Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn thơ bùi giáng nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật...

Tài liệu Luận văn thơ bùi giáng nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật

.PDF
112
83
69

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC *** LÊ THỊ DUNG THƠ BÙI GIÁNG NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TƢ DUY NGHỆ THUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN BÁ THÀNH HÀ NỘI 2010 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................- 1 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: ................................................................................ - 4 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. ................................................. - 5 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. ........................................................................................ - 6 - 3.1/ Giai đoạn trƣớc năm 1975 ............................................................ - 6 3.2/ Giai đoạn sau 1975 ......................................................................... - 8 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................................. - 13 5. KẾT CẤU LUẬN VĂN............................................................................... - 14 - PHẦN NỘI DUNG ...............................................................................- 15 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƢ DUY NGHỆ THUẬT VÀ QUAN NIỆM THƠ BÙI GIÁNG. .........................................................- 15 1.1. Một số vấn đề về tƣ duy nghệ thuật. ...........................................- 15 1.1.1. Khái niệm tư duy. .......................................................................- 15 1.1.2. Khái niệm tư duy nghệ thuật.......................................................- 16 1.2. Quan niệm thơ của Bùi Giáng .....................................................- 18 1.2.1/ Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. .............................- 18 1.2.2/ Quan niệm thơ...........................................................................- 21 1.2.2.1/ “Thơ chơi” ..........................................................................- 21 1.2.2.2/ Thơ là cảm xúc ...................................................................- 24 1.2.2.3/ Sáng tạo một cách ngẫu hứng ...........................................- 27 1.2.2.4/ Thơ là bất khả tri ...............................................................- 29 CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ BÙI GIÁNG - 33 2.1/ “Tháp Bay - on” của cái tôi.............................................................- 33 2.1.1/ Cái tôi yêu đời buổi “mƣa nguồn”. .........................................- 36 2.1.2/ Cái tôi mộng mị hoài vọng về tình yêu xa xôi. .......................- 40 2.1.3/ Cái tôi “cuồng khấu” đi tìm cội nguồn và những ám ảnh về lẽ sinh tử. ..................................................................................................- 46 2.1.4/ Cái tôi thông tuệ với những triết lý, chiêm nghiệm về cuộc đời và lẽ vô thƣờng..............................................................................- 52 2.2/ “Em”: ngƣời đẹp và những ám ảnh ...............................................- 56 2.2.1/ Kiều nữ và sự cuồng si..............................................................- 56 - 2.2.2/ “Em” hay những ám ảnh khôn cùng về cái đã qua, cái khó nắm bắt. ...............................................................................................- 59 2.3/ “Mẹ”: Niềm mơ đi giữa cõi thực ....................................................- 62 2.3.1/ Mẫu thân sùng kính ..................................................................- 62 2.3.2/ “Nguyên Lý Mẹ” rộn ràng trong thơ ......................................- 65 CHƢƠNG 3: BIỂU TƢỢNG VÀ NGÔN NGỮ THƠ BÙI GIÁNG ..- 71 3.1/ Biểu tƣợng. .......................................................................................- 71 3.1.1/ Cố quận: niềm hoài niệm ….....................................................- 72 3.1.2/ Sa mạc: nỗi cô đơn tự đoạ đày.................................................- 74 3.1.3/ Tim máu: phần “ngƣời” trong sáng, đầy nhiễu động ...........- 76 3.1.4/ Đƣời ƣơi: “tinh thể ngƣời” Bùi Giáng ....................................- 78 3.2/ Ngôn ngữ thơ Bùi Giáng .................................................................- 80 3.2.1/ Ẩn ngữ đậm đặc và khả năng biểu hiện của thứ ngôn ngữ đa nội lực. ..................................................................................................- 80 3.2.2/ Ngôn ngữ đa dạng, linh hoạt vừa uyên bác, vừa “lem luốc bụi giang hồ”. .............................................................................................- 84 3.2.3/ “Cái nếp gấp vô ngần trong ngôn ngữ” và những “giới hạn” của Bùi Giáng trong thơ. ....................................................................- 88 3.2.3.1. Bùi Giáng phủ nhận khả năng tái hiện hiện thực của ngôn ngữ. .........................................................................................- 89 3.2.3.2. Sự tuỳ tiện trong sử dụng ngôn ngữ và sự sáo, nhàm trong cách lặp. .................................................................................- 90 3.2.4/ Ngôn ngữ trong thơ lục bát Bùi Giáng ...................................- 95 - KẾT LUẬN ..........................................................................................- 101 - PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Thế giới nghệ thuật hay tác phẩm của nhà văn vốn được xem là một “thế giới mở” đối với người đọc, người thưởng thức, khám phá. Tiếp cận tác phẩm theo hướng nào để đạt được hiệu quả lớn nhất tuỳ thuộc vào khả năng, năng lực của từng loại độc giả. Tư duy nghệ thuật là tư duy hình tượng – một dạng hoạt động trí tuệ của con người nhằm hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật, cũng là một hoạt động nhận thức có tính nghệ thuật nhằm phản ánh hiện thực theo một lý tưởng thẩm mỹ. Chính vì vậy, tiếp cận văn chương nghệ thuật nói chung, thơ ca nói riêng từ góc độ tư duy nghệ thuật là hướng tiếp cận có chiều sâu, mang tính hệ thống và toàn diện. Từ ý nghĩa và khả năng ấy, chúng tôi đã chọn “tư duy nghệ thuật” như một “công cụ trí tuệ” nhằm tiếp cận, khám phá thế giới nghệ thuật, thế giới thơ của Trung Niên thi sĩ – Bùi Giáng. Bùi Giáng vốn được xem là ngôi sao sớm toả sáng trên nền trời văn học đô thị miền Nam Việt Nam trước 1975. Nhưng ông cũng là ngôi sao kì dị bậc nhất, một mình một thứ ánh sáng khó có thể nhầm lẫn. Cuộc rong chơi hết mình giữa cuộc đời và cuộc tận hiến tận cùng cho thi ca của người nghệ sĩ đặc biệt này đã khiến không ít người kinh ngạc, băn khoăn và cảm phục. Là một hiện tượng thơ tương đối phức tạp, với khối lượng khá lớn các sáng tác gồm hơn 20 tập thơ, hơn 20 tác phẩm khảo luận và nghiên cứu, phê bình và hàng chục tác phẩm dịch thuật văn chương, thơ ca, triết học của nhiều tác gia lớn trên thế giới. Xuất hiện trên thi đàn vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX cho đến lúc từ giã cõi đời (năm 1998), có lẽ tài sản quý giá nhất ông để lại vẫn là thơ ca. Tuy nhiên, cho đến nay, việc nhìn nhận, đánh giá đầy đủ giá trị thơ văn và vị trí của tác giả này trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam nói chung vẫn chưa nhiều so với “tài sản” ông để lại. Thiếu những công trình nghiên cứu thật sự công phu, toàn diện, đánh giá đầy đủ những thành tựu, hạn chế và đóng góp của Bùi Giáng cho thơ ca dân tộc. Nhiều bài viết nhỏ lẻ, thường là những cảm nhận bước đầu có phần chủ quan của những người gần gũi nhà thơ, người yêu thơ và yêu người thơ. Bởi vậy, chọn thơ Bùi Giáng làm đối tượng khám phá chúng tôi mong muốn góp thêm một cách nhìn về thơ ông, qua đó góp phần đưa thơ Bùi Giáng tiếp cận gần hơn với văn học đương thời và với cả những độc giả còn xa lạ với thơ của “thi sĩ kì dị” này. 2. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Chọn đề tài “Thơ Bùi Giáng nhìn từ góc độ tư duy nghệ thuật” luận văn hướng đến tìm hiểu quan niệm nghệ thuật, khảo sát đặc trưng, ý nghĩa của hệ thống nhân vật trữ tình, biểu tượng và ngôn ngữ thơ của Bùi Giáng. Do vậy, đối tượng nghiên cứu ở đây là các tập thơ của thi sĩ. Nhưng, vì nhiều lí do khách quan, chẳng hạn thơ Bùi Giáng bị mất mát, thất lạc nhiều, đặc biệt là những tập thơ được sáng tác trước năm 1975 vẫn chưa được tập hợp đầy đủ, nên chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát hết toàn bộ thơ của ông. Tuy nhiên, có thể khẳng định, những tập thơ được đề cập trong công trình này như “Mưa nguồn”, “Rớt hột phiêu bồng”, “Rong rêu”, “Mười hai con mắt”, “Mùa màng tháng tư”… là những tác phẩm tương đối tiêu biểu cả về nội dung và nghệ thuật của thế giới thơ Bùi Giáng. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng tư liệu là các bài viết của Bùi Giáng trong một số tác phẩm như “Ngày tháng ngao du”, “Tư tưởng hiện đại”, “Mùa xuân trong thi ca”…đây không hẳn là tác phẩm thơ hay văn thuần tuý mà có sự đan xen cả hai thể loại, bởi với Bùi Giáng “Văn xuôi cũng phải buộc là thơ” (Tư tưởng hiện đại). Hơn nữa, những cuốn sách này thể hiện tương đối toàn diện quan niệm thơ ca của Bùi thi sĩ. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cố gắng đặt thơ ông vào dòng chảy văn học dân tộc, trong sự đối sánh với một số nhà thơ khác nhằm tìm ra cái riêng và sự đóng góp của Bùi Giáng vào gương mặt thơ ca dân tộc. Nghiên cứu thơ Bùi Giáng từ góc độ tư duy nghệ thuật chúng tôi hi vọng sẽ hé mở được nhiều vấn đề lí thú trong thế giới nghệ thuật còn nhiều bí ẩn này, qua đó phát hiện những tìm tòi, đổi mới, cái dòng riêng và đóng góp của Bùi Giáng cho thơ ca hiện đại Việt Nam. 3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. Nếu lấy năm 1975 làm ranh giới thì Bùi Giáng là một trong những nhà thơ đã sống và sáng tác ở cả 2 giai đoạn lịch sử đất nước: trước 1975, ở miền Nam – thời kỳ văn hoá nô dịch của đế quốc Mỹ và Nguỵ quyền Sài Gòn và sau 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất. Do vậy, dựa trên những quan điểm, tư tưởng khác nhau mà thơ Bùi Giáng được nói đến ở 2 thời kỳ cũng có những điểm khác nhau. 3.1/ Giai đoạn trƣớc năm 1975 Sự xuất hiện của một loạt các tập thơ như “Mưa nguồn” (1962), “Màu hoa trên ngàn”(1963), “Ngàn thu rớt hột”(1963)… gắn cùng cái tên Bùi Giáng đã thu hút sự chú ý của độc giả và ngay sau đó bắt đầu có những bài viết về thơ và cả con người nhà thơ. Nam Chữ trong “Bùi Giáng, về cố quận” [79; 43-45] khen ngôn ngữ thơ Bùi Giáng là thứ “ngôn từ tài tử” đã góp phần “đánh dấu một bước chuyển mình của thi ca hôm nay”, bởi “những dung từ khó khăn nhất, những âm vận ngắn củn nhất…trở nên linh hoạt dị thường, đều trở nên nhẹ nhàng và âm điệu réo rắt”. Trần Tuấn Kiệt trong “Chung quanh vấn đề Bùi Giáng” khẳng định rằng: “Chúng ta muốn nói về thơ của Bùi Giáng chúng ta phải viết lại cả khu rừng văn học từ cổ chí kim” [79;77]. Hay như Trần Hữu Cư với “Bùi Giáng, trên đường về cố hương” đã lưu ý đến yếu tố hồn quê trong thơ Bùi Giáng, tác giả này cho rằng: “Tất cả những gì ông đang làm… là làm một cuộc lên đường tìm lại một “màu hoa trên ngàn”, “một tinh thể quê hương”cho thời hiện đại…hoài vọng một “cõi” nào đó của xưa kia” [79;66]… Các đề tài về tình yêu và người đẹp đã trở thành một nội dung nổi bật trong thơ Bùi Giáng giai đoạn này, theo đó, các nhà ngiên cứu cũng đã dành cho nó sự lưu tâm đặc biệt. Cao Huy Khanh là một trong nhiều người quan tâm đến mảng đề tài này, ông cho rằng: “Mê gái là một vấn đề siêu hình ác liệt (gái chiêm bao ” trong thơ Bùi Giáng [79;61]. Ngoài ra tác giả này cũng bước đầu nhận ra triết lý về cuộc sống của Bùi Giáng: “Văn chương Bùi Giáng là một nỗ lực giải quyết và thực hiện tư tưởng triết lí sinh tồn một cách sống động và thơ mộng (phố thị)” [79;60]. Bên cạnh đó, việc xác định tư tưởng trong thơ Bùi Giáng cũng là một trong những vấn đề thu hút sự khám phá của nhiều người, với nhiều ý kiến khác nhau. Nam Chữ cho rằng thơ Bùi Giáng không “chịu ảnh hưởng của nền triết học u mặc phương Tây hay một thứ căn để mọi chủ thuyết siêu hình, càng không phải là một loại triết học hư vô nào đó, không có những yếu tố thần bí hoá hay phục dịch cho một thứ đường hướng rõ rệt, đứng ngoài hết mọi phái siêu hình, tượng trưng, phiếm thần hay thần bí” [79;47]. Trên phương diện hình thức nghệ thuật, nhiều tác giả thể hiện rõ sự tâm đắc đối với cách sử dụng ngôn ngữ bình dân và thể loại lục bát của Bùi Giáng. Cao Huy Khanh nhận định rằng “Nhà thơ Bùi Giáng cốt yếu là một hiện tượng ngôn ngữ độc đáo, ngôn ngữ thành tựu từ mối đam mê nguồn thơ lục bát (đặc biệt là Truyện Kiều) phối hợp với âm điệu ca dao thuần túy dân tộc ” [79;64]. Nguyễn Đình Tuyển trong “Những nhà thơ hôm nay” khen “lời thơ thâm trầm, trang nhã mà không xa lời ca nơi đồng ruộng, thôn trang: bình dị mà tân kỳ” … Tóm lại, thời kỳ này đã có nhiều bài phê bình về thơ Bùi Giáng, trong đó không ít tác giả đã thể hiện sự tìm tòi, phát hiện khá chính xác các giá trị thơ của Trung niên thi sĩ trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Tuy nhiên, bên cạnh đó nhiều bài viết cũng thể hiện thái độ khen, chê nhưng còn khá chung chung. Những lời khen thường ít đi kèm với các dẫn chứng cụ thể, mang đậm tính chủ quan của người nhận xét nên tính thuyết phục chưa cao. Không phủ nhận thơ Bùi Giáng hay nhưng vẫn còn không ít hạn chế mà các tác giả hoặc chưa nhận ra hoặc không muốn thừa nhận. Điều này, một phần xuất phát từ cách nhìn nhận của người đánh giá, mặt khác do độ lùi thời gian chưa đủ giúp các tác giả có cách nhìn nhận sâu sắc, thấu đáo về thơ Bùi Giáng. 3.2/ Giai đoạn sau 1975 Đất nước thống nhất và văn chương cũng được “thu về một mối”, được tạo cơ hội để phát triển sâu rộng hơn. Các giá trị văn chương trong quá khứ lẫn hiện tại bắt đầu được chú ý tìm hiểu, nghiên cứu kĩ càng hơn. Bộ phận văn học đô thị miền Nam 1945 – 1975 theo đó cũng thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Với việc cho xuất bản lại một số tác phẩm thơ, khảo luận, dịch thuật (năm 1993) Bùi Giáng là một trong những nhà thơ bắt đầu được nhìn nhận một cách tổng thể cả về thơ ca và con người. Nhiều nhà phê bình, nghiên cứu đã “gặp nhau” khi khẳng định Bùi Giáng là một “hiện tượng thơ” của văn học đô thị miền Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. NXB Trẻ (tháng 11/1997) giới thiệu tập “Đêm ngắm trăng” của thi sĩ này như sau: “những cái “không ổn” kết hợp hài hoà với những cái gọi là “ổn” trong tác phẩm Bùi Giáng để làm thành một hiện tượng lạ lùng, đặc dị: chính là hiện tượng Bùi Giáng đã được nói đến rất nhiều trong sinh hoạt văn nghệ ở miền Nam với nhiều mỹ cảm. Có thể nói Bùi Giáng là một hiện tượng “siêu quậy” trong sáng tác ”. Các tác giả đã dành nhiều công sức để khai thác các giá trị nghệ thuật thơ Bùi Giáng, làm nổi bật các hình ảnh ruộng đồng, thiên nhiên và người nữ. Huỳnh văn Hoa trong “Đi tìm xuân qua “Mưa nguồn” của Bùi Giáng” đã nhận định rằng: “Ông thổi vào “Mưa nguồn” một hơi thở rất nhiều hương đồng gió nội. Phải chăng ông mượn điển tích Tô Vũ… từng chăn dê gửi tình yêu đến với bát ngát thiên nhiên…Xuân như suối nguồn chảy ra từ một cõi uyên nguyên nào, không cụ thể. Đó là thứ xuân đầu chứa đầy chiêm bao, huyền thoại, hư ảo quyện với cuộc đời thực nhiều mơ mộng. Sau “Mưa nguồn” cánh cửa thơ ông uyên áo quá, khó đi vào ” [16;11]. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những nhận xét mang tính suy diễn, khó chấp nhận về hình ảnh thiên nhiên trong thơ Bùi Giáng. Chẳng hạn: “Bùi Giáng xót xa, đau đớn có thể chết đi được (chứ điên nhằm nhò gì) khi thấy người ta thản nhiên phung phí lòng bao dung của bà mẹ thiên nhiên… Bùi Giáng mong muốn người ta khẩn trương ý thức bảo tồn cái mầm sống vốn rất mong manh…” [79;12], nhận xét này được dành cho bốn câu thơ nằm trong tập “Mưa nguồn”: Em về mấy thế kỉ sau/ Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?/ Ta đi còn gửi đôi dòng/ Lá rơi có dội ở trong sương mù”!. Nói về tình yêu dành cho người nữ của Bùi Giáng, Đào Hiếu cho rằng: “Bùi Giáng là chàng si tình số một trên cõi đời này và vì mê gái mà chàng thi sĩ tài hoa kia sẵn sàng phá huỷ thi ca của mình, phá huỷ thân xác của mình. Và chính điều đó – chứ không phải thi ca, tư tưởng hay sự uyên bác – đã làm cho ông vĩ đại” [79; 40]. Nhưng Hồ Bửu Khánh lại chê Bùi Giáng “bỡn cợt thơ và “quấy rối tình dục” tư tưởng của ông. Toàn bộ suy nghĩ của ông chỉ là sự tập hợp những khát vọng vụn vặt về tình ái và lẽ tử sinh” [79;38]… Nói đến tư tưởng của Bùi Giáng trong thơ, Lê Khiêm Trung trong “Nguyên khởi về cõi tinh mật Bùi Giáng” khẳng định: “tâm thức của Bùi Giáng mang đầy những khắc khoải hiện sinh… Cách nhìn đời của Bùi Giáng phần nào chịu ảnh hưởng của trào lưu triết học hiện sinh, mang nặng tính chất bi quan nhưng không tuyệt vọng” [79; 45-48]. Thơ Bùi Giáng khó tiếp cận và cảm thụ bởi thơ ông chịu sự tác động của nhiều tư tưởng khác nhau, có cả tư tưởng phật giáo phương Đông lẫn tư tưởng phương Tây với triết học Heidergger, Camus… Điều này khiến thơ ông “bí ẩn và siêu thực, đầy dấu vết của tiềm thức dụ ngôn” [79;57]. Cố gắng gạt bớt những sương khói để “Đi vào cõi thơ Bùi Giáng”, Trần Hữu Dũng nhận thấy Bùi Giáng đã “xoá nhoà ranh giới giữa văn chương cao cấp và văn chương bình dân, ông hoà nhịp với Nguyễn Du, Nerval, Whitman và cả với các nhà thơ hiện đại ngày nay không một chút khiên cưỡng nào” [79;43]. Còn Trương Vũ Thiên An lại cho rằng “Khó mà thấy được chính kiến của Bùi Giáng trong thơ ông… Và công bằng mà nói cách viết của ông nhiều lúc cực kì khó hiểu. Thành ra ông cứ … điên!” [79; 49-54]… Bàn về hình thức nghệ thuật thơ Bùi Giáng, bên cạnh việc nhấn mạnh tính đa dạng đến phức tạp của nó, một lần nữa các nhà nghiên cứu lại quay trở lại với thể lục bát và khẳng định Bùi Giáng đặc biệt sở trường ở thể thơ này. Bùi Giáng dùng cái lối cà rỡn trào lộng của người dân Quảng Nam, đặc biệt là cách nói lái tinh quái như cách cố tình đem cái tài hoa của mình trộn lẫn với cái thô tục, điều đó đã phần nào cho thấy sự “không ngừng nỗ lực sáng tạo nên một phong cách ngôn ngữ riêng biệt – ngôn ngữ Bùi Giáng”. Vũ Đức Sao Biển cho rằng Bùi Giáng đã “đem nụ cười vào thi ca trữ tình, lãng mạn… có sự rong chơi của ngôn ngữ. Cách sáng tạo của anh cực kì hồn nhiên, thơ mộng” [1;35-37]. Hay Nguyễn Lương Vỵ khen Bùi Giáng có tài “tung hứng những ẩn ngữ một cách nghiêm cẩn u hoài,.., tiếu lâm tục tĩu một cách thượng thừa, thánh thiện” [79; 41]… Sự khẳng định các giá trị nội dung, nghệ thuật trong thơ Bùi Giáng giai đoạn này một lần nữa khẳng định Bùi Giáng có sức thu hút các nhà nghiên cứu. Thiên nhiên nơi quê nhà hay tình yêu dành cho những người phụ nữ đẹp là những hình ảnh thường xuyên đi về trong thơ Trung niên thi sĩ. Đồng thời, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy sự phức tạp trong tư tưởng Bùi Giáng chính là nhân tố gây nên sự khó hiểu và các ẩn ngữ trong thơ, cũng như gây nên nhiều ý kiến, đánh giá bất tương đồng. Tuy nhiên, nhiều người đã cùng chung quan điểm khi cho rằng Bùi Giáng là một “hiện tượng thơ”, một “hiện tượng dị biệt” cả trong thơ lẫn cuộc sống. Ngoài các tác giả trong nước có bài nghiện cứu về thơ Bùi Giáng, nhiều tác giả Hải ngoại cũng xem thi sĩ này là đối tượng tìm tòi, khám phá. Nguyễn Hưng Quốc trong “Thơ, cuộc hoà giải vô tận hay một cái nhìn về quá trình vận động của thơ Việt Nam” cho rằng: Bùi Giáng đã “vượt ra ngoài chủ nghĩa hiện đại”, ông “xoá nhoà những đường biên về giọng điệu, xoá nhoà ranh giới giữa truyền thống và hiện đại…làm cho cái thiêng liêng trở thành bình thường, cái thô tục trở thành cái thơ mộng…xoá nhoà cái gọi là văn hoá cao cấp với văn hoá bình dân, xoá nhoà luôn cả chính chất nghiêm nghị, nghiêm túc…”, ngoài ra tác giả này còn khẳng định Bùi Giáng là “nhà thơ hậu hiện đại chủ nghĩa” bởi ông có “khá nhiều bài thơ là loại thơ không thể giảng” [51;45-57]. Nhận định này chưa thật sự khách quan, phần nhiều suy diễn theo chủ định của người viết nhằm phục vụ mục đích khác ngoài thơ văn. Ngày 07/10/1998 Bùi Giáng qua đời. Ngay sau đó đã có một loạt bài viết đăng trên các báo, tạp chí để vĩnh biệt nhà thơ, đồng thời khẳng định “Bùi Giáng chẳng bao giờ mất đi giữa cuộc đời này…”. Cao Vũ Huy Miên với “Ngàn thu rớt hột..” say cuồng nhặt chơi” đăng trên Sài Gòn giải phóng, Sơn Nam với “Thơ Bùi Giáng” trên Tuổi trẻ chủ nhật, “Đi thiêm thiếp cõi mai sau lạ lùng” của Ý Nhi trên Phụ nữ chủ nhật, Thu Bồn trên Văn nghệ TP HCM với “Tại thể bơ vơ Bùi Giáng”, hay Phanxipăng với “Bùi Giáng – một tài hoa kì dị” đăng 4 kỳ trên Thế giới mới… Tháng 3/2005 Báo Thanh niên đăng liên tiếp các kỳ về “Bùi Giáng – thi sĩ kì dị” của nhiều tác giả như Trần Đình Thu, Đặng Tiến, Thanh Thảo, Cung văn Nguyễn Vạn Hồng, Hoàng Kim. Các bài viết đã tập trung lí giải thơ ca, con người Bùi Giáng, đặc biệt chú ý đến “con người bất thường” Bùi Giáng ở tốc độ viết sách, tình yêu dành cho nàng Kiều, cho loài vật; khai thác sự ảnh hưởng của Nguyễn Du và Heidegger đối với thơ của thi nhân… Đề tài tình yêu trong thơ Bùi Giáng một lần nữa trở lại. Nhiều tác giả thời kỳ này đã bàn về sức ám ảnh tình yêu đối với người nữ, người vợ cũ trong kí ức lẫn trong thơ Bùi Giáng. Vũ Hoàng Thư khen ngợi Bùi Giáng “là một thi sĩ ngợi ca tình yêu lãng mạn” [99], Vũ Đức Sao Biển khẳng định “Bùi Giáng khởi đầu sự nghiệp thi ca của mình với những tập thơ tình, những bài thơ tình nồng nàn, say đắm” … Bên cạnh đó, nhiều tác giả còn đề cập đến tình yêu dành cho quê hương xứ sở của thi nhân. Về hình thức nghệ thuật, nhiều tác giả tập trung tứ thơ, giọng điệu thơ độc đáo, đồng thời thêm một lần nữa khẳng định sự đặc sắc trong ngôn ngữ thơ, khả năng sử dụng ngôn ngữ đời thường và thể thơ lục bát – thể thơ truyền thống được “thổi hồn vào đó hồn thơ của riêng ông”. Đồng thời có tác giả cũng chỉ ra một trong những hạn chế trong thơ Bùi Giáng là sự lặp lại chính mình ngay cả trong thơ, khiến cho nhiều hình ảnh đẹp dùng nhiều lần trở nên sáo … Viết về Bùi Giáng giai đoạn này, Bùi Công Thuấn là người đưa ra khá nhiều chính kiến khá thú vị. Tác giả này đã lý giải trạng thái “điên” của Bùi Giáng là “một thái độ sống có ý thức”, “một thái độ chọn lựa hiện sinh” và khẳng định thơ Bùi Giáng là “thơ tư tưởng, tôn vinh những người phụ nữ là mẫu thân, là nỗi đau kiếp nhân sinh”, “thơ Bùi Giáng tài hoa ở câu chữ, những câu chứa đầy bí mật…”. Tác giả này cho rằng giá trị thơ Bùi Giáng nằm ở sự thay đổi các kiểu tư duy đột ngột “từ tư duy hình tượng sang tư duy cụ thể, rồi lại chuyển sang tư duy triết học. Tư tưởng là tư tưởng của kinh Kim Cang, kinh Hoa Nghiêm, tư tưởng Thiền, tư tưởng Nguyễn Du – Bùi Giáng mượn tư tưởng ấy để thể hiện hồn mình” và thiên nhiên trong thơ là “thiên nhiên khái niệm, mang tính trí tuệ, tính tư tưởng cao của thơ Đường, mang cái nhìn Hoa Nghiêm, màu sắc Kiều của Nguyễn Du…” [98]… Tóm lại, bắt đầu từ những tác phẩm đầu tay đến những trang bản thảo cuối cùng còn dang dở, Bùi Giáng đã tạo ra một thế giới thơ ca độc đáo, khác biệt, thậm chí là khác người của riêng mình. Người ta xem ông là một “hiện tượng thơ”, một “hiện tượng kì dị” cả trong thơ lẫn đời thường. Ông và thơ ông như thanh nam châm, duy có điều đó là thứ nam châm không phải hút được tất cả kim loại, nó chỉ có sức hút và hút một cách mãnh liệt với những người thực sự yêu và tìm thấy trong thơ ông những giá trị. Và dù khen hay chê, người ta vẫn không thể phủ nhận một điều rằng, Bùi Giáng - thơ và người thơ là cả một dấu hỏi lớn cần được khám phá. Sự khám phá, lý giải, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình, của bạn đọc yêu thơ trước, sau năm 1975 và cả khi Bùi Giáng mất đến nay đều hướng đến làm rõ và nêu bật các giá trị nội dung, nghệ thuật trong thơ; đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế của thơ Bùi Giáng ở cả 2 phương diện ấy. Về nội dung: nổi bật nhất vẫn là tình yêu với người nữ, quê nhà, trần gian, sự kết hợp nhiều tư tưởng và triết lý sống của nhà thơ. Về nghệ thuật: độc đáo nhất là sự sáng tạo trong thể thơ lục bát và cách sử dụng ngôn từ. Một số hạn chế, như: sự lặp lại, nhiều ẩn ngữ, tư tưởng phức tạp… Viết về ông không chỉ có các nhà phê bình trong nước mà còn nhiều cây bút hải ngoại mang tư tưởng chính trị phản động, có cái nhìn thiếu khách quan, suy diễn. Do vậy, khi tìm hiểu về Bùi Giáng ta có thể bắt gặp những ý kiến nhiều khi trái chiều. Điều này đòi hỏi cái nhìn và sự đánh giá khách quan của bạn đọc sáng suốt, căn cứ trên tác phẩm và tôn trọng tác phẩm. Còn với riêng Bùi Giáng, cái “tâm nguyện bình sinh” của ông gửi đến người đọc vẫn là “Mong mỏi một điều duy nhất: đừng bao giờ bạn đọc bận tâm về bất cứ lời bàn bạc nào thật hay giả của bất cứ “bạn hữu” nào đó xưa nay của tôi ở Việt Nam hay ở hải ngoại” (Bùi Giáng, 2008, Rớt hột phiêu bồng – Di cảo thơ VI, NXB Văn nghệ). 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu Khoa học xã hội như: + phương pháp phân tích, tổng hợp đối với các bài thơ cụ thể, được sử dụng làm dẫn chứng nhằm làm sáng rõ các luận điểm được khái quát. + phương pháp thống kê, so sánh để có được các kết luận chính xác về giá trị và hạn chế của thơ ca Bùi Giáng, + phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội để làm sáng rõ ảnh hưởng của các luồng tư tưởng xã hôi trong thơ Bùi Giáng. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, chúng tôi còn kết hợp sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu văn hoá… 5. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chƣơng 1: Một số vấn đề về Tư duy nghệ thuật và Quan niệm thơ của Bùi Giáng. Chƣơng 2: Nhân vật trữ tình trong thơ Bùi Giáng. Chƣơng 3: Biểu tượng và ngôn ngữ thơ Bùi Giáng. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: Một số vấn đề về Tƣ duy nghệ thuật và Quan niệm thơ của Bùi Giáng. 1.1. Một số vấn đề về tƣ duy nghệ thuật. 1.1.1. Để hiểu thế nào là “tư duy nghệ thuật”, trước hết cần làm rõ khái niệm “tư duy”. Theo từ điển triết học thì “Tư duy là một hoạt động nhận thức lý tính của con người. Khí quan của tư duy chính là bộ óc người với một hệ thống tinh vi của gần 16 tỷ tế bào thần kinh” (Rôdentan.M; Iudin.P, 1976, Từ điển triết học, NXB Sự thật). Đặc trưng của tư duy là phản ánh các mối quan hệ của con người đối với thê giới khách quan, quan hệ giữa con người với con người và quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng; truy tìm các mối quan hệ, biểu diễn các mối quan hệ đó bằng các phương tiện ngôn ngữ, đó là toàn bộ chức năng nhân thức của tư duy. Nói đến tư duy là nói đến ngôn ngữ. Bởi ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là cái vỏ vật chất của tư tưởng. Tuy nhiên, nếu không có ngôn ngữ thì tư duy chỉ là những dự báo mơ hồ, những phản ánh có tính bản năng trước hiện thực. Ngược lại, nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là những tiếng kêu bập bẹ của đứa trẻ sơ sinh. Tư duy làm cho ngôn ngữ phát triển phong phú, tinh xảo. Đến lượt mình, ngôn ngữ tạo điều kiện cho tư duy đi sâu được vào bản chất của sự vật. Người ta đã đưa ra nhiều cách để phân loại tư duy, một trong số đó là căn cứ vào các tập hợp của hình thái ý thức xã hội. Theo con đường của các hình thái ý thức xã hội thì tư duy được chia thành 3 nhóm lớn, bao gồm: tư duy khoa học, tư duy nghệ thuật và tư duy tôn giáo. Trong tư duy nghệ thuật thì tư duy thơ ca có ảnh hưởng chi phối và phổ biến hơn cả. 1.1.2. Về khái niệm tư duy nghệ thuật, Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Tư duy nghệ thuật là dạng hoạt động trí tuệ của con người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật”. Bản chất của nó do phương thức thực tiễn tinh thần của hoạt động chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng quy định. Sự chuyên môn hoá lối tư duy này tạo thành đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng nhận thức của nó. Tư duy nghệ thuật là một phương thức hoạt động nghệ thuật nhằm khái quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mỹ. Phương tiện của nó là các biểu tượng, tượng trưng có thể trực quan được. Cơ sở của nó là tình cảm. Dấu hiệu bản chất của tư duy nghệ thuật là ngoài tính giả định, ước lệ, nó hướng tới việc nắm bắt những sự thật đời sống cụ thể, cảm tính mang nội dung khả nhiên (cái có thể có), có thể cảm thấy theo xác suất, khả năng và tất yếu. Chính nhờ đặc điểm này mà nội dung khái quát của nghệ thuật thường mang tính chất phổ quát hơn, triết học hơn so với sự thật cá biệt. Bằng trí tưởng tượng sáng tạo vốn là chất xúc tác của hoạt động tư duy nghệ thuật, nghệ sĩ xây dựng các giả thiết, làm sáng tỏ các bộ phận còn bị che khuất của thực tại, lấp đầy các “lỗ hổng chưa biết”. tính cấu trúc của tư duy nghệ thuật gắn với năng lực nhìn thấy thế giới một cách toàn vẹn, nắm bắt nó qua những dấu hiện phát sinh đồng thời, phát hiện các mối liên hệ mới chưa được nhận ra. Nhờ các đặc điểm này mà tư duy nghệ thuật có thể khắc phục sự hạn hẹp của tư duy lý thuyết, nắm bắt được các khía cạnh bị lối tư duy ấy bỏ qua. Tư duy nghệ thuật đòi hỏi một ngôn ngữ nghệ thuật làm “hiện thực trực tiếp” cho nó. Ngôn ngữ đó là hệ thống các kí hiệu nghệ thuật, các hình tượng, các phương tiện tạo hình và biểu hiện. Nó có mã nghệ thuật, tức là hệ thống năng động gồm các quy tắc sử dụng kí hiệu để giữ gìn, tổ chức và truyền đạt thông tin. Điểm xuất phát của tư duy nghệ thuật vẫn là lí tính, là trí tuệ có kinh nghiệm, biết nghiền ngẫm và hệ thống hoá các kết quả nhận thức. Đặc điểm của tư duy nghệ thuật là tính lựa chọn, tính liên tưởng, tính ẩn dụ. Trên cơ sở của tư duy nghệ thuật người ta tạo ra các tư tưởng và quan niệm nghệ thuật, lựa chọn các phương tiện, biện pháp nghệ thuật. Dạng tư duy này chỉ phát huy hiệu quả khi gắn với tài năng biết cảm nhận một cách nhạy bén về viễn cảnh lịch sử, nắm bắt tinh thần thời đại, dự báo tương lai và tài năng sáng tạo nghệ thuật [12; 381382]. Từ góc độ triết học và văn học, trong tác phẩm “Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam”, PGS.TS Nguyễn Bá Thành đã đưa ra các kiến giải về tư duy nghệ thuật nói chung và tư duy thơ nói riêng. Tác giả cho rằng: “Tư duy nghệ thuật là sự khôi phục và sáng tạo các biểu tượng trực quan, là sự hình tượng hoá hiện thực khách quan theo nhận thức chủ quan. Tư duy nghệ thuật chịu sự chi phối mạnh mẽ của thế giới quan và nhân sinh quan của người sáng tạo”.[55;36] Tư duy thơ là một phương thức biểu hiện của tư duy nghệ thuật, nhưng nó mang trong mình một khả năng biểu hiện phong phú nhờ khả năng biểu hiện của ngôn ngữ thơ phong phú và đa dạng. Mặt khác, phương tiện ngôn ngữ của tư duy thơ là một phương tiện giao tiếp có tính xã hội hoá cao độ. Vì vậy thơ có thể biểu hiện được nhiều tâm trạng, nhiều dạng cảm xúc, nhiều nội dung cụ thể và trực tiếp. Biểu tượng thi ca vừa mang tính chất biểu tượng thính giác, vừa mang tính chất biểu tượng thị giác, nghĩa là trong thơ vừa có nhạc, vừa có hoạ. Cho nên “Tư duy thơ là phương thức nhận thức và biểu lộ tình cảm của con người bằng hình tượng ngôn ngữ”. Đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là là sự thể hiện cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Cái tôi trữ tình trong thơ được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện của cái chủ thể đến mức như là nhân vật số một trong mọi bài thơ. Tuy nhiên, do sự chi phối của quan niệm thơ và phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi nhất định… Tư duy thơ phản ánh những tình cảm cộng đồng và tư duy thời đại. Về mặt nội dung nhận thức, có thể coi tư duy thơ là biểu hiện cụ thể và sinh động của những tư tưởng triết học, chính trị, đạo đức dưới dạng phổ biến nhất của một cộng đồng người [55;55-58]. Những nét khái quát cơ bản nhất về tư duy nghệ thuật, tư duy thơ trên đây sẽ là những định hướng lý luận cơ bản giúp chúng tôi đặt ra và giải quyết các vấn đề trong luận văn. 1.2. Quan niệm thơ của Bùi Giáng 1.2.1/ Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. Bùi Giáng sinh ngày 17/12/1926 tại làng Vĩnh Trinh, xã Thanh Châu (nay là Duy Châu) huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Mảnh đất vùng duyên hải nam Trung bộ đầy nắng gió in đậm trong tâm trí, kí ức nhà thơ và đã không ít lần Bùi Giáng nhắc đến: “Hồi nhỏ tôi được sinh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng, sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh” [83]. Bùi Giáng vừa là tên thật, vừa là bút danh của ông trong đa số các tác phẩm. Ngoài ra thi sĩ này còn một số bút danh khá đặc biệt, cũng rất thơ như Trung niên thi sĩ, Thi sĩ buổi hoàng hôn, Bùi Giàng Dúi, Người chăn trâu, Đười Ươi thi sĩ, Bùi Giáng Búi… Ông từng là học trò của thầy Lê Trí Viễn ở tại trường Bảo An (1936), đến năm 1939 ông học trường Thuận Hóa với các Giáo sư Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Nguyễn Đức Nguyên… và nhiều người trong số họ đã cho rằng Bùi Giáng là “học sinh độc đáo và văn chương sâu sắc”. Bùi Giáng lập gia đình năm 1945, ba năm sau vợ ông qua đời. Nhiều người cho rằng sự mất mát bất ngờ này đã mãi ám ảnh Bùi Giáng và ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của ông, đặc biệt là thơ. Có một thời gian Bùi Giáng nhập ngũ, trở thành bộ đội công binh, chiến đấu ở chiến trường Quảng Nam (khoảng từ năm 1949 đến 1952). Sau khi xuất ngũ ông vào Sài Gòn bắt đầu mày mò tự học tiếng nước ngoài, soạn “sách giáo khoa” và dạy học. Bắt đầu thời kỳ Đệ nhất cộng hoà (Ngô Đình Diệm, 1954 - 1963) các hoạt động văn hoá, văn nghệ trở nên sôi nổi, Bùi Giáng cũng có thơ gửi đăng báo. Không lâu sau Bùi Giáng nghỉ dạy để chuyên tâm vào làm thơ, nghiên cứu và dịch thuật. Năm 1969 căn gác gỗ trong hẽm đường Phan Thanh Giản, nơi Bùi Giáng sống và làm việc bị cháy rụi, mang theo nhiều sách, tài liệu và bản thảo dở dang. Sự việc này kèm theo những hiểu lầm trong gia đình và nhiều biến cố xã hội trước đó đã tác động mạnh đến tâm lý Bùi Giáng khiến ông “nổi cơn điên”. Bùi Giáng được đưa đến nhà thương điên Biên Hoà. Rời viện, Bùi Giáng bắt đầu “cuộc sống lang thang”, không biết bao lần ngủ gầm cầu xó chợ, ăn bất cứ thứ gì người ta cho, khoác lên người đủ thứ y phục bất kể lành, rách, sạch, bẩn và “trang điểm” cho chúng bằng các phụ kiện lỉnh kỉnh những xoong chảo, dép, vỏ lon… Nhưng, trái ngược với hành trạng dị biệt ấy, người đọc ngày càng biết đến Bùi Giáng bởi số lượng tác phẩm ông sáng tác ngày càng nhiều, cũng như yêu mến ông - con người hồn nhiên, trí tuệ, bất thường và miệt mài lao động. Từ khi bị bệnh ông sống trong khu nội xá Đại học Vạn Hạnh và Bùi Giáng không ở cố định tại đây mà đi khắp nơi. Một người gần gũi với ông kể lại rằng một lần gặp Bùi Giáng ngoài đường liền hỏi “Nhà thương Biên Hoà trị cái tẩu hoả hay nhỉ?” ông trả lời “Chữa trị quái gì đâu. Chẳng là ở ngoài mình thấy mình điên số một, khi vô nhà thương điên mới hiểu ra mình là đồ bỏ, điên nhí, điên tiểu thủ công nghiệp; trong nhà thương điên nhiều cha điên thượng thừa, điên vĩ đại hơn mình nhiều. Do vậy mà mình tự động thôi điên” [theo Trần Đình Thu]. Đến năm 1977, bệnh Bùi Giáng nặng hơn, ông được chuyển vào Biên Hoà. Bác sĩ ghi nhận “Bùi Giáng định hướng lực (không gian, thờ gian, bản thân) tạm đúng, bị ảo thanh và ảo thị rõ rệt, tư duy phi tán, hoang tưởng tự cao, thiếu hoà hợp, lúc tỉnh táo lại ý thức được bệnh của mình ” [47]. Sự “trái chiều” giữa lời Bùi Giáng tự nhận xét về mình với nhận định của bác sĩ phần nào lý giải được sự trái chiều giữa các nhà nghiên cứu khi lý giải “hiện tượng Bùi Giáng” cũng như trả lời câu hỏi “Bùi Giáng có điên không?”. Đồng thời, điều này cũng giúp ta trong quá trình tìm hiểu thơ của “thi sĩ dị biệt”. Mười năm cuối đời Bùi Giáng được người cháu họ đón về chung sống trong sự yêu thương của gia đình, điều đó giúp ông ổn định hơn về tâm lý, ít đi lang thang và chú tâm vào sáng tác. Ngày 7/10/1998 Bùi Giáng kết thúc cuộc rong chơi trần thế của mình. Đám tang của ông nhẹ nhàng như một câu ông vẫn thường nói “vui thôi mà”. Sinh thời, Bùi Giáng đã tóm tắt tiểu sử đời mình chỉ bằng một câu: “Thi sĩ sinh ra như mọi người giữa cỏ cây ly kỳ và chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gay cấn”! Bùi Giáng để lại một khối lượng sáng tác khá lớn với gần 60 đầu sách thuộc nhiều thể loại, gồm: 15 tác phẩm dịch (xuất bản trước năm 1975), ông dịch các sáng tác của A.Camus, A.Gide, A.Saint Exupéry…; khoảng 20 tác phẩm khảo luận, nghiên cứu, phê bình về các tác giả văn học trong nhà trường như Tản Đà, Bà Huyện Thanh Quan…về triết học và thơ ca; khoảng 20 tập thơ trong đó có 9 tập xuất bản trước năm 1975 (Mưa nguồn (1962), Ngàn thu rớt hột (1963), Lá hoa cồn (1963), Màu hoa trên ngàn (1963), Sa mạc trường ca (1963), Sa mạc phát tiết (1969), Mùa thu thi ca (1970), Bài ca quần đảo (1973), Thơ Bùi Giáng (1973)), số còn lại xuất bản sau năm 1975, đặc biệt nhà thơ này có 6 tập di cảo thơ đã được tập hợp và xuất bản trong thời gian từ năm 2005 đến 2008 (Mười hai con mắt, Thơ vô tận vui, Tuyết băng vô tận xứ, Mùa màng tháng tư, Thơ vịnh hoạ, Rớt hột phiêu bồng). Bùi Giáng sống giữa thời kỳ đất nước có nhiều biến động nhất, cùng với những biến cố xảy ra trong cuộc sống cá nhân đã tác động mạnh mẽ đến con người, hành động và nhất là tâm lý nhà thơ. Thế nhưng, sự “định hướng” trong văn hoá văn nghệ đương thời dường như lại không chi phối mạnh mẽ đến thơ ông. Đọc thơ của Trung niên thi sĩ người ta có cảm giác như Bùi Giáng đã “bơi” riêng mình một “dòng thơ”. Điều này được thể
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan