu rất đáng trân trọng của những tác giả nữ, những ngƣời tiếp nối của đội ngũ tác giả làm văn học. 2. Lịch sử vấn đề 4 Căn cứ vào thời điểm hai nhà văn trẻ chúng tôi tìm hiểu trong luận văn này xuất hiện và đƣợc công chúng biết đến là vào khoảng những năm 1999, 2000 và do số lƣợng ấn phẩm báo chí xuất bản trong hơn bảy năm qua là rất lớn nên chúng tôi lựa chọn tìm hiểu tƣ liệu trên các báo và tạp chí quan trọng nhất về văn học trên cả nƣớc là báo VN, VNT, VNQĐ và NCVH. Tất cả những ấn phẩm này đều đƣợc tìm hiểu trong khoảng thời gian từ năm 2000 trở lại đây. a) Các bài nghiên cứu, phê bình về Nguyễn Ngọc Tư có nhấn mạnh đến vấn đề văn hoá (bên cạnh đó là những bài nghiên cứu nhấn mạnh đến các khía cạnh khác), đặc biệt là Cánh đồng bất tận (CĐBT) Phải đến năm 2005, ngƣời ta mới chú ý nhiều hơn đến Nguyễn Ngọc Tƣ nhƣng với những ngƣời trong nghề, đặc biệt là ngƣời trực tiếp làm công tác biên tập mảng VN các báo thì hẳn là trƣớc đó năm, sáu năm, cái tên Nguyễn Ngọc Tƣ đã đƣợc lƣu tâm, cụ thể là sau những truyện ngắn đầu tiên đăng trên VNT nhƣ Con sáo sang sông (số 40, ra ngày 30/9/2000), Người xưa (số 20, ra ngày 19/5/2001), và đặc biệt là khi tập truyện Ngọn đèn không tắt của chị đoạt giải nhất cuộc Vận động sáng tác văn học tuổi 20 lần II. Ngay trong lời giới thiệu về tác giả Nguyễn Ngọc Tƣ trong truyện ngắn Ngổn ngang in trên VNT số 44, ra ngày 29/10/2000, trang 4, nhà văn Dạ Ngân đã cảm nhận rất rõ và đầy trân trọng chất văn hoá đậm đặc trong các tác phẩm của chị, bà viết: “Phải nói rằng Ngọn đèn không tắt rất dễ đọc. Nhƣng tôi không đọc một lƣợt. Vấn vƣơng, xao xuyến và vì sao cứ muốn đọc tới đọc lui, vì sao? Tôi nhớ đọt dừa bụi lá và ánh đèn ở đầm Bà Tƣờng, nhớ rau choại luộc và màu nƣớc diệp lục của sông Trẹm, nhớ bông súng trắng và tiếng chim bìm bịp ở Đầm Dơi, nhớ lắm. Cố gái đất Mũi nầy, cô nhà báo Nguyễn Ngọc Tƣ này cho tôi tất cả những thứ đó, tất cả những gì làm nên hai chữ Cà Mau, hay rộng hơn, U Minh. Có bản sắc Nam Bộ, nhƣng tôi là ngƣời miền Tây tôi hiểu, trong bản sắc ấy có văn hoá tiểu vùng, ngƣời Cà Mau, dân Cà Mau làm một tiểu vùng đặc biệt nên vừa có Võ Tòng vừa có Dạ cổ hoài lang…” Những cảm nhận ban đầu tinh tế này không chỉ đƣợc duy trì rất trọn vẹn mà bốn năm sau đó đã lại đƣợc bổ sung thêm những ghi nhận của bà trong sự đóng góp đầy nỗ lực của Nguyễn Ngọc Tƣ về 5 mặt ngôn ngữ. Trong bài Hỏi chuyện nhà văn Dạ Ngân: Nguyễn Ngọc Tư Điềm đạm mà thấu đáo [30], nhà văn Dạ Ngân đã không tiếc lời khen ngợi khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tƣ: “Cái cách tu từ của Tƣ là tuyệt vời. Tôi thấy phƣơng ngữ mà Ngọc Tƣ đƣa vào truyện bao giờ cũng có sự cân nhắc cho sự đóng góp vào vốn liếng chung của ngôn ngữ quốc gia. Những ngƣời bẩm sinh có tài năng lớn thì họ mới làm đƣợc cái đó chứ! Nó tự nhiên nhƣ không thôi! Thả cái chữ ra thì đúng là cái chữ đó thôi không phải cái chữ nào khác”. Vậy là theo đánh giá của nhà văn Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tƣ không chỉ biết trân trọng, vận dụng những giá trị văn hoá đặc trƣng đã có của vùng miền, của dân tộc, chị còn chủ động sáng tạo và đóng góp một cách có ý thức những giá trị văn hoá mới, những cách dùng ngôn ngữ mới, làm giàu thêm cho nền văn hoá dân tộc. Ở góc độ ngôn ngữ, tác giả Văn Công Hùng phần nào cũng chung cảm nhận với nhà văn Dạ Ngân khi viết: “Các câu thoại cũng thế. Đầy bất ngờ và lý thú, đậm đặc bản sắc Nam Bộ. Đậm đặc đến mức dẫu chƣa một lần tới Nam Bộ cũng thấy rõ nó hiện ra mồn một khi đọc văn Nguyễn Ngọc Tƣ. Chất Nam Bộ ấy ẩn chứa trong tâm hồn của những con ngƣời sống ở nơi tận cùng của tổ quốc, phóng khoáng và nhân hậu, thẳng thắn trung thực hết mình trong đời sống… Số phận cột họ vào mảnh đất này và họ sống chết với nó một cách dung dị cƣơng trực”[39]. Với tác giả Văn Công Hùng, đằng sau ngôn ngữ đầy chất Nam Bộ là những con ngƣời mang khí chất đặc trƣng của một vùng đất, là những bản sắc tâm hồn riêng không thể pha trộn với bất cứ vùng miền nào khác và Nguyễn Ngọc Tƣ đã mang đƣợc các bản sắc này vào truyện ngắn của mình thông qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Với Kiệt Tấn, một trong những ấn tƣợng sâu sắc nhất lƣu lại trong lòng anh sau khi đọc tác phẩm hai tập truyện Ngọn đèn không tắt và Giao thừa của Nguyễn Ngọc Tƣ cũng là nét văn hoá tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Cửu Long: những dòng sông, con nƣớc: “Còn một thứ không thể nào thiếu đƣợc trong tất cả các truyện của Nguyễn Ngọc Tƣ. Đó là sông nƣớc: sông bốn phía, nƣớc tƣ bề! Quơ chỗ nào cũng đụng nƣớc, ngó chỗ nào cũng thấy sông. Nƣớc là 6 nền, sông là dòng cho ngòi bút của Tƣ triền miên tuôn chảy, cuốn theo những chữ nghĩa đầy ắp tình ngƣời nhƣ phù sa lợn cợn. Sinh đẻ ở miệt Hậu giang, gắn bó với cuộc đất Cà Mau nhƣ Tƣ thì cũng không thể nào khác hơn đƣợc. Dứt sông là dứt hơi thở, cạn nƣớc là cạn máu huyết, là mất hết cái lẽ sống còn. Tƣ đặt tựa truyện: Dòng nhớ (tr. 47). Nhớ gì? Nhớ sông (tr. 154). Nhớ sông, nhớ nƣớc, nhớ da diết, nhớ dai dẳng, nhớ muốn khùng, nhớ muốn điên. Nhắm mắt vẫn thấy, hôn mê vẫn thấy” [48]. Cũng cần phải nói thêm rằng tác giả Kiệt Tấn nguyên là ngƣời gốc Bạc Liêu hiện đang sinh sống tại Pháp, hẳn là không ai có thể cảm nhận rõ đƣợc vẻ thuần hậu, mặn mòi của vùng đất miệt vƣờn Nam Bộ hơn chính những ngƣời con đã từng sinh ra tại đó. Vả chăng rất nhiều ngƣời biết rằng các thành phố, thị xã phía Nam nhƣ Mỹ Tho, Bến Tre, Cần Thơ, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau phần lớn đƣợc bao bọc bởi những con sông. Ba năm sau những dòng giới thiệu đầu tiên trên VNT thì Ngọc Tƣ mới bắt đầu “ngấp nghé” xuất hiện trên báo VN, cơ quan ngôn luận chính thức của Hội nhà văn Việt Nam qua bài viết Nhân vật người nông dân và nghệ sỹ trong Giao thừa của Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Nguyễn Tý. Trong bài viết này, bên cạnh nội dung chính bàn về kiểu nhân vật nông dân và nghệ sỹ trong các truyện ngắn của cây bút trẻ vùng đất Mũi thì Nguyễn Tý cũng đồng thuận trong cảm nhận về chất văn hoá trong văn phong của chị: “Quanh đi quẩn lại vẫn là chuyện sông nƣớc, cải lƣơng ở xứ đất Mũi Cà Mau. Nói rộng ra đó là vùng văn hoá Nam Bộ - đặc trƣng của cái nôi cải lƣơng gần một thế kỷ.” [49] Và cái nôi văn hoá đó đã trở thành mảnh đất di dƣỡng thị hiếu thẩm mỹ của Nguyễn Ngọc Tƣ theo nhƣ bài viết Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Trần Phỏng Diều: “Nguyễn Ngọc Tƣ là nhà văn của vùng đất Nam Bộ, tuổi thơ của chị đã gắn liền với những dòng sông uốn khúc, rừng đƣớc bạt ngàn, đồng lúa mênh mông… Do đó có thể nói, thị hiếu thẩm mỹ trong Nguyễn Ngọc Tƣ cũng chính là hình tƣợng ngƣời nghệ sỹ, hình tƣợng ngƣời nông dân và hình tƣợng con sông đƣa mình uốn khúc, chở nặng tình ngƣời” [33]. 7 Tuy nhiên, tính đến thời điểm này thì CĐBT vẫn là truyện ngắn đánh dấu sự thành công vƣợt trội của Nguyễn Ngọc Tƣ và số bài viết phê bình, nghiên cứu dành cho tác phẩm này cũng nhiều hơn cả. Truyện ngắn CĐBT của Nguyễn Ngọc Tƣ đăng lần đầu trên báo VN, số 33, ra ngày 13/8/2005 (trang 1, trang 16, trang 17) và đăng hai kỳ tiếp theo trên báo Việt Nam số 34 và số đặc biệt 35+36. Có thể nói khi mới xuất hiện, CĐBT không phải đã gây đƣợc tiếng vang ngay với công chúng yêu văn học, bằng chứng là sau khi nó xuất hiện tới hơn nửa năm, nhân có vụ việc Ban tuyên giáo tỉnh uỷ Cà Mau có ý kiến chỉ đạo Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ thì báo VN mới bắt đầu đăng các bài thảo luận về truyện ngắn này. Gạt ra ngoài những vấn đề phi văn chƣơng, có thể thấy khi bình luận về truyện ngắn CĐBT, cũng nhƣ mọi tác phẩm khác, có hai luồng ý kiến khen chê nhƣng rõ ràng khen nhiều hơn chê. Khi đề cập đến CĐBT, một lần nữa tác giả Trần Văn Sỹ lại khai thác giá trị ngôn ngữ và khả năng làm giàu ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tƣ trong bài Bức tranh quê buồn tím ngắt: “CĐBT đã khai thác ngôn từ địa phƣơng rất tài tình và có duyên lạ. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ giúp bạn đọc vùng đồng bằng sông Cửu Long càng yêu, càng tự tin hơn về ngôn ngữ địa phƣơng nơi mình sinh ra, lớn lên. Sử dụng đặc sệt ngôn ngữ địa phƣơng trong văn viết cũng nhƣ khẩu khí nhân vật nhƣng văn chƣơng không rƣờm rà, cầu kỳ mà có duyên lạ” [43]. Thế nhƣng theo quan điểm của nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng thì việc sử dụng phƣơng ngữ một cách đậm đặc nhƣ vậy sẽ làm đe doạ đến “ranh giới giữa văn chƣơng với lời ăn tiếng nói hàng ngày” [45], ông khẳng định: “Nếu coi ngôn ngữ văn chƣơng là yếu tố đầu tiên của văn chƣơng thì rõ ràng Nguyễn Ngọc Tƣ còn thiếu sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, kỹ lƣỡng đối với câu chữ…” [45] và “Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là mục đích sáng tác văn chƣơng. Tôi nghĩ nếu Nguyễn Ngọc Tƣ mới chỉ coi nó là phƣơng tiện thì cũng cần phải bỏ công sức nhiều hơn nữa để mài giũa, nâng cao làm cho tác phẩm của mình vƣợt qua đƣợc “lời ăn tiếng nói”, vƣợt qua đƣợc “vùng miền”. Đi ra biển phải đóng tàu to, phải trang bị hiện đại hơn là đi trong kênh rạch. Nguyễn Ngọc Tƣ đang đi từ trong kênh rạch ra biển lớn, thiết nghĩ, nhà văn phải có ý thức lao động nghệth uật nhiều hơn nữa để cho tác phẩm của mình trở thành “tài sản quốc 8 gia” [45]. Cũng ở bài nghiên cứu này, bên cạnh vấn đề ngôn ngữ, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng cũng chỉ ra vấn đề xây dựng biểu tƣợng văn chƣơng trong truyện ngắn CĐBT của Nguyễn Ngọc Tƣ. Theo ông, trong văn học thế giới cũng nhƣ văn học dân tộc, từ trƣớc đến nay, cánh đồng luôn coi là không gian sinh tồn của ngƣời nông dân bao đời, “nó đƣợc con ngƣời tôn kính, yêu mến nhƣ ngƣời mẹ hiền vĩ đại luôn sẵn sàng vắt kiệt bầu sữa - nguồn sức lực của mình - để nuôi dƣỡng đàn con (con ngƣời)”, nhƣng biểu tƣợng cánh đồng trong CĐBT của Nguyễn Ngọc Tƣ lại không đƣợc xây dựng theo cách đó mà là “cánh đồng chết”. Theo nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng, “CĐBT của Nguyễn Ngọc Tƣ, xét về mặt văn chƣơng, liên quan đến chủ thể sáng tác: Đó là sự bối rối, thiếu bình tĩnh của nhà văn. Sự bối rối này có căn nguyên từ sự non nớt, chƣa đủ bản lĩnh nghệ thuật của một cây bút trẻ sớm thành danh. Nhà văn sống trong hào quan, thứ hào quang do dƣ luận tạo nên chính trong khi bản thân thiếu một sự tự chuẩn bị toàn tiện về mặt kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghề nghiệp và quan trọng nhất là một “nền” văn hoá cần thiết” [45]. Ngay sau khi TCVH công bố bài viết của nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng thì tác giả Trần Thiện Khanh có bài phản hồi Bàn lại với tác giả Bùi Việt Thắng. Theo Trần Thiện Khanh, việc nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đòi hỏi Nguyễn Ngọc Tƣ phải xây dựng biểu tƣợng cánh đồng theo những chuẩn mực trƣớc đó trong văn chƣơng là điều hết sức phi lý, nhất là trong xu hƣớng tìm tòi, thể nghiệm mạnh mẽ nhƣ hiện nay. Tác giả bài viết cho rằng, truyện ngắn CĐBT “có dáng vóc một tiểu thuyết hiện thực, pha lẫn yếu tố kì ảo viết về thân thận con ngƣời bị bỏ rơi, héo hắt trên một cánh đồng hoang liêu nhất” [40]. Còn về nhận định liên quan đến tính phƣơng ngữ quá đậm đặc trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ mà nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đƣa ra, tác giả Trần Thiện Khanh bình luận. “Hoá ra, Bùi Việt Thắng đã xoá nhoà cá tính sáng tạo của chủ thể thẩm mĩ, ông muốn mọi tác phẩm phải giống nhau nhƣ đúc khuôn, ngay cả về hệ từ vựng và ngữ pháp. Đòi hỏi của Bùi Việt Thắng có phần ảo tƣởng” và “Không nên đo thế giới của Nguyễn Ngọc Tƣ bằng kích thƣớc ngôn ngữ khác” [40]. 9 Không chỉ xem xét, bình luận CĐBT ở phƣơng diện văn hoá, ngôn ngữ, rất nhiều nhà phê bình, nghiên cứu đã soi chiếu tác phẩm này ở những cách tiếp cận khác. Trong phần điểm bài viết của tác giả Trần Thiện Khanh phía trên, chúng tôi có trích dẫn ý kiến của ông khi nhắc tới yếu tố kỳ ảo pha lẫn hiện thực trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ, nhƣng trên thực tế, trƣớc Trần Thiện Khanh, nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào đã đề cập khá kỹ về tính kỳ ảo trong truyện ngắn CĐBT. Bà viết: “Ở thời đại chúng ta, ma quái không nằm ở bên ngoài. Nó nằm ở đƣờng biên nhạt nhoà giữa thực và ảo trƣớc sự tiếp nhận của ngƣời đọc và nhân vật… Ta còn thấy một thế giới đảo ngƣợc: khi những đứa con thấy cha mình sau cơn hoan lạc giống nhƣ con thú no mồi thì những cảnh vịt trống đạp mái lại mềm mại êm đềm, tuyệt không có gì là thô tục. Chính cô chị nhận ra rằng họ là những ngƣời bất thƣờng và có lúc kêu lên “thằng Điền sao rồi!... Những hoang tƣởng, những cơn điên, chính trạng thái cực hạn này là mảnh đất làm xuất hiện cái kỳ ảo” [36]. Còn nhà nghiên cứu Đào Duy Hiệp lại khai thác tác phẩm từ việc khám phá văn bản tác phẩm: “Truyện ngắn CĐBT lay động ngƣời đọc bởi chất thơ từ sự lặp lại về nỗi nhớ, về cánh đồng. Trong cánh đồng đã có những dòng sông. Những dòng sông cuộc đời, dòng sông thời gian thấm thía tình ngƣời, niềm đau và nỗi buồn. Những dòng sông – thơ ấy cứ thênh thang chảy mãi từ ngôn ngữ rất riêng, rất trong trẻo, độc đáo và đa âm sắc của Nguyễn Ngọc Tƣ” [38]. Chọn hƣớng khai thác theo hình thức tự sự, tác giả Đoàn Ánh Dƣơng đã chia tác phẩm thành nhiều đoạn dựa trên cơ sở mỗi đoạn biểu đạt một sự kiện chính để phác thành một mô hình tự sự và phân tích những thay đổi trật tự đầy hữu ý trên bình diện sự kiện và bình diện tâm lý nhân vật, tác giả cho rằng “Điều này đem đến cho ngƣời đọc cái hứng thú đƣợc thể nghiệm “một hiện thực chƣa hoàn kết”, đƣợc cùng theo đuổi và trải nghiệm với nhân vật, tức là gia tăng sự tham gia của ngƣời đọc vào câu chuyện. Đó là khuynh hƣớng tự tự giàu tính hiện đại” [34]. Một phát hiện nữa cũng đáng lƣu ý của bài viết này là tác giả Đoàn Ánh Dƣơng đã chỉ ra sự khác biệt trong cảm thức lƣu lạc của con ngƣời Nam Bộ của Nguyễn Ngọc Tƣ so với các tác giả thế hệ trƣớc và cả 10 những tác giả đƣơng thời, đó là sự ƣu tiên khai thác những ám ảnh về thời gian hơn là không gian. Tuy nhiên theo chúng tôi, đáng chú ý hơn cả trong loạt bài phê bình về truyện ngắn CĐBT là hai bài viết của nhà nghiên cứu Phan Quý Bích. Coi văn chƣơng là phƣơng tiện suy tƣởng, là yếu tố ngẫm ngợi về cuộc sống, nhà nghiên cứu Phan Quý Bích đã chỉ ra những tƣ tƣởng mà theo ông CĐBT muốn nói: “CĐBT dựng lại một thế giới có khả năng chao đảo giữa văn minh và dã man, giữa hạnh phúc và khổ đau, đúng hơn một thế giới có thể đổi màu về phía hai cực của nó, mà con ngƣời vừa là tác giả tạo ra nó, vừa là nạn nhân. Nhân vật chính của thế giới chao đảo ấy là ngƣời cha, ngƣời kể chuyện xƣng tôi” [31;6]. Đề cập đến những chi tiết “nhƣ thật” của tác phẩm, nhà nghiên cứu khẳng định: “Những chi tiết vay mƣợn nguyên xi từ đời sống nhƣ địa danh, nhƣ dịch cúm gà là những cái “neo” để định vị câu chuyện thành chuyện ở đây, lúc này. Mà có lẽ chuyện cũng không chỉ có thể xảy ra ở Cà Mau lúc này, mà có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào trên đất nƣớc ta, trên thế giới, một khi đói nghèo, dốt nát và thù hận cứ tạo thành một dòng chảy bất tận, một khi con ngƣời cứ chỉ có thể là Điền (đất), là Nƣơng (cô gái), hoặc không có tên (chị gái điếm) hoặc có tên thì lại là Hận, là Thù… hệt nhƣ tự nhiên hoang dã” [31;11]. Sau khi truyện ngắn CĐBT đƣợc giải thƣởng của Hội nhà văn Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan Quý Bích lại có bài Sức lôi cuốn của ngòi bút Nguyễn Ngọc [32]. Trong bài viết này, bên cạnh việc khẳng định sức hấp dẫn của truyện ngắn CĐBT ở những bức tranh nhƣ thực đƣợc miêu tả, kể lại trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tƣ, nhà nghiên cứu cũng đồng tình với quan điểm cho rằng với truyện ngắn này, Nguyễn Ngọc Tƣ đã tiếp cận với nghệ thuật tiểu thuyết bởi CĐBT đã đem đến cho ngƣời đọc một bức tranh khiến ta phải suy ngẫm về thực tại cuộc sống. Có thể thấy những kiến giải của nhà nghiên cứu Phan Quý Bích trong hai bài viết là rất thuyết phục và tạo ra đƣợc những hƣớng gợi mở trong việc tiếp cận và phê bình văn chƣơng, đây là điều chúng tôi cho là rất cần thiết trong bối cảnh phê bình văn học hiện nay. Từ bài nghiên cứu của ông có thể thấy, văn chƣơng có thể mƣợn chuyện ngƣời thực việc thực mà cũng có thể nói chuyện thần tiên 11 tƣởng tƣợng nhƣng nhất định phải tạo cảm giác “giống nhƣ thật” để gây sự tin cậy trong tâm thế ngƣời đọc, từ đó mở ra trong ngƣời đọc những suy ngẫm về thế giới đang sống từ những hiện thực của thế giới văn chƣơng. Làm đƣợc nhƣ thế thì văn chƣơng mới đích thực là văn chƣơng và mới khẳng định đƣợc vai trò không thể thiếu của nó trong đời sống. b) Các bài nghiên cứu, phê bình về Đỗ Bích Thuý có nhấn mạnh đến vấn đề văn hoá, bên cạnh đó là những bài nghiên cứu có đề cập đến các khía cạnh khác. Sau khi Đỗ Bích Thúy đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn của VNQĐ năm 1998-1999, báo VNT có bài Gặp hai nữ thủ khoa truyện ngắn trẻ (tức Nguyễn Ngọc Tƣ và Đỗ Bích Thuý) của tác giả Điệp Anh. Trong bài này, ngƣời viết cũng đã nhắc tới ấn tƣợng về nét văn hoá rất riêng của truyện ngắn Đỗ Bích Thuý: “thế mạnh của Đỗ Bích Thúy là đời sống ngƣời dân Tây Bắc với những không gian vừa quen vừa lạ, những phong tục tập quán đặc thù khiến ngƣời đọc luôn cảm thấy tò mò và bị cuốn hút” [29] ; và “Trong truyện của Đỗ Bích Thuý, không gian Tây Bắc hiện lên đậm nét, để lại dƣ vị khó quên trong lòng độc giả, dù ngƣời đọc vẫn chƣa thể hết lƣu luyến với những áng văn thơ dặt dìu tiếng sáo, tiếng khèn, la đà với rƣợu nồng bếp lửa của núi rừng Tây Bắc trong các sáng tác của các bậc tiền bối nhƣ Tô Hoài, Chế Lan Viên, Tố Hữu,v.v.” [29] Vậy là cũng giống nhƣ Nguyễn Ngọc Tƣ, ngay từ những tác phẩm đầu tiên, Đỗ Bích Thuý đã “buộc” ngƣời ta phải nhớ tới chị qua một văn phong riêng đậm chất văn hoá miền núi, cái chất đó nhƣ tác giả Điệp Anh cảm nhận, đã phảng phất qua mấy chục năm nay trong tác phẩm của những ngƣời đi trƣớc nhƣng giờ lại nồng nàn, duyên dáng qua mạch văn của tác giả trẻ này. Cảm nhận đó còn thuyết phục hơn nữa khi nhà văn Trung Trung Đỉnh, một ngƣời cũng viết khá nhiều về đề tài miền núi đã viết nhƣ thế này: “Tôi có cảm giác Đỗ Bích Thuý còn quá nhiều điều để viết về miền rẻo cao xa xôi nhƣng gần gũi, tuyệt vời đẹp ấy của đất nƣớc ta. Tôi cũng là ngƣời mê viết truyện ngắn và mê cao nguyên đá kỳ vỹ Hà Giang, nhƣng đọc truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý, tôi thực sự ngả mũ… chào thua! Dẫu đây mới chỉ là mở đầu. 12 Một mở đầu mơ ƣớc của mọi nhà văn” [37;8]. Cũng giống nhƣ những ngƣời đã một lần đến với truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý, nhà văn Trung Trung Đỉnh thật sự ấn tƣợng về những dấu ấn văn hoá đặc sắc đƣợc chuyển tải duyên dáng và tinh tế trong văn của chị, ông viết: “Đỗ Bích Thuý có khả năng viết truyện về cảnh sinh hoạt truyền thống của ngƣời miền cao một cách tài tình. Không truyện nào là không kể về cách sống, lối sinh hoạt, nết ăn ở và cả quang cảnh sinh hoạt lễ hội, phong tục tập quán. Truyện nào cũng hay cũng mới, cũng lạ mặc dù tác giả không hề cố ý đƣa vào chi tiết lạ. Thế mà đọc đến đâu ta cũng sững sờ và bị chinh phục bởi những chi tiết rất đặc sắc chỉ ngƣời miền cao mới có” [37;8] Cái lạ mà nhà văn Trung Trung Đỉnh cảm nhận thấy cũng rất gần gũi với cảm giác về cái lạ của nhà văn Chu Lai khi đọc văn Đỗ Bích Thuý. Trong bài Cái duyên và sức gợi của hai giọng văn trẻ, nhà văn Chu Lai viết nhƣ đang say giữa những cảnh sắc và không gian đầy quyến rũ đƣợc khơi nguồn từ mạch văn của Đỗ Bích Thuý: “Đọc Thuý, ngƣời ta có cảm giác nhƣ đƣợc ăn một món ăn lạ, đƣợc sống trong một mảnh đất lạ mà ở đó tràn ngập những cái rất riêng đậm đặc chất dân gian của hƣơng vị núi rừng, của con suối chảy ra từ khe đá lạnh, của mây trời sánh đặc nhƣ “một bầy trăn trắng đang quấn quyện vào nhau”, của mùi ngải đắng, mần tang, của những nét ăn nét ở, phong tục tập quán còn giữ nguyên vẻ hoang sơ, thuần phác, của ánh trăng “giữa mùa cứ rọi vào nhà cả đêm, trăng đi một vòng cửa trƣớc ra cửa sau”, của những trái tim con gái vật vã, cháy bùng theo tiếng khèn gọi tình dƣới thung xa, của bếp lửa nhà sàn và tiếng mõ trâu gõ vào khuya khoắt, của những kiếp sống nhọc nhằn và con bìm bịp say thuốc, say rƣợu ngủ khì bên chân chủ…” [41;102] Sau những thành công bƣớc đầu ở thể loại truyện ngắn, Đỗ Bích Thuý đi vào một thử thách mới dài hơi hơn là tiểu thuyết và ngay ở lần thể nghiệm đầu tiên này, chị đã thành công ở cuộc thi Sáng tác văn học cho tuổi trẻ lần thứ 2 do Nhà xuất bản Thanh Niên và Báo VN phối hợp tổ chức (từ 26/3/2002 đến 14/7/2004) với cuốn tiểu thuyết Bóng của cây sồi (BCCS). Ở cuốn sách này, Đỗ Bích Thuý vẫn rất thống nhất trong phong cách chung của chị, một văn phong 13 nền nã trong giọng điệu, đậm đà chất trữ tình và thấm sâu chất văn hoá đặc trƣng của vùng miền. Nhà văn Nguyễn Hữu Quý viết: “Với BCCS, Đỗ Bích Thuý thêm một lần nữa chứng tỏ sự hiểu biết, gắn bó của mình đối với cuộc sống của những ngƣời Tày, ngƣời Dao ở vùng cực Bắc Hà Giang, nơi thƣợng nguồn con sông Lô huyền bí” [43;111] . Có thể thấy các bài viết đều đã chỉ ra những đặc điểm chung nhất trong lối viết của Đỗ Bích Thuý song dƣờng nhƣ mới chỉ nhìn nhận theo cách riêng lẻ của từng tác phẩm hoặc từng cụm tác phẩm. Theo chúng tôi, bài Từ truyện ngắn của một người viết trẻ của nhà nghiên cứu, phê bình Lê Thành Nghị đăng trên báo VNT số 31 (31/7/2005), sau này đƣợc in lại trong phần đầu tuyển tập Tiếng đàn môi sau bờ rào đá là bài viết mang tính bao quát sâu sắc và chính xác hơn cả. Và ở trong bài viết này, nhà nghiên cứu Lê Thành Nghị đã viết thành chữ, thành lời tất cả những cảm giác của ngƣời đọc khi bƣớc vào thế giới truyện của Đỗ Bích Thuý: “Chúng ta sẽ bƣớc vào một không gian lạ, không gian có núi cao, trời rộng của vùng rừng núi phía Bắc, nơi từ đó nhìn xuống, dòng sông Nho Quế chỉ còn “bé nhƣ sợi chỉ dƣới chân núi Mã Pí Lèng”. Một không gian đầy hoa lá rừng; có tiếng gà gáy tách te trong bụi rậm, có những dòng suối trong suốt với những viên cuội đỏ, có những chàng trai thổi sáo theo sau các cô gái khoác quẩy tấu xuống chợ; những nồi thắng cố nghi ngút khói trong phiên chợ vùng cao đầy màu sắc; những đêm trăng sóng sánh, huyền ảo; những cụm mần tang mọc trong thung lũng; tiếng đàn môi réo rắt sau bờ đá; lễ hội gầu tào với điệu hát gầu Plềnh mê đắm của các cô gái,c hàng trai ngƣời Mông trên đỉnh núi…” Không gian Đỗ Bích Thuý đã tái tạo đƣợc trong tác phẩm của mình chính là một không gian văn hoá đầy sức hút với độc giả mà nếu thiếu nó, thử hỏi sức nặng của triết lý và lẽ sống trong tác phẩm có còn đủ sức níu kéo ngƣời đọc nhiều đến thế không? Cùng với những bài viết đề cập đến nét văn hoá trong tác phẩm của Đỗ Bích Thuý, còn khá nhiều bài viết khác đề cập đến những vấn đề khác trong truyện ngắn của chị nhƣ bài Đôi điều tâm đắc về cuộc thi truyện ngắn VNQĐ 1998-1999 của Khuất Quang Thuỵ. Tuy chỉ nhận xét về chùm ba truyện ngắn 14 đƣợc giải của Đỗ Bích Thuý nhƣng nhà văn Khuất Quang Thuỵ đã chỉ ra đƣợc một vấn đề luôn trăn trở trong các tác phẩm của chị: “Sự biến động của thời đại mới đã tác động lên mọi số phận của ngƣời Việt Nam, kể cả những ngƣời sống ở những nơi thâm sơn cùng cốc. Cuộc sống đã đòi hỏi mọi ngƣời phải suy nghĩ, trăn trở để làm sao vừa hoà nhập đƣợc với thời đại, với đất nƣớc vừa không đánh mất đi những giá trị riêng của mỗi con ngƣời, mỗi cộng đồng dân tộc. Đó chính là thử thách lớn nhất của thời mở cửa” [47;100]. Từ những tan rã trong cuộc sống truyền thống khi đối mặt với thời mở cửa đó, nhà văn Chu Lai lại thấy rằng, “Cảm hứng truyện ngắn của Thuý là cảm hứng trở về. Mô típ xuyên suốt là mô típ ngƣời mẹ và gia đình. Hầu nhƣ chỉ sử dụng một ngôi thứ nhất là tôi” [40;104]. Còn tác giả Phạm Thuỳ Dƣơng trong bài Cảm hứng cảm thương trong sáng tác của Đỗ Bích Thuý và Nguyễn Ngọc Tư [35;101] lại khai thác tính cảm thƣơng trong các truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý. Theo ngƣời viết, tính cảm thƣơng đó đƣợc bộc lộ qua tình thƣơng con trẻ, thƣơng ngƣời phụ nữ, từ tính cảm thƣơng, tác giả Phạm Thùy Dƣơng nhìn nhận về giọng điệu cảm thƣơng trong văn phong của chị, v.v. 3. Phạm vi nghiên cứu Truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tƣ trong các tập truyện: Ngọn đèn không tắt (Nxb Trẻ, 2000), Giao thừa (Nxb Trẻ, 2003), Nước chảy mây trôi (Nxb Văn Nghệ TP. HCM, 2004). Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005) và CĐBT (Nxb Trẻ, 2006). Ngoài ra có tham khảo thêm một số tản văn của nhà văn nhƣ Ngày mai của những ngày mai (Nxb Phụ nữ, 2007), Sống chậm thời @ (In chung với Lê Thiếu Nhơn, Nxb Trẻ 2007), Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (Nxb Trẻ - Thời báo kinh tế Sài Gòn, 2005). - Tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá (Nxb Công an nhân dân, 2005) và tiểu thuyết Bóng của cây sồi (Nxb Thanh niên, 2005) và các tản văn, tuỳ bút, phóng sự của nhà văn Đỗ Bích Thuý. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phân tích, tổng hợp và phê bình tác phẩm. 15 - Phƣơng pháp so sánh đối chiếu. - Các phƣơng pháp hỗ trợ khác nhƣ thi pháp học thể loại, thống kê, so sánh. 16 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG I: TIẾP CẬN TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ GÓC ĐỘ VĂN HOÁ 1. Mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và văn học a. Mối quan hệ và sự chi phối giữa văn hoá và văn học trong quan niệm của giới học giả thế giới và trong nước Không cần đợi đến khi có định nghĩa chính thức về văn hoá của UNESCO cho rằng, “văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngƣỡng…” [28] ngƣời ta mới nhìn thấy sự gắn kết đầy biện chứng giữa văn hoá và văn học. Văn học là một thành tố của văn hoá, “sáng tác văn học trƣớc hết là một hành động văn hoá. Tác phẩm văn học, sự kiện văn học là một loại chứng tích văn hoá” [16] văn học tiếp nhận các giá trị của nền văn hoá bao chứa nó và do đó đƣợc tiếp sức bởi toàn bộ các giá trị phong phú của một nền văn hoá, khi văn học thoát ly khỏi cái cội rễ của nó là văn hoá, văn học sẽ trở nên chông chênh, thiếu sức sống. Xem xét mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, chúng tôi nhận thấy có sự gặp gỡ khá lớn trong quan điểm của giới học thuật thế giới và trong nƣớc ở luận điểm này. Văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhà văn thông qua việc sáng tạo tác phẩm để gửi gắm những tƣ tƣởng, suy ngẫm về các vấn đề trong hiện thực đời sống. Trong khi đó, văn hoá tiềm ẩn rất sâu xa và dƣới muôn dạng thức khác nhau của đời sống ấy và nhiệm vụ của văn học là biểu đạt đƣợc những giá trị văn hoá đó một cách tinh tế và phong phú nhất. Văn học nằm trong văn hoá và chịu sự quy định, chi phối của toàn bộ nền văn hoá của một dân tộc và nền văn hoá đó luôn mang tính lịch sử, tính thời đại nhất định. Chính vì lẽ đó mà khi xem xét bất cứ nền văn học nào, giai đoạn văn học nào, trào lƣu văn học nào cũng cần phải xem xét trong mối liên hệ với bối cảnh văn hoá. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu ngƣời Nga Bakhtinne trong bài Một số vấn đề cần lƣu ý khi nghiên cứu văn học quá khứ đã viết: “Trƣớc hết, khoa nghiên cứu văn 17 học phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn hoá. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của toàn bộ văn hoá một thời đại trong đó nó tồn tại. Không đƣợc tách nó khỏi các bộ phận khác của văn hoá, cũng nhƣ không đƣợc, nhƣ ngƣời ta vẫn làm, là trực tiếp gắn bó các nhân tố xã hội, kinh tế, vƣợt qua đầu văn hoá, những nhân tố xã hội kinh tế tác động tới toàn bộ văn hoá nói chung và chỉ thông qua văn hoá, cùng với văn hoá, mới tác động đƣợc tới văn học” [1;361]. Đặc biệt coi trọng yếu tố văn hoá, lịch sử và chịu ảnh hƣởng mạnh mẽ của khoa học xã hội mà chủ yếu là Thực chứng luận của A. Comte (17891857), nhà phê bình, nhà triết học Pháp H. Taine (1828-1893) đã đề xuất trƣờng phái văn hoá – lịch sử trong nghiên cứu văn học. Văn chƣơng với Taine chỉ là “tấm ảnh của những phong tục tập quán và thƣớc đo của tình trạng trí tuệ đƣơng thời”. Khi nghiên cứu một nhà văn, Taine đƣa ra ba nguyên lý cần phải áp dụng là chủng tộc, địa điểm và thời điểm. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý, “trƣờng phái văn hoá – lịch sử vẫn tìm giá trị của văn chƣơng không phải ở bản thân văn chƣơng, mà ở đối tƣợng đã in dấu vào văn chƣơng, tức là văn hoá – lịch sử. Nhƣ vậy nó đã có phần đồng nhất văn chƣơng với thực tại xã hội mà văn chƣơng phản ánh. Bởi vậy, lịch sử văn chƣơng mà Taine muốn tạo dựng thực chất là lịch sử văn minh, lịch sử tƣ tƣởng xã hội. Mối quan hệ biện chứng, chân thực giữa các quá trình xã hội và văn học chƣa đƣợc giải thích rõ” [19;107,108]. Chúng ta biết rằng văn hoá chỉ xuất hiện khi con ngƣời ra đời, văn hoá gắn liền với sự tồn tại của con ngƣời, do đó, nói văn học biểu đạt các giá trị văn hoá tiềm ẩn trong đời sống cũng chính là biểu đạt các giá trị văn hoá của con ngƣời, do con ngƣời sáng tạo ra và kết tinh trong mọi hiện tƣợng đời sống. “Nhà văn Pháp Drieu la Rochelle nói: Tác phẩm nào cho ta một bức hoạ xã hội của thời đại đúng nhất là tác phẩm tỏ ra ít chú ý đến thời đại nhất. Nói thế, không phải là bảo nhà văn không nên bàn đến những vấn đề hiện thời. Nhƣng viết văn về vấn đề gì thì viết, nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, 18 tìm những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi ngƣời qua tâm hồn của chính mình, đi đến chỗ bất tử mà không tự biết” [13;2007]. Mối dây liên hệ giữa văn hoá và văn học không phải lúc nào cũng tƣờng tận nhƣng ở tận cùng gốc rễ, chúng có ràng buộc hết sức bền vững và văn học luôn mang trong mình sứ mệnh biểu đạt tinh tế nhất mọi khía cạnh nảy sinh trong đời sống con ngƣời. Trong Văn học khái luận, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai chỉ ra: “Các nhà lý luận nƣớc Đức đã nhận thấy rằng: giữa các cơ cấu huyền diệu của văn hoá vẫn có những dây liên lạc bất di bất dịch, để hỗn hợp những ảnh hƣởng của thổ nghi, khí hậu, trú trạch, dân cứ và thần thánh của giống ngƣời thành khối cố định mà trí tính có thể nhận thấy rõ là dính líu chặt chẽ với nhau… Vậy nên lịch sử chỉ là một tập “địa dƣ chí” hay đi, còn văn học… có thể xem nhƣ một pho “dân sinh chí” biết nói và biết mơ mộng vậy”. [13;738]. Phải chăng nhà nghiên cứu Emerson không phải không có lý khi cho rằng, “Văn học là biểu hiện riêng của dân tình”. Nhìn lại những lời bàn luận văn chƣơng của giới học giả trong nƣớc từ xƣa đến nay, ta càng cảm nhận rõ hơn về mối quan hệ gắn bó giữa văn hoá và văn học. Trong Luận văn tạp thuyết, Vũ Duy Thanh viết: “Có ngƣời hỏi cái kỳ diệu của văn là ở chỗ nào? Tôi trả lời: Khó nói quá. Muốn hiểu cái kỳ diệu phải tìm nơi tâm ta, tìm nơi tâm ta phải chất chính nơi thánh hiền, chất chính nơi thánh hiền phải truy cứu tới cùng nơi trời đất, truy cứu tới cùng nơi trời đất phải đi sâu nơi sự vật, đi sâu nơi sự vật thì cái biết sẽ đến, cái biết đến thì văn đến. Cái diệu lý của đất trời thấy ở khắp sự vật, cái tân kỳ xuất hiện ngay nơi mục nát” [13;272]. Tuy không định danh rõ là văn hoá theo nhƣ cách gọi hiện đại, nhƣng học giả thời trung đại Vũ Duy Thanh đã chỉ ra chính giá trị cốt lõi nhất của văn chƣơng, đó là văn chƣơng phải bắt nguồn từ chính chủ thể sáng tạo hay cũng chính là con ngƣời, văn chƣơng phải bắt nguồn từ trời đất, vạn vật và chỉ khi con ngƣời am hiểu chính môi trƣờng văn hoá đang sinh tồn thì văn chƣơng mới đạt đến độ diệu kỳ là vậy. Hay nhƣ trong Thư gửi Ngô Huy Phan, học giả Nguyễn Văn Siêu đã có một tuyên ngôn về văn chƣơng còn đƣợc truyền tụng mãi tới ngày nay: (Văn 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan