ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ MỪNG
THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO TỪ GÓC NHÌN TƯ DUY
NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội – 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ MỪNG
THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO TỪ GÓC NHÌN TƯ DUY
NGHỆ THUẬT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội – 2013
2
MỤC LỤC
MỤC LỤC ..................................................................................................................1
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................6
1.
Lí do chọn đề tài .........................................................................................6
2.
Lịch sử vấn đề .............................................................................................8
3.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................13
4.
Phƣơng pháp nghiên cứu .........................................................................13
5.
Đóng góp của luận văn .............................................................................13
6.
Cấu trúc luận văn .....................................................................................14
B. PHẦN NỘI DUNG ...........................................................................................15
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TƢ DUY THƠ VÀ QUAN
NIỆM THƠ CỦA NGUYỄN TRỌNG TẠO.........................................................15
1.1.
Một số vấn đề lí luận về tƣ duy thơ ........................................................15
1.1.1. Khái niệm tư duy....................................................................................15
1.1.2. Khái niệm tư duy nghệ thuật .................................................................16
1.1.2.1. Tư duy nghệ thuật ............................................................................16
1.1.2.2. Tư duy thơ. ......................................................................................18
2.2. Quan niệm thơ Nguyễn Trọng Tạo .............................................................19
2.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp ...........................................................19
2.2.2 .Quá trình sáng tác ..................................................................................22
2.2.3. Quan niệm thơ .......................................................................................25
2.2.3.1. Thơ là sự chắt lọc từ những trải nghiệm của cuộc sống. ..................27
2.2.3.2. Thơ phản ánh cuộc sống đời thường chân thực ................................29
2.2.3.3. Thơ là sự đổi mới không ngừng ........................................................32
2.2.3.4 Thơ ca là ngôn từ rung lên bằ ng âm nhạc .........................................37
2.2.3.4. Thơ là tiế ng sét ái tình.......................................................................39
2.2.3.5. Thơ chưa hay vì thơ nói thật lòng .....................................................41
*TIỂU KẾT CHƢƠNG 1: ......................................................................................43
CHƢƠNG II: CÁI TÔI TRƢ̃ TÌ NH TRONG THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO 46
3
2.1. Cái tôi trữ tình là sự biểu hiện trực tiếp của cái tôi đang tƣ duy .............46
2.1.1. Khái niệm cái tôi, cái tôi trữ tình trong thơ ...........................................46
2.1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Trọng Tạo........................................49
2.2. Các dạng biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Trọng Tạo ....51
2.2.1. Cái tôi chiến sĩ .........................................................................................51
2.2.2. Cái tôi “ham chơi” thích phiêu bạt ........................................................59
2.2.3. Cái tôi trữ tình đời tư thế sự chất vấn cuộc đời.....................................65
2.2.4. Cái tôi trữ tình dung hòa giữa hiện đại và truyền thống ......................70
2.2.5. Cái tôi trữ tình dân gian huyền ảo vận động trong không gian thời
gian
................................................................................................................79
2.2.6. Cái tôi trữ tình khao khát tình yêu nhưng nhuốm màu cô đơn ...........85
2.2.7. Cái tôi trữ tình hòa đồng với nhân vật trong thơ ..................................93
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 : .......................................................................................96
CHƢƠNG 3 : NGÔN NGỮ VÀ BIỂU TƢỢNG TRONG THƠ NGUYỄN
TRỌNG TẠO ..........................................................................................................96
3.1. Giới thuyết về ngôn ngữ trong thơ ..............................................................97
3.2. Ngôn ngữ trong tƣ duy thơ Nguyễn Trọng Tạo ......................................101
3.2.1. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là ngôn ngữ "hòa giải" giữa cái mới
và cái cũ ...........................................................................................................102
3.2.1.1- Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là ngôn ngữ thơ chân thành, giản
dị. ..................................................................................................................102
3.2.1.2- Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo đựợc xây dựng bằng nhiều chất
liệu mới, là sự vận động thành công của quá trình cách tân thơ. ...............105
3.2.2. Ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường ....................................................110
3.2.3. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là ngôn ngữ đặc biệt giàu nhạc tính
và màu sắc ...................................................................................................115
3.2.4. Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi - đa nghĩa .................................................119
3.3. Biểu tƣợng trong thơ Nguyễn Trọng Tạo ................................................120
3.3.1. Biểu tượng trong tư duy thơ .................................................................120
4
3.3.1.1. Khái niệm biểu tượng ......................................................................120
3.3.1.2. Phân biệt biểu tượng với ẩn dụ, biểu tượng với hình tượng ...........121
3.3.2. Những biểu tượng đặc sắc trong thơ Nguyễn Trọng Tạo ..................123
3.3.2.1. Biểu tượng Cỏ ...............................................................................123
3.3.2.2. Biểu tượng Con đường ..................................................................127
3.3.2.3. Biểu tượng Sao ..............................................................................130
3.3.2.4. Biểu tượng Trăng ..........................................................................132
3.3.2.5. Biểu tượng Ngọn Lửa ....................................................................136
3.3.2.6. Biểu tượng Gió ..............................................................................138
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3: ......................................................................................141
KẾT LUẬN ............................................................................................................143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................146
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Tư duy là hoạt động nhận thức, là đời sống trí tuệ của con người.
Tư duy bắt đầu từ tư tưởng và cuối cùng lại tạo ra tư tưởng. Nói như vậy có
nghĩa là tư duy phụ thuộc rất nhiều vào tư tưởng,vào thế giới quan, nhân sinh
quan của con người và thời đại. Xã hội có tự do tư tưởng thì tư duy cũng như
khả năng nhận thức, khả năng sáng tạo của con người càng được phát huy
mạnh mẽ.
Đặc trưng của tư duy là phản ánh các mối quan hệ giữa con người với
thế giới khách quan, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với các sự vật hiện tượng, truy tìm các mối quan hệ và biểu diễn các
mối quan hệ đó bằng ngôn ngữ. Như vậy việc tiếp cận văn chương nghệ thuật
nói chung, thơ ca nói riêng từ góc độ tư duy nghệ thuật thực sự là một hướng
tiếp cận có chiều sâu và mang tính hệ thống.
Trong mỗi tác phẩm của riêng mình, nhà văn, người nghệ sĩ phải luôn
sáng tạo nên những biểu tượng mới bởi quá trình sáng tạo nghệ thuật là quá
trình nhận thức thế giới khách quan, nhưng không vì thế mà nhà văn được
phép sao chép nguyên si hiện thực khách quan, mà phải nhìn sự vật, hiện
tượng qua lăng kính chủ quan để từ đó sáng tạo những hình tượng nghệ thuật.
Quá trình đó chính là quá trình đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đời sống, những hình tượng trong
tác phẩm có tác động trở lại lối sống và suy nghĩ của con người. Như vậy ta
có thể hiểu tư duy nghệ thuật là hoạt động nhận thức của nhà văn, là quá trình
đấu tranh tìm tòi để nhận thức hiện thực và khái quát hiện thực một cách nghệ
thuật theo logic chủ quan. Mặt khác tư duy nghệ thuật chính là quá trình nhận
thức của độc giả về tác phẩm nghệ thuật, có thể nói tư duy nghệ thuật là dạng
hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm
nghệ thuật.
6
Phương tiện biểu hiện của tư duy nghệ thuật là ngôn ngữ, nhờ có ngôn
ngữ người nghệ sĩ có thể bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình, thông qua trí tưởng
tưởng phong phú và sự liên tưởng tinh tế người nghệ sĩ đã sáng tạo ra những
hình tượng, biểu tượng mới. Tư duy nghệ thuật luôn thăng hoa cùng những tài
năng biết cảm nhận một cách nhạy bén đời sống, biết nắm bắt tinh thần thời đại,
biết dự báo tương lai. Vì vậy tư duy nghệ thuật gắn liền với quá trình sáng tác, bị
chi phối bởi tư tưởng, quan niệm của từng nhà văn, từng thời đại, đồng thời nó
cũng thể hiện cách nhìn, cách khái quát hiện thực riêng của nhà văn, thể hiện bản
sắc, cá tính sáng tạo của nhà văn, ở một góc độ nào đó thì tư duy nghệ thuật có
sự giao cắt và làm nên phong cách nghệ thuật của nhà văn.
1.2. Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào
thơ trẻ vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trong khi những
cây bút như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn
Khoa Điềm, Trần Mạnh Hảo…..đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng
Tạo vẫn mải miết kiếm tìm. Nhưng không vì thế mà sự xuất hiện của Nguyễn
Trọng Tạo lại bị lu mờ, ông đã tạo ra một tiếng thơ mới mẻ cho nền thơ ca
dân tộc bằng một giọng điệu rất riêng không giống bất kỳ ai. Cũng từ đó cho
đến nay Nguyễn Trọng Tạo được xem như một “người tận lực cho thơ”, một
nhà thơ – nhạc sĩ – họa sĩ. Người nghệ sĩ đa tài, đa tình này phải sắm quá
nhiều vai trong làng văn nghệ với nhiều sự cách tân, đổi mới trong làng thơ
hiện đại Việt Nam.
Là một nghệ sĩ đa tài, đa tình và mang nhiều hệ lụy, Nguyễn Trọng Tạo
được độc giả bốn phương yêu mến và ngưỡng mộ không chỉ qua những ca
khúc nổi tiếng như “Làng quan họ quê tôi”; “Khúc hát sông quê; Đôi mắt đò
ngang”. Mà ông còn là người làm nên báo thơ, vẽ nên cờ thơ, viết hàng trăm
bài phê bình thơ, phổ nhạc cho thơ. Và trong một bài phỏng vấn báo chí ông
đã thổ lộ “Thơ mới là cái nghiệp của tôi”. Phần hay nhất của thơ ông nằm ở
7
thời hậu chiến, đây là giai đoạn ông chủ trương một thứ thơ đời thường.
Hướng về đời thường, thơ gần với con người, những vui buồn nhân thế cũng
được đề cập đến sâu sắc hơn. Những tập thơ của ông thể hiện rất rõ sự vỡ
giọng và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật. Đó là quá trình tự nhận thức lại
chính mình và người khác.
Trong suốt chặng đường sáng tác, Nguyễn Trọng Tạo đã có những
đóng góp lớn cho nền thơ ca dân tộc. Với 10 tập thơ và 2 trường ca đầy đặn,
ngoài ra còn có các tập thơ in chung vơi các tác giả khác như Nguyễn Hoa,
Nguyễn Thụy Kha…Ông còn có các tác phẩm văn xuôi, tập phê bình tiểu
luận, các album nhạc nổi tiếng, cùng một loạt các giải thưởng, cái tên Nguyễn
Trọng Tạo đã trở thành cái tên quen thuộc trong làng thơ ca Việt Nam.
Tìm hiểu về thơ Nguyễn Trọng Tạo, chúng tôi nhận thấy đa số các nhà
nghiên cứu chủ yếu tiếp cận từ góc độ tiểu sử - cuộc đời, thể loại để đi vào thế
giới nghệ thuật, chứ chưa có công trình nào nghiên cứu thơ Nguyễn Trọng
Tạo từ góc độ tư duy nghệ thuật một cách toàn diện. Chính vì vậy nghiên cứu
thơ Nguyễn Trọng Tạo từ góc độ tư duy, chúng tôi hy vọng sẽ hé mở ra được
nhiều điều lý thú trong thế giới nghệ thuật thơ ông.
2. Lịch sử vấn đề
Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh có nhận xét: “Tôi quyết
rằng trong thi ca Việt Nam chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này.
Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như
Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hung tráng như Huy Thông, trong sáng
như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính,
kỳ dị như Chế Lan Viên, và thiết tha rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”. Thì
chưa đầy 30 năm sau lịch sử văn học Việt Nam lại một lần nữa được chứng
kiến sự phát triển một cách đông đảo, mạnh mẽ của những cây bút trưởng
thành trong kháng chiến chống Mỹ như: Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo,
8
Dương Hương Ly, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật….Có thể khẳng
định cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc là một mảnh đất màu mỡ khơi
nguồn sáng tạo cho biết bao văn nghệ sĩ, mỗi nhà văn nhà thơ lại mang những
phong cách sáng tạo khác nhau, không ai giống ai, cùng làm phong phú thêm
cho nền văn học nước nhà. Bàn về văn học giai đoạn này nhà thơ Hoàng Cầm
có nhận xét: “Thơ Hữu Thỉnh là thơ lấp lánh, thơ Phạm Tiến Duật là thơ
thông minh, thơ Nguyễn Đức Mậu là thơ đậm đà, thơ Nguyễn Duy là thơ
thuần việt, thơ Bằng Việt là thơ trí tuệ, thơ Vũ Quần Phương là thơ sang
trọng, thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa”.
Hành trình đến với thơ Nguyễn Trọng Tạo là hành trình tự tìm tòi,
khám phá trên cơ sở trực tiếp từ tác phẩm và những nhìn nhận cá nhân. Sở dĩ
tôi nói như vậy vì thơ Nguyễn Trọng Tạo còn là một "chân trời" mới, một "dư
địa" rộng rãi chưa được khám phá một cách cặn kẽ và có hệ thống.
Nói đến Nguyễn Trọng Tạo là nói đến một tâm hồn nghệ sĩ đa dạng.
Anh đã bước vào nghệ thuật với nhiều phương diện: là một nhà thơ, một nhà
phê bình và là một nhạc sĩ. Một khúc hát quan họ, một bài thơ tình, một trang
văn hay một trang phê bình giúp bạn có những cảm xúc khác nhau về một
Cẩm Ly, một Bảo Chi hay một Tào Ngu Tử...(các bút danh khác của Nguyễn
Trọng Tạo).
Trong suốt quá trình sáng tác Nguyễn Trọng Tạo đã có những đóng
góp không nhỏ cho nền thơ ca nước nhà, tên tuổi và những sáng tác của
ông không chỉ thu hút được sự chú ý của độc giả yêu văn thơ trên khắp mọi
miền tổ quốc, thậm chí có những bạn văn, bạn thơ, thích thơ ông và thuộc
nhiều thơ ông. Mặc dù Nguyễn Trọng Tạo đã nhận được không ít lời khen
tặng từ bạn đọc nhưng chưa thực sự nhận được sự quan tâm của giới
nghiên cứu và phê bình....
9
Trên thi đàn thơ đương đại Việt Nam, thơ Nguyễn Trọng Tạo đã tạo
được bước đột phá trong cách tư duy và hình thức thể hiện. Thơ ông có sức
sống bền bỉ, dẻo dai qua những chặng đường văn học và lịch sử của dân tộc.
Quan tâm và viết lời bình cho thơ Nguyễn Trọng Tạo chỉ mới xuất hiện ở một
số người, chủ yếu là bạn thơ và những người quen biết ông. Nhà thơ Vũ Cao
lúc sinh thời đã nhìn ra sự khác biệt của Nguyễn Trọng Tạo, ông viết: “Anh
như một người lẻ loi đứng trên các nẻo đường, mặc cho các lớp người cứ
trùng điệp qua lại. Thật khó xếp Nguyễn Trọng Tạo vào một lớp nhà thơ nào,
ngòi bút của anh thoải mái nói những điều không dễ”[63]. Ông đứng sang
một bên nhưng là để tìm cho mình một hướng đi riêng, một hướng đi mang
tên Nguyễn Trọng Tạo. Ông giống như một Chàng lãng tử hành hương trong
hành trình đi tìm Đạo. Trên chặng đường đi đầy chông gai và vực thẳm đó,
người hành hương luôn khát khao gặp được những cảm xúc thơ mãnh liệt.
Thơ giống như Người tình trăm năm của cuộc đời Nguyễn Trọng Tạo – một
người tình chung thủy và tươi mới!
Nhà văn Nguyễn Đình Thi lại cho rằng: “Khác hẳn những nhà thơ
không hiểu chính mình đang viết gì. Tạo không viết những câu thơ bí hiểm,
không viết những câu thơ tự đánh đố mình và đánh đố bạn đọc để làm ra vẻ
mình là một nhà thơ có tư duy cao. Thơ Tạo thể hiện tư duy của chính Tạo,
không phải tư duy vay mượn của người khác, và ông khẳng định: “trên bảng
ghi công những văn nghệ sĩ đổi mới thực sự đổi mới hiệu quả, có tên Nguyễn
Trọng Tạo”[63].
Hoàng Cầm với “Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo” là sự đồng cảm của hai
tâm hồn nghệ sĩ. Riêng Trọng Tạo, ông chỉ đi theo nhịp bước nghìn năm của
dân tộc, nhịp song hành là chính, nhịp chẵn, hai - bốn và cả sáu - tám, cả chín
- mười, rất nhiều câu thơ dầu số chữ lẻ vẫn luôn theo nhịp chẵn như vợ chồng,
âm dương, như đôi chim liền cánh, hễ nghe kỹ từ phía trong hay phía ngoài
10
cửa ngôn từ, nhất là ở những dấu lặng và khoảnh cách giữa hai câu, tôi vẫn
thấy cái ung dung thư thái của nhịp chẵn, nhịp sáu - tám.
Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đã từng nhận xét về Nguyễn Trọng Tạo:
“Một người “ngả nghiêng với những khát vọng cách tân nghệ thuật… ứa
nghẹn những bức bách đời thường”[66]. Thật vậy, nhà thơ luôn miệt mài lao
động nghệ thuật để thổi hồn mới cho trang thơ của mình, làm cho những bài
thơ của mình mang hình sắc riêng, là “một phát minh về hình thức, một khám
phá về nội dung”. Khi đọc thơ ông chúng ta bắt gặp ngay “chất Nguyễn Trọng
Tạo”, đặc biệt là cách sử dụng biện pháp tu từ quen thuộc, nương mình trên
phông nền truyền thống để tạo dựng một sức bật vươn đến những tứ thơ lạ,
những cách tổ chức ý tưởng thơ độc đáo. Nguyễn Trọng Tạo đã có những đóng
góp tích cực cho quá trình đổi mới thơ ca. Những đóng óp đáng quý ấy một lần
nữa khơi nhắc ý niệm : “lẽ sống của Thơ là sự đổi mới không ngừng”.
Nguyễn Đăng Điệp tiếp cận “Nguyễn Trọng Tạo - cái chớp mắt với
nghìn năm”[61] nhìn từ phương diện cá tính sáng tạo, đưa lại mỹ cảm mới
trong cách tiếp nhận. Hồ Thế Hà có cái nhìn đầy tin yêu và khát vọng trong
“Thơ Nguyễn Trọng Tạo - hành trình của niềm tin và khát vọng”, “Sức bền
của một hồn thơ”[64]. Phạm Phú Phong trong bài viết “Nguyễn Trọng
Tạo”[63], có cái nhìn tổng quan nhưng còn giản lược về quá trình sáng tác thơ
văn của nhà thơ. Bài viết của Nguyễn Đỗ “Về một “Tạo” của Nguyễn Trọng
Tạo”[64] đề cập đến một số nét đặc trưng của Nguyễn Trọng Tạo trong thơ
nhưng chỉ dừng lại ở vài điểm cơ bản. Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng với lời tựa
ngắn cho tập Đồng dao cho người lớn đã tiếp cận phong cách thơ Nguyễn
Trọng Tạo (chủ yếu là tập Đồng dao) từ góc nhìn “Người Ham Chơi”:
“Thế giới hiện đại ưa chuộng một gã người có bộ mặt bông đùa dễ
thương gọi là Homo luduss, Người Ham Chơi. Khác với những tiền bối của
nó là Người Làm (Homo fabien) và Người Biết (Homo sapien) vốn đã có mặt
11
từ văn hóa nhân loại cổ xưa, Người Ham Chơi cũng Làm, cũng Biết thông
thái mọi điều. Nhưng gã lại là một tay giang hồ khí cốt, nhìn đời như một khu
vườn hoan lạc, nơi đó gã sa đà theo những cuộc vui với tâm thức cóc cần, nhẹ
nhõm. Cũng có người nhăn nhó khi nói đến gã, nhưng gã không bận tâm về
điều ấy. Người Ham Chơi lãng đãng giữa cõi đời cũng là để làm nhẹ bớt căn
bệnh hay cau mặt của những kẻ thích tỏ ra nghiêm nghị”[66]...
Trịnh Thanh Sơn với “Thơ trữ tình Nguyễn Trọng Tạo”[62] đã khái
lược diện mạo chung của năm mươi tư bài thơ tình trong tập Thơ trữ tình. Lê
Huy Mậu, Ngô Minh trong bài viết “Nguyễn Trọng Tạo - người tự sắm vai
mình” và “Có thể bạn chưa biết Nguyễn Trọng Tạo…”, “Nguyễn Trọng Tạo
như tôi biết”[66], chủ yếu kể lại những mẩu chuyện bên lề về cuộc sống lao
động, sinh hoạt, sáng tác của nhà thơ. Thanh Thảo tiếp cận, nhưng chủ yếu
là ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ của Nguyễn Trọng Tạo về hai loại hình
nghệ thuật thơ và nhạc dưới hình thức phỏng vấn : “Lan man với Nguyễn
Trọng Tạo trên tàu thống nhất”[67]…
Tuy vậy nhưng những bài nghiên cứu, đánh giá, bài viết này có quy mô
vừa và nhỏ, chỉ giới hạn trong một bài báo và phạm vi bao quát cũng rất hạn
chế, hầu hết mới chỉ đánh giá về một tập thơ, hay một phẩm chất nào đó trong
hồn thơ của ông, thường thiên về cảm xúc hay ở dạng lời bạt, lời tựa Đã có
những luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ ông như: Luận văn thế giới nghệ
thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo của Hoàng Minh Tường, cũng mới chỉ tếp cận
thơ ông theo hướng thi pháp học. Nhưng công trình nghiên cứu này cũng
bước đầu hé lộ ra những chân trời trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Như vậy có
thể khẳng định thế giới thơ Nguyễn Trọng Tạo còn là một khoảng lặng đang
nằm trong sự chờ đợi, và lẽ đương nhiên nghiên cứu thơ Nguyễn Trọng Tạo
từ góc độ tư duy nghệ thuật thì còn quá mờ nhạt và chưa hệ thống.
12
Chính vì vậy việc nghiên cứu thơ Nguyễn Trọng Tạo dưới góc nhìn tư duy
nghệ thuật sẽ đi vào tìm hiểu sâu hơn cái tôi trữ tình của nhà thơ, qua đó khẳng
định nhân sinh quan, thế giới quan sâu sắc của ông thông qua cái tôi trữ tình,
những biểu tượng đặc sắc cùng những phương tiện ngôn ngữ được thể hiện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn “Thơ Nguyễn Trọng Tạo từ góc độ tƣ duy nghệ thuật”
được thực hiện trên cơ sở nghiện cứu, khảo sát hệ thống nhân vật trữ tình,
biểu tượng và ngôn ngữ thi ca.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là toàn bộ thơ Nguyễn Trọng
Tạo (kể cả trường ca ). Nhưng để có cái nhìn toàn diện hơn về thơ Nguyễn
Trọng Tạo, trong quá trình nghiên cứu, khảo sát chúng tôi luôn đặt thơ ông
trong dòng chảy của nền văn học dân tộc, trong sự so sánh, đối chiếu với một
số nhà thơ khác. Tất cả nhằm đưa ra những kết luận khách quan về tư duy thơ
Nguyễn Trọng Tạo, góp phần khẳng định chỗ đứng và giá trị của thơ ông đối
với nền thơ ca dân tộc.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp
những kiến thức về lí luận văn học, văn học sử và những phương pháp chủ
yếu sau đây:
-
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp thống kê
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử cụ thể
Phương pháp loại hình học
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn
Trọng Tạo. Việc nghiên cứu tư duy thơ qua sự vận động và phát triển của cái
tôi trữ tình, qua hệ thống biểu tượng, qua ngôn ngữ đã góp phần làm rõ hơn
13
quá trình biến đổi của ngôn từ, cảm xúc trong việc hình thành phong cách
nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo.
Tìm hiểu tư duy thơ Nguyễn Trọng Tạo trong tiến trình chung của thơ
Việt Nam hiện đại sẽ góp thêm cái nhìn toàn diện, khách quan về toàn bộ
sáng tác thơ của ông. Qua đó khẳng định hướng nghiên cứu từ góc độ tư duy
nghệ thuật với hiện tượng văn học thực sự là một hướng nghiên cứu tích cực,
cần được tiếp tục phát triển.
6.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, thư mục tham khảo, phần nội dung luận
văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tư duy nghệ thuật và quan niệm thơ
Nguyễn Trọng Tạo.
Chương 2: Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Trọng Tạo
Chương 3: Ngôn ngữ và biểu tượng trong thơ Nguyễn Trọng Tạo
14
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TƢ DUY THƠ VÀ
QUAN NIỆM THƠ CỦA NGUYỄN TRỌNG TẠO.
1.1.
Một số vấn đề lí luận về tƣ duy thơ
1.1.1. Khái niệm tư duy
Tư duy không chỉ là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học
cơ bản mà còn là đối tượng nghiên cứu của lĩnh vực nghệ thuật. Tâm lí học
nghiên cứu diễn biến của quá trình tư duy, mối quan hệ qua lại của tư duy với
các phương diện khác nhau của nhận thức. Xã hội học nghiên cứu tư duy ở sự
phát triển của nhận thức trong các chế độ xã hội khác nhau. Sinh lý học
nghiên cứu ở cơ chế thần kinh cao cấp với tư cách là nền tảng
vật chất của
quá trình tư duy của con người…Như vậy tư duy à toàn bộ hoạt động tâm lý
của con người, chỉ con người mới có. Tư duy nảy sinh từ sự sống và gắn liền
với hoạt động của các tế bào não, M.Rodentan, P.Iudin định nghĩa về tư duy
trong cuốn Từ điển triết học như sau: “ Tư duy là hoạt động nhận thức lý tính
của con người. Khí quan của tư duy chính là bộ óc người với một hệ thống
tinh vi, gần 16 tỉ tế bào thần kinh”.
Tư duy là quá trình tâm lý phản ánh hiện thực khách quan một cách
gián tiếp, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những
mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự việc, hiện tượng mà ta chưa
từng biết. Như vậy, nghĩa là tư duy khác với ý thức, bởi lẽ ý thức là sự
phản ánh hiện thực của hoạt động tâm lý. Tư duy cũng khác với lý trí, vì lý
trí là cái logic có tính nguyên tắc của nhận thức, trong khi đó tư tưởng lại
vừa là kết quả, vừa là xuất phát điểm của tư duy. Điều này giống với quá
trình nhận thức, khi sự nhận thức chưa có, thì cần phải tư duy, khi nhận
thức đã có thì tư duy kết thúc.
15
Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, là cái vỏ vật chất của tư
tưởng, mà quan trọng hơn cả ngôn ngữ chính là phương tiện để diễn đạt tư
duy. “Không có ngôn ngữ thì tư duy chỉ là những dự báo mơ hồ, những phản
ứng có tính chất bản năng trước hiện thực. Không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ
là những tiếng kêu bập bẹ của trẻ sơ sinh mà thôi. Tư duy làm cho ngôn ngữ
phát triển phong phú, tinh xảo. Ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu vào
bản chất của hiện thực [ 23,tr19 ] . Và như vậy ngôn ngữ thơ cũng chính là
phương tiện để biểu đạt tư duy thơ.
1.1.2. Khái niệm tư duy nghệ thuật
1.1.2.1. Tư duy nghệ thuật
Trong “ từ điển thuật ngữ văn học” có nhận định: Tư duy nghệ thuật
là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác
phẩm nghệ thuật. Bản chất của nó do phương thức thực tiễn tinh thần của hoạt
động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng quy định. Sự chuyên môn hóa lối tư
duy này tạo thành đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng nhận thức. Tư duy nghệ
thuật là một phương thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hóa hóa hiện
thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mỹ. Phương tiện của tư duy là ngôn ngữ.
Cơ sở của tư duy là tình cảm. dấu hiệu bản chất của tư duy nghệ thuật là:
ngoài tính giả định, ước lệ, nó hướng tới nắm bắt những sự thật đời sống cụ
thể, cảm tính mang nội dung khả nhiên (cái có thể), có thể cảm nhận, theo xác
suất khả năng và tất yếu. Như vậy điều quan trọng nhất của tư duy nghệ thuật
chính là sáng tạo, rồi biểu đạt nó qua các biểu tượng nghệ thuật. Mỗi người
nghệ sĩ đều có cách lựa chon biểu tượng khác nhau để bộc lộ tư duy và cách
nhìn thế giới của mình.
Mỗi nhà văn, nhà thơ lại nhìn thế giới theo những cách riêng biệt, có
cá tính tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo . Nhưng không phải cứ làm
thơ, viết văn là được gọi là người nghệ sĩ, là được độc giả nhớ đến tên tuổi.
16
Cái khác nghiệt của văn chương là ở chỗ hướng đến cái tôi, cái cá nhân, cái
duy nhất, vì vậy phải thực sự say mê, tìm tòi và sáng tạo thì cái độc đáo của
người nghệ sĩ mới bộc lộ, tạo ra sự độc tôn như nhất. Nghệ thuật chân chính
là nghệ thuật không dung nạp sự sao chép, khiên cưỡng, làm theo vài kiểu
mẫu mà người khác đưa cho. Nghệ thuật phải là sự tìm tòi sáng tạo khơi
nhũng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.
Trên cơ sở nghiên cứu và phân tích khái quát những vấn đề về tư duy
nghệ thuật, nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành nhận định: “ Tư duy nghệ thuật
là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hóa
hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi
phối sâu sắc của thế giới quan và nhận sinh quan của người sáng tác”[
26,tr54 ]. Tư duy nghệ thuật khác với tư duy khoa học ở chỗ tư tưởng, tình
cảm không chỉ là năng lượng của tư duy mà còn là đối tượng nhận thức của
tư duy. “Hình tượng nghệ thuật được coi là hình tượng của cảm xúc, nghĩa là
năng lượng tình cảm còn lại trong hình tượng như là một yếu tố nội dung,
một bộ phận hợp thành”. [26,tr54].
Nếu như truyện, ký, kịch, tiểu thuyết là những bức tranh rộng lớn
phản ánh hiện thực cuộc sống một cách khách quan, tư tưởng của người sáng
tạo được gửi qua những phát ngôn của nhân vật chính, tạo nên cốt truyện chặt
chẽ thể hiện quan niệm, cách nhìn cuộc sống sinh động như nó vốn hiện hữu.
Với ưu điểm phản ánh ở phạm vi rộng lớn nên bước vào thế giới của các tác
phẩm tự sự nói chung, người đọc dễ dàng cắt nghĩa, lý giải và định nghĩa
hoàn chỉnh về tư tưởng, ngụ ý mà tác giả thông qua câu chuyện của mình gửi
tới đọc giả. Ở tác phẩm tự sự, tác giả xây dựng bức tranh về cuộc sống, trong
đó các nhận vật có đường đi và số phận của chúng. Bằng những độc thoại, đối
thoại tác giả kịch thể hiện tính cách và hành động của con người qua những
mâu thuẫn xung đột. Ở tác phẩm trữ tình có khác, thế giới quan của con
17
người, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ được trình bày trực tiếp và làm thành nội
dung chủ yếu. Qua đây ta nhận ra, thơ trực tiếp gắn với thế giới tâm hồn của
con người, mà tâm hồn con người lại mang những cung bậc cảm xúc vô cùng
phúc tạp, lại mờ ảo như sương khói, nên thơ có thể dễ dàng cảm nhận bằng
trực giác, nhưng rất khó đúc kết, không thể khái quát thành một định nghĩa
hoàn chỉnh.
1.1.2.2. Tư duy thơ.
Tư duy thơ là phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, nhưng nó
mang trong mình khả năng biểu hiện phong phú nhờ kho biểu tượng của thơ
phong phú và đa dạng. Biểu tượng mà nhà thơ sử dụng có khi gần gũi, có khi
trừu tượng vời vợi cách xa, có khi chi là những sự vật vô cùng nhỏ bé không
có giá trị trong cuộc sống nhưng mang sức khái quát cao. Tùy vào cảm xúc và
dụng ý, trí tưởng tượng, chiều sâu suy luận mà thi sĩ chọn cho mình những
biểu tượng khác nhau. Thơ là sự bộc lộ trực tiếp tâm tư, là tiếng nói thiết tha
của tâm hồn, là tiếng gọi nồng nhiệt của trái tim. Đặc trưng chủ yếu của thơ là
cảm xúc, là tình cảm, do đó thơ hướng đến chức năng biểu hiện. Ở thơ, ta bắt
gặp những thăng trầm của cảm xúc, đó có thể là nỗi niềm riêng tư trong hạnh
phúc lứa đôi, về tình yêu đôi lứa, về nỗi đau chia ly, về khát vọng sống….Đó
cũng là những suy tư về nhân tình thế thái, về số phận của con người, thăng
trầm của xã hội, ở đó có tình yêu quê hương, đất nước, có niềm tự hào dân
tộc…. Thơ sẽ tồn tại mãi khi con người còn có nhu cầu bộc cảm xúc vui buồn
của mình, vì vậy thơ có đóng góp lớn và tạo ra tiếng nói rất riêng không thể
thiếu của nền văn học dân tộc.
Từ những đặc trưng của thơ, mà thi sĩ có khả năng liên tưởng phong
phú mà đa dạng, nhờ đó mà tư duy thơ có khả năng hướng nội, hướng ngoại.
Tùy từng thời đểm, phong cách riêng mà thi sĩ chọn cho mình những cách tư
duy phù hợp. Tư duy hướng nội thường phổ biến trong thơ trung đại và thơ
18
lãng mạn, nơi cái tôi thi sĩ lên ngôi. Ở đó tác giả thường tự nghĩ về mình, tự
quan sát và biểu hiện cái tôi nội tại của mình. Tư duy hướng ngoại phổ biến ở
giai đoạn văn học cách mạng, thi sĩ say mê thể hiện cái ta trong mối quan hệ
giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của cộng đồng. Đối tượng mà tư duy
hướng ngoại phản ánh là cuộc sống xã hội được trình bày dưới ánh sáng của
một quan niệm thẩm mỹ.
Mặt khác, phương tiện biểu đạt của tư duy nghệ thuật nói chung là
ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ của thơ nói riêng là lớp ngôn từ rung lên từ nhịp
đập của trái tim, do vậy rất ngắn gọn, cô đọng và súc tích. Ngôn ngữ thơ có
thể cùng lúc biểu hiện được nhiều tâm trạng, nhiều dạng cảm xúc, nhiều nội
dung cụ thể, trực tiếp. Ngôn ngữ của thơ là ngôn ngữ của thị giác, thính giác,
cảm giác, ở đó hội tự đầy đủ ba yếu tố: thơ, nhạc và họa. Tính nhạc xuất hiện
trong nhịp điệu câu thơ, lời thơ, ngân nga trong trái tim độc giả dù lời thơ đã
dứt. Bắt nhịp vời nền thơ ca dân tộc, thơ Nguyễn Trọng Tạo là sự kết hợp hài
hòa tư duy hướng nội và tư duy hướng ngoại, tạo nên dấu ấn riêng, mang đậm
nét cá tính. Thơ ông có sự hòa hợp giữa thơ ca – hội họa – âm nhạc – điêu
khắc, ông đã đem vào thơ "nổi hoài nhớ yên lành", để diễn giải những từ khúc
riêng tư và những đa đoan cháy bỏng của cuộc đời, rồi từ đó gieo vào tâm hồn
người đọc những tình cảm yêu mến lạ lùng, để lại niềm hoài nhớ mênh mang
cho độc giả. Được xem là người biết nắm bắt thời thế, nên khi bước ra khỏi
chiến tranh, trong lúc tên tuổi của các nhà thơ đình đám khác dường như đang
dần lắng xuống, thì thơ ông lại như vút cao lên để khẳng định vị trí của mình
trong dòng chảy của văn học dân tộc.
2.2. Quan niệm thơ Nguyễn Trọng Tạo
2.2.1. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp
Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25 tháng 8 năm 1947 trong một gia đình
nho học ở làng Trường Khê, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Ông lớn lên
19
trong không gian thấm đẫm hồn đất, hồn lúa của cả một vùng quê cổ kính.
Nơi đó, cái quạt mo, ánh trăng, đường làng và ngai ngái mùi rơm rạ xóm thôn
đã đi dài theo cuộc đời của người nghệ si ̃
đa tài cầm-kỳ-thi-họa. “Kẻ ham
chơi” vẫn cứ “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cho thỏa chí tang bồng cùng
trời đất. Cứ như thế, Nguyễn Trọng Tạo trải qua hơn 60 năm sóng gió và đầy
trải nghiệm của mình với những vần thơ đầy tính dự báo khắc khoải, bay qua
thời gian về lẽ đời được mất.
Cả cuộc đời gắn bó với nghiệp thơ ca, ông được bạn bè trong giới ví
như “người tận lực cho thơ. Làm thơ hay làm việc gì cũng phải say mê và
“tận lực” mới mong có thành công. Khi đã chọn thơ làm nghiệp, thì nhà thơ
phải biết vượt qua nhiều chông gai, sóng gió trên hành trình sự nghiệp.
Năm 1969 tham gia quân đội, thuộc Đoàn 22, Quân khu 4, rồi làm Đội
trưởng Đội tuyên truyền văn hóa Đoàn 22B, Trưởng đoàn văn công xung kích
Sư đoàn 341B. Năm 1976 được Tổng cục Chính trị điều về Hà Nội tham gia
Trại viết văn quân đội rồi vào học Đại học viết văn Nguyễn Du khóa I. Năm
1982 làm trưởng ban biên tập Nhà Văn hóa Quân khu Bốn. Năm 1988
chuyển về làm công tác biên tập xuất bản tại Hội Văn học Nghệ thuật Bình
Trị Thiên. Năm 1990 cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và nhà văn
Nguyễn Quang Lập sáng lập tạp chí Cửa Việt, làm biên tập và phụ trách mỹ
thuật tạp chí này bộ đầu tiên gồm 17 số. Năm 1997 làm Thư ký Tòa soạn tạp
chí Âm nhạc thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Nguyễn Trọng Tạo còn là họa sĩ
minh họa và trình bày mỹ thuật tạp chí Cửa Việt, tạp chí Âm Nhạc, báo Thơ,
tác giả măng-sét tạp chí Sông Hương, Sông Lam, Hồng Lĩnh, báo Thơ. Ông là
người nghệ sĩ đa tài vừa là nhà thơ, vừa là nhà báo, vừa là một họa sĩ, lại vừa
là một nhạc sĩ. Ông có nhiều đóng góp lớn trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật .
Sáng tác bài thơ đầu tiên năm 14 tuổi, sáng tác bài hát đầu tiên năm 20
tuổi. Xuất bản tập thơ đầu tiên (Tình yêu sáng sớm, in chung cùng Nguyễn
20
- Xem thêm -