Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn thế giới nhân vật trong truyện ngắn lan khai...

Tài liệu Luận văn thế giới nhân vật trong truyện ngắn lan khai

.PDF
141
109
120

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thúy Thủy Ngân THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LAN KHAI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. BẠCH VĂN HỢP Thành phố Hồ Chí Minh – 2012 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám hiệu Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, Phòng sau đại học, tập thể thầy cô trong khoa Ngữ văn đã tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu trong suốt khóa học. Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS. Bạch Văn Hợp đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi hoàn thành tốt luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn PGS.TS. Trần Mạnh Tiến đã cung cấp những tài liệu quí báu, truyền thụ kiến thức, động viên giúp tôi vượt qua những khó khăn khi thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình cố nhà văn Lan Khai, đặc biệt là cụ Nguyễn Lan Phương đã cung cấp nhiều thông tin, tư liệu quí và động viên tôi trong suốt quá trình làm luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện, động viên giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. TP. Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 09 năm 2012 Tác giả luận văn Nguyễn Thúy Thủy Ngân QUY ƯỚC TRÌNH BÀY 1. Cách ghi chú thích Tài liệu trích dẫn được ghi theo số thứ tự tương ứng của nó trong phần danh mục TÀI LIỆU THAM KHẢO và được đặt trong dấu ngoặc vuông [ ] ngay sau phần có liên quan, sau dấu hai chấm (:) là số trang. Ví dụ: [26: 9] tức là phần trích dẫn ở tài liệu số 26, trang số 9. Thông tin đầy đủ về tài liệu trích dẫn được ghi trong mục TÀI LIỆU THAM KHẢO đặt cuối luận văn (sau phần Kết luận). 2. Cách viết tắt NXB: Nhà xuất bản ĐHSP TPHCM: Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. 3. Một số quy ước khác Phần được trích dẫn in nghiêng và được đặt trong hai dấu ngoặc kép (“ ”). Tên tác phẩm được in nghiêng. MỤC LỤC DẪN NHẬP ...................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3 3. Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu ........................................................ 13 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 14 5. Đóng góp của luận văn........................................................................ 15 6. Cấu trúc luận văn ................................................................................ 15 CHƯƠNG I: MỘT SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG, MỘT CÂY BÚT TRUYỆN NGẮN TÀI HOA ......................................................................... 17 1.1. Quan niệm nghệ thuật của Lan Khai .................................................... 17 1.2. Một sự nghiệp văn chương đồ sộ.......................................................... 21 1.3. Một cây bút truyện ngắn tài hoa ........................................................... 25 CHƯƠNG II: THẾ GIỚI NHÂN VẬT PHONG PHÚ, ĐA DẠNG TRONG TRUYỆN NGẮN LAN KHAI ...................................................... 31 2.1. Nhân vật kì ảo ....................................................................................... 32 2.1.1. Nhân vật nửa người nửa ma ........................................................... 33 2.1.2. Nhân vật thú ................................................................................... 35 2.1.3. Nhân vật nửa người nửa thú ........................................................... 38 2.2. Nhân vật thực ........................................................................................ 40 2.2.1. Nhân vật miền núi .......................................................................... 41 2.2.1.1. Nhân vật tiêu biểu cho tính cách, tâm hồn con người miền núi 41 2.2.1.2. Nhân vật đại diện cho thế lực hắc ám nơi miền núi .............. 51 2.2.2. Nhân vật thành thị ........................................................................... 57 2.2.2.1. Nhân vật khẳng định cá nhân trong tình yêu ......................... 57 2.2.2.2. Nhân vật thuộc tầng lớp dân nghèo thành thị ........................ 64 2.2.2.3. Nhân vật thuộc tầng lớp văn nghệ sĩ trí thức ......................... 70 2.2.2.4. Nhân vật lữ khách .................................................................. 74 CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LAN KHAI ........................................................................................ 80 3.1. Xây dựng tình huống truyện ................................................................. 80 3.1.1. Tình huống trữ tình thơ mộng ........................................................ 81 3.1.2. Tình huống ngẫu nhiên, bất ngờ..................................................... 83 3.1.3. Tình huống thử thách, lựa chọn nghiệt ngã.................................... 84 3.1.4. Tình huống bi kịch ......................................................................... 86 3.2. Nghệ thuật miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật ................................. 88 3.2.1. Miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, hành động thể hiện tính cách nhân vật ............................................................................................................. 88 3.2.2. Miêu tả nội tâm nhân vật .............................................................. 103 3.3. Giọng điệu trần thuật .......................................................................... 106 3.3.1. Giọng điệu điềm tĩnh, khách quan ............................................... 107 3.3.2. Giọng điệu chan chứa yêu thương ............................................... 108 3.3.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm.................................................... 109 KẾT LUẬN .................................................................................................. 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 116 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 120 1 DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài Giai đoạn 1930-1945 là thời kỳ trăm hoa đua nở của vườn hoa văn học Việt Nam hiện đại. Lĩnh vực thơ ca có những tên tuổi nổi tiếng như Xuân Diệu, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Huy Cận… Về văn xuôi, xuất hiện nhiều cây bút tài hoa nổi tiếng như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Kim Lân, Thạch Lam, Lan Khai…Trong đó, nhà văn Lan Khai – cây bút chủ lực của Nhà xuất bản Tân Dân đồng thời cũng là tác giả của nhiều tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau từ tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, kí, lí luận phê bình, đến dịch thuật, sưu tầm văn học…đã gây được sự chú ý của đông đảo độc giả và giới phê bình Bắc Hà. Hiện nay, di sản văn học của Lan Khai đã được giới phê bình nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá cao. PGS.TS. Ta-chi-a-na (chuyên gia văn học Việt Nam của Nga) đã khẳng định ông là nhà văn có tài viết truyện kinh dị. Đương thời ông cũng được các nhà nghiên cứu nổi tiếng như Trương Tửu, Trần Huy Liệu, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan…đề cao tài năng và cống hiến. Ngay từ năm 1935, trên báo Loa nhà nghiên cứu Trương Tửu đã mệnh danh Lan Khai là “nghệ sĩ của rừng rú”, là “đàn anh” trong việc miêu tả thế giới sơn lâm”, là “cây đa cổ thụ giữa cánh đồng bát ngát”. [45: 225]. Trong Nhà văn hiện đại (1942), Vũ Ngọc Phan nhận xét: “ Lan Khai là lão tướng trong làng tiểu thuyết đang gắng tìm đường mới” [26: 920], đồng thời, ông còn được các nhà văn cùng thời mệnh danh là “Nhà văn đường rừng”. Đánh giá về tiểu thuyết Lầm than, Hải Triều đã coi Lan Khai là “người đã phất lá cờ tiên phong trên mảnh đất này”. [36: 253] Ông để lại cho kho tàng văn học nước nhà 48 tiểu thuyết, 37 truyện ngắn. Như vậy Lan Khai không chỉ là lão tướng trong làng tiểu thuyết mà còn 2 là một cây bút tài hoa về truyện ngắn. Những đóng góp của ông đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cao về mọi mặt trong Lễ kỉ niệm 100 năm sinh của ông do Hội nhà văn tổ chức long trọng ngày 26/7/2006. Và đặc biệt bộ sách Tuyển tập Lan Khai (2 tập) do PGS.TS. Trần Mạnh Tiến sưu tầm được Nhà xuất bản Văn học xuất bản để chào mừng Đại lễ Ngàn năm Thăng Long Hà Nội đã thể hiện những cống hiến của ông cho mảnh đất ngàn năm văn hiến. Gần đây nhất, PGS.TS. Trần Mạnh Tiến cùng Nhà xuất bản Hà Nội cho ra mắt cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai giới thiệu 37 truyện ngắn tiêu biểu của Lan Khai, trong đó có những truyện lần đầu tiên được xuất bản. Với gần bốn mươi năm tuổi đời và gần hai mươi năm tuổi nghề, nhà văn mang tên loài hoa nở đẹp nhất rừng – Lan Khai, đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc một di sản phong phú, đa dạng, giàu giá trị nghệ thuật. “Cuộc đời và sự nghiệp của Lan Khai thật trong sáng và cao đẹp. Đáng lẽ ông phải được nghiên cứu, đánh giá công bằng trong văn học sử như là một nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam đương đại, một người có công với Cách mạng.” [36: 31]. Nhưng tiếc thay, cái chết bí ẩn của ông đúng vào thời điểm “nhiều tao loạn của lịch sử” đã phủ một bức màn bí ẩn trong dư luận kéo theo biết bao oan khuất và thiệt thòi cho ông và gia đình. Đó cũng là một trở ngại lớn cho những nhà nghiên cứu, nên hoạt động nghiên cứu di sản văn học của Lan Khai suốt nửa thế kỉ qua chưa tương xứng với tầm vóc của ông. Nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam – nhân dịp Lễ kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh nhà văn Lan Khai đã nói: “Lan Khai là một trong những nhà văn trưởng thành rất sớm về ý thức xã hội và lí tưởng nghệ thuật. Sự nhất quán trong hoạt động xã hội và sáng tác văn chương của ông thể hiện bản lĩnh và nhiệt huyết của một trí thức yêu nước và nhân cách văn hóa của một nhà văn” [36: 30]... Hầu hết các công trình nghiên cứu về truyện ngắn của Lan Khai chủ yếu khảo sát chung về nội dung và nghệ thuật hoặc đi vào một 3 mảng của truyện ngắn. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu hệ thống về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai. Đối với tiểu thuyết, truyện ngắn, nhân vật đóng vai trò quan trọng. Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. “Chức năng chủ yếu của nhân vật là xác lập mô hình của hiện thực và thể hiện định hướng về giá trị đối với cuộc sống. Nhà văn sáng tạo nhân vật là để thể hiện những cá nhân xã hội nhất định và quan niệm về các cá nhân đó. Nói cách khác, nhân vật là phương tiện thể hiện các tính cách, số phận con người và các quan niệm về chúng.” [28: 118]. Như vậy, nhân vật là một phương diện quan trọng thể hiện tư tưởng của nhà văn, tất cả những suy tư, trăn trở của tác giả sẽ tập trung ở nhân vật. Nên việc nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ông là điều cần thiết. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Những ý kiến đánh giá chung về sự nghiệp sáng tác của Lan Khai Ngay sau khi xuất hiện trên văn đàn, Lan Khai đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình chú ý. Người đầu tiên quan tâm đến Truyện đường rừng và Tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai là Trương Tửu. Trên báo “Loa” số 81 (ra ngày thứ năm, năm 1935), ông đã có những nhận định khá sâu sắc về một số thành công của Lan Khai ở thể loại Truyện đường rừng: “Với ông Lan Khai, rừng rú không còn xa lạ nữa. Trước mắt chúng ta, nó hiện nguyên hình, nhờ ngòi bút tài tình của tình nhân nó” [45: 225]. Ông đã gọi Lan Khai là: Nhà nghệ sĩ của rừng rú. Trong số 82, ông đưa ra những nhận định về tiểu thuyết lịch sử của Lan Khai: “Viết truyện lịch sử, ông ham tả những hiện trạng sâu thẳm của lòng người. Chỗ nào ông cũng trọng vẻ cao siêu, thâm trầm, ghét 4 những cái chất phác, sơ sài, nông nổi. Ông moi trong rừng rú, lục trong lịch sử những cuộc sinh hoạt âm thầm, não nuột...” [45: 234]. Đặc biệt đến năm 1938, tiểu thuyết Lầm than và Cô Dung ra đời đã thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và các nhà nghiên cứu. Trong Lời giới thiệu tiểu thuyết Lầm than, tác giả Trần Huy Liệu đã đánh giá cao giá trị của tác phẩm này: “Sau khi đọc xong thiên tiểu thuyết xã hội này, tôi rất vui mừng vì không thấy mình bị làm tựa, mà trái lại, với cái chủ ý của quyển truyện cùng cái quan điểm của tác giả, nó thúc giục tôi phải tỏ dấu biểu đồng tình, không một chút nào ngần ngại” [36: 248]. Ông nhấn mạnh giá trị hiện thực của tác phẩm ở chỗ đã phản ánh chân thực cuộc sống của những người thợ mỏ “bị bán rẻ sức lao động” nếu may “không bị sập lò, bị ngạt ghi-du mà chết như con lợn quay, thì cũng ốm yếu dần cho tới chết”. [36: 248]. Cũng trong năm này, Trong bài viết Lầm than – Một tác phẩm đầu tiên của nền văn tả thực xã hội ở nước ta, Hải Triều đã ghi nhận Lan Khai là nhà văn đầu tiên viết về người thợ: “(...) văn chương ở xứ xở này đã quên người thợ đi nhiều lắm, mà chính người thợ là người đáng nói nhất, và đáng nói nhiều nhất. Đặc điểm của tác phẩm của Lan Khai là nói đến người thợ, cái hạng khổ sở nhất trong giai cấp thợ thuyền, hạng thợ mỏ”. [36: 252]. Ông cũng đánh giá cao giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về nội dung, ông đánh giá cao giá trị hiện thực của tác phẩm: “tác giả Lầm than đã miêu tả tất cả cuộc đời khốn khổ cay chua ghê gớm, của hạng người mà sự sống đã hầu hóa ra một đàn súc vật, chịu đựng tất cả những sự bóc lột đê hèn của giai cấp sản chủ một cách tàn nhẫn vô cùng”. [36: 252] Và “(...) tác giả không quên chỉ vạch một cách đau đớn mà sống sượng những tâm lí cộc cằn, những cách ăn nói thô tục, những thành kiến hủ bại, cho đến những tập quán xấu xa như rượu, như phiện, như cờ bạc, là cái bướu nó bám níu theo giai cấp thợ thuyền trong chế độ người bóc lột người.” [36: 252]. Về nghệ thuật, ông cho rằng “Lầm 5 than (...) đã vạch một khuynh hướng trong văn học giới, cái khuynh hướng tả thực xã hội chủ nghĩa...” [36: 253]. Trong Tựa (Tiểu thuyết Cô Dung) năm 1938, tác giả Thiều Quang Lộc đã đánh giá tác phẩm xứng đáng là “đài kỉ niệm “chiến sĩ vô danh” của tất cả các thế hệ phụ nữ Việt Nam, qua bao nhiêu đời đã hi sinh cho sự tồn tại của Tổ Quốc” [36: 257]. Cũng trong năm này, trên “Phổ thông bán nguyệt san”, Vũ Ngọc Phan có bài viết phê bình tiểu thuyết Cô Dung. Ông chỉ ra những thành công của Lan Khai trong nghệ thuật xây dựng nhân vật: “Lan Khai đã tạo ra một cô gái đức hạnh ở thôn quê ta, nhưng lại khác hẳn các cô gái mà ta thường thấy trong các tiểu thuyết xuất hiện ở nước ta ngày nay.” [13: 4]. Năm 1941, trên Tạp chí Tri Tân số 29, tác giả Phạm Mạnh Phan có bài viết phê bình tiểu thuyết Mực mài nước mắt của Lan Khai. Ông đánh giá khá cao tác phẩm này: “Cốt truyện đơn giản tả rõ những khổ đau của nhà văn trong cuộc sống hàng ngày, giọng văn nhẹ nhàng và có khi bay bướm, khiến độc giả phải mải miết theo mình; tác phẩm có tư tưởng nhân từ và đáng quí về dân quê”. Bên cạnh đó, ông cũng đưa ra một số hạn chế của tác phẩm: “Luận bàn một cách dài dòng những triết lí bâng quơ” [30: 5] Năm 1942, trong công trình Việt Nam văn học sử yếu, tác giả Dương Quảng Hàm đã nhắc tới hai tác phẩm: Cô Dung và Lầm than, ông cho rằng hai tác phẩm này được sáng tác theo khuynh hướng tả thực. Cũng trong năm này, tác giả Kiều Thanh Quế, trong bài viết Cuộc kì ngộ Lan Khai – Zweig: Tội và thương gặp Lapeur, đã chỉ ra những đặc điểm của Lan Khai trong phỏng thuật đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà văn Đức Stêfan Zweig. Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942), đã có những đánh giá cao những sáng tác của Lan Khai ở mảng Truyện đường rừng, Tiểu thuyết 6 tâm lí – xã hội, Tiểu thuyết lịch sử. Ông tỏ ra rất hứng thú với nghệ thuật kể chuyện của Lan Khai ở mảng Truyện đường rừng. Như vậy, trước Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của Lan Khai đã thu hút khá đông sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Hầu hết các ý kiến ở mức độ khác nhau, đều khẳng định vị trí, tài năng của Lan Khai trên văn đàn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Suốt thời kì dài sau Cách mạng tháng Tám đến trước đổi mới, tên tuổi và tác phẩm của Lan Khai dường như bị quên lãng. Phải đến năm 1965, trong cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ mới đề cập đến sở trường viết tiểu thuyết và đặc biệt Truyện đường rừng của Lan Khai. Năm 1974, Phan Cự Đệ trong công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại khi bàn tới tác phẩm Lầm than, đã đánh giá đây là một “tác phẩm hiện thực” nhưng “hãy còn rơi rớt nhiều nét tự nhiên chủ nghĩa, sự hiểu biết của tác giả về chủ nghĩa cộng sản còn quá đơn giản, vốn sống về công nhân rất hạn chế”. [30: 7]. Cũng trong năm này, tác giả Thế Phong trong cuốn Lược sử văn nghệ Việt Nam đã đề cập đến cuộc đời và những sáng tác của Lan Khai. Ông đánh giá rất cao Truyện đường rừng: “Về tiểu thuyết đường rừng, Lan Khai tỏ ra có một chỗ đứng đặc biệt nhất trong văn đàn, ông viết thật đặc sắc”. [30: 7, 8]. Ngoài ra ông cũng đánh giá cao những tác phẩm: Lầm than, Cô Dung, Mực mài nước mắt của Lan Khai. Như vậy, vì những lí do lịch sử khách quan nhất định, hoạt động nghiên cứu về sáng tác của Lan Khai sau Cách mạng tháng Tám còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với sự nghiệp của ông. Từ sau đổi mới đến nay, hoạt động nghiên cứu, phê bình sự nghiệp sáng tác của Lan Khai đã có nhiều chuyển biến. Năm 1990, trong Đôi điều về nhà văn Lan Khai in trên “Phụ san báo văn nghệ”, Gia Dũng đã giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lan Khai. Bên cạnh đó, ông cũng 7 nhận định Lan Khai là “một trong số ít nhà văn tiền chiến đầu tiên viết về đời sống phong tục tập quán của dân tộc thiểu số ở Việt Nam” [2: 315]. Cũng trong năm này, trong bài viết Hành hương về thủ đô kháng chiến trên Tuần báo Văn nghệ, nhà văn Hoàng Minh Tường đã giới thiệu thêm những tư liệu về cuộc đời, hoạt động nghệ thuật của Lan Khai thông qua lời kể của bà Hà Thị Minh Kim – vợ nhà văn Lan Khai. Năm 1991, trong bài viết Lan Khai với truyện lạ đường rừng in trên Tạp chí Văn học số 6/1991, Ngọc Giao đã khẳng định sức hút mạnh mẽ của những truyện lạ đường rừng đối với độc giả đương thời: “Truyện lạ đường rừng được đặc biệt hoan nghênh. Cứ buổi sáng thứ hai là trẻ bán báo chạy tới tấp rao ngoài phố: “Ngọ báo – truyện lạ đường rừng. Đây!” Ông viết rất hay, cốt truyện nào cũng li kì, rùng rợn...” [6: 351]. Cũng trong bài viết này, Ngọc Giao đã nhấn mạnh đến sức cảm hóa người đọc về người trí thức qua tác phẩm Mực mài nước mắt: “Tác phẩm viết về những cơ cực của người cầm bút. Anh em trong nghề bán chữ nuôi thân, đọc ông, dầu chai đá mấy cũng ngậm ngùi đau xót” [6: 354]. Năm 1992, trong Lan Khai với “Truyện lạ đường rừng”, Ngọc Giao một lần nữa khẳng định lại vị thế của Lan Khai ở thể loại tiểu thuyết lịch sử: “Thời trước chiến sự Đông Dương văn đàn Bắc Hà nổi danh ba cây bút lịch sử tiểu thuyết: Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật, Phan Trần Chúc” [6: 349]. Cùng năm này, trong cuốn Từ điển nhân vật lịch sử của Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế đã trình bày vắn tắt về cuộc đời và những đóng góp của Lan Khai cho nền văn học Việt Nam 1930-1945. Năm 1997, qua bài viết: Vũ Trọng Phụng gặp Lan Khai, tác giả Hoàng Dạ Vũ cung cấp thêm nguồn tư liệu về tình bạn và đồng nghiệp của Lan Khai. 8 Năm 1998, Nhà xuất bản Văn học đã tái bản bộ: Tạp chí Tao Đàn do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên. Năm 2000, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh trong Giáo trình lịch sử văn học đã nhắc tới Lan Khai qua lời nhận xét: “Lan Khai cùng dòng tiểu thuyết lịch sử với Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Huy Tưởng...ở đây, cảm hứng lãng mạn có dịp thêu dệt những mối tình lâm ly giữa người tráng sĩ và giai nhân thời phong kiến xa xưa”. Ý kiến này đã góp phần khẳng định đóng góp của Lan Khai ở mảng Tiểu thuyết lịch sử. Năm 2001, Trần Mạnh Tiến trong bài viết Vấn đề nhà văn trong quan niệm của Lâm Tuyền Khách in trên báo “Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh”, đã đánh giá cao tư tưởng nghệ thuật của Lan Khai. Cũng trong năm này, Nguyễn Thanh Trường với Luận văn thạc sĩ Truyện đường rừng của Lan Khai đã khái quát những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật Truyện đường rừng của Lan Khai. Năm 2002, Trần Mạnh Tiến công bố công trình Lan Khai – Tác phẩm nghiên cứu lí luận và phê bình văn học. Công trình đã giới thiệu khá đầy đủ về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Lan Khai. Cũng trong năm này, trên “Tạp chí Tài hoa trẻ”, tác giả Trần Đồng Minh trong bài viết Đời thừa trong sự đối sánh liên văn bản đã phân tích tác phẩm Đời thừa của Nam Cao trong sự đối sánh với Mực mài nước mắt của Lan Khai góp phần khẳng định những đóng góp của Lan Khai về mảng đề tài người trí thức tiểu tư sản. Năm 2003, Vũ Văn Thăng trong Luận văn Thạc sĩ Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết về đề tài tâm lý – xã hội của Lan Khai, đã đề cao tài năng xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý – xã hội của Lan Khai. Năm 2004, trong cuốn Lan Khai – Lầm than (Chuyên khảo và tác phẩm), nhà nghiên cứu Trần Mạnh Tiến đã đề cao nghệ thuật tả thực của Lan Khai và đánh giá cao tư tưởng yêu nước của nhà văn. Cùng năm đó, Nhà xuất 9 bản Văn hóa thông tin cho ra mắt cuốn Lan Khai – Truyện đường rừng do hai tác giả Trần Mạnh Tiến và Nguyễn Thanh Trường biên soạn. Trong công trình này, hai tác giả đã công bố các sáng tác thuộc mảng tiểu thuyết của Lan Khai. Tác giả Trần Mạnh Tiến cũng đề cập đến những truyện ngắn truyền kì của Lan Khai. Theo tác giả: “Đó là một pho truyện lạ, đầy màu sắc truyền kì và kinh dị, nửa hư, nửa thực, có khả năng khơi dậy tính hiếu kì của độc giả và kích thích trí tò mò của trẻ thơ, là những tác phẩm nằm ngoài quan niệm tả thực của Lan Khai”. Bên cạnh đó, tác giả cũng đánh giá về các truyện ngắn lịch sử của Lan Khai: “(...) các truyện ngắn lịch sử như “Sóng nước Lô Giang” – (1935), “Mưu thằng Đợi” – (1941)...là những câu chuyện giàu tính hiện thực ở miền núi, mô tả một tình huống oái oăm hoặc một hành động dũng cảm vì nghĩa lớn” [8: 10]. Những nhận định này của Trần Mạnh Tiến đã một phần nào gợi ra được những nét chính của Truyện ngắn đường rừng và Truyện tâm lý – xã hội của Lan Khai. Năm 2006, Hội nhà văn Việt Nam đã cho xuất bản cuốn Lan Khai – nhà văn hiện thực xuất sắc. Đây là cuốn kỉ yếu tập hợp các bài tham luận trong hội thảo khoa học tổ chức nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai. Các bài viết đều đánh giá cao những đóng góp to lớn của Lan Khai từ ý thức nghệ thuật đến sáng tác ở các đề tài và thể loại như: Truyện đường rừng, Tiểu thuyết tâm lí – xã hội, Tiểu thuyết lịch sử, các Truyện ngắn và Kí... Năm 2010, Nhà xuất bản Văn học cho ra đời Tuyển tập Lan Khai (gồm hai tập) do Trần Mạnh Tiến biên soạn và giới thiệu. Trong Lời mở đầu, tác giả đã đưa ra cái nhìn tổng quát về con người và sự nghiệp văn học của Lan Khai. Năm 2011, Nhà xuất bản Hà Nội cho ra đời cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai bao gồm 37 truyện ngắn Trần Mạnh Tiến sưu tập và giới thiệu. 10 Trong lời mở đầu, tác giả đã đưa ra những nhận định khái quát về truyện ngắn của Lan Khai. Như vậy, hoạt động nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Lan Khai hơn nửa thế kỉ qua tuy chưa liên tục, nhưng cũng một phần nào khẳng định được tài năng và vị thế của nhà văn Lâm Tuyền Khách trên văn đàn 1930 1945. 2.2. Những ý kiến bàn riêng về truyện ngắn của Lan Khai Xét riêng công trình nghiên cứu về truyện ngắn Lan Khai có: Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Ngọc Hà với đề tài Truyện ngắn của Lan Khai. Trong luận văn này, người viết đi vào tìm hiểu khái quát về nội dung và nghệ thuật của 17 truyện ngắn, chủ yếu là truyện ngắn đường rừng đã được in trong tập Truyện đường rừng. Trong luận văn tốt nghiệp Nghệ thuật truyện ngắn kì ảo của Lan Khai của Vũ Thị Nhất, người viết chủ yếu đề cập đến cốt truyện, nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật của 9 truyện ngắn kì ảo. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai. Như vậy, sự nghiệp sáng tác của Lan Khai nói chung và mảng truyện ngắn nói riêng vẫn còn những khoảng trống lớn, rộng đường cho những ai muốn nghiên cứu về Lan Khai. Đặc biệt khi cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai do PGS.TS. Trần Mạnh Tiến sưu tầm và biên soạn, được xuất bản năm 2011, đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát về truyện ngắn của Lan Khai. Nếu như trước đây Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại viết: “Lan Khai là cây bút rất tài tình để viết truyện ngắn. Không hiểu sao ông lại chỉ có viết tập Truyện đường rừng? Thật đáng tiếc” [26: 905], thì sau khi cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai ra đời, người đọc mới thấy rằng Lan Khai không 11 chỉ viết Truyện đường rừng mà còn viết cả Truyện tâm lí xã hội và viết rất hay. Tuy nhiên, nhân vật là trung tâm của tác phẩm vì vậy trong mỗi công trình nghiên cứu, mỗi bài viết, các nhà nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai. Dưới đây là một số ý kiến đánh giá về nhân vật trong truyện ngắn của Lâm Tuyền Khách. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (quyển 4), mục Lan Khai có nhận xét như sau: “Đọc truyện đường rừng của Lan Khai, ta không nên nghị luận về hư thực, không nên đứng vào mặt khoa học để bài bác; ta nên đọc với óc thơ mộng, pha chút huyền ảo của cổ nhân, như khi đọc Liêu Trai của Bồ Tùng Linh vậy. Cái cô “người lạ” của ông Hội Cảnh kia là ma hay là người trong mộng, ta cũng chẳng nên quan tâm, ta chỉ nên biết: ở một nơi tịch mịch, chung quanh những núi cùng rừng, giá ta là ông Hội Cảnh ta cũng sẽ cũng có những tưởng tượng ghê rợn như ông…” [26: 903]. “Rồi cái cô ấy, sau khi làm cho ông Hội Cảnh lê quanh khắp chòi để tránh và hỏi ông Hội Cảnh những câu “líu ríu như tiếng chim”, làm cho ông “bồ hôi giá ngắt”, liền đứng dậy xuống chòi, đi lửng lơ ở không trung, như người đi lên một cái thang vô hình…” [36: 905]. “Những truyện như Ma thuồng luồng, Đôi vịt con, Người hóa hổ, Gò thần, đều là những truyện ghê sợ và cảm động. Truyện Ma thuồng luồng không khác gì truyện “Ngũ thông thần” trong Liêu Trai; truyện người hóa hổ cho người ta cái cảm tưởng là người với vật có thể trộn kiếp cùng nhau.” [36: 905]. Trong Lời nói đầu cuốn Lan Khai – Nhà văn hiện thực xuất sắc, PGS.TS. Trần Mạnh Tiến có nhận xét như sau: “Nổi bật lên trong những 12 trang viết của ông là hình tượng những chàng trai, cô gái tươi trẻ, khỏe đẹp, hồn nhiên chất phác, dũng cảm, tài hoa, có tình yêu trong sáng, thủy chung đấu tranh mạnh mẽ với thế lực đen tối cho cái đẹp và cái thiện trường tồn” [36: 7]. Trong Nhà văn Lan Khai – người mở đường vào thế giới sơn lâm, PGS.TS. Trần Mạnh Tiến viết: “Trong các Truyện đường rừng mỗi bức tranh thiên nhiên hiện lên đều sinh động và chứa đựng hồn người. Cùng với đó là những hình tượng chân thực về thế lực thần bí và hắc ám của thế giới đại ngàn như thác lũ, thú dữ, giặc cướp và bọn quan lang tham lam tàn bạo, phá hoại hạnh phúc, ấm no và cuộc sống bình yên của người lương thiện. Những gì là tăm tối, u mê, đói rét, lạc hậu, giả dối đều là kẻ thù của cái đẹp. Nhưng nổi lên trên hết là hình tượng những con người miền núi với những chàng trai, cô gái, những người lao động lương thiện dũng cảm, nhân hậu, thủy chung, vị tha, tài hoa và tươi đẹp, sống chan hòa với thiên nhiên, gắn bó với cộng đồng và quê hương đất nước, đoàn kết với các dân tộc và hướng về những khát vọng nhân văn.” [36: 148]. Trong Lời giới thiệu cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai, PGS.TS. Trần Mạnh Tiến đã có nhận xét như sau: “Đi sâu vào hiện thực, các câu chuyện Anh xẩm, Thằng Gầy, Cái của nợ vẽ lên hình tượng những con người bần cùng, bất hạnh, khát thèm cơm áo và tình thương; sống bơ vơ thiếu tình đồng loại” [38: 9] Trong cuốn Từ điển văn học (Bộ mới) – 2004 của Nhà xuất bản Thế Giới, tác giả Phạm Thị Thu Hương đã viết như sau: “Tập truyện đường rừng” đưa người đọc trở về với cái thời người và ma quỷ còn sống lẫn lộn với nhau, ma quỷ cũng có tình cảm yêu ghét, sợ hãi…y như người. 13 Như vậy, truyện ngắn của Lan Khai đã gây được sự chú ý lớn của những nhà nghiên cứu, những nhà phê bình. Một số công trình, bài viết có đề cập đến nhân vật trong truyện ngắn, song chưa đầy đủ và có hệ thống. Do đó, luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên đi sâu vào khảo sát thế giới nhân vật của Lan Khai trong 37 truyện ngắn được in trong cuốn Tuyển truyện ngắn Lan Khai xuất bản năm 2011. 3. Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Truyện ngắn đã được xuất bản của Lan Khai. Chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai”. Phạm vi nghiên cứu: 37 truyện ngắn trong Tuyển truyện ngắn Lan Khai do PGS.TS. Trần Mạnh Tiến biên soạn và sưu tầm. Bao gồm hai mảng truyện: Truyện đường rừng (18 truyện) và Truyện tâm lí- xã hội (19 truyện) Truyện đường rừng gồm: Người lạ (1940), Ma thuồng luồng (1940), Con thuồng luồng nhà họ Ma (1940), Con bò dưới Thủy Tề (1940), Đôi vịt con (1940), Mũi tên dẹp loạn (1940), Người hóa hổ (1940), Tiền mất lực (1940), Gò thần (1940), Pàng Nhả (1934), Dưới miệng hùm (1934), Sóng nước Lô giang (1935), Khảm khắc (1936), Tiếng sáo đêm thu (1934), Đêm ấy (1934), Bên rừng xuân (1936), Mưu thằng Đợi (1941), Người hóa beo (1941). Truyện Tâm lí – Xã hội gồm: Lẩn sự đời (1934), Giông tố(1934), Bỡn cợt với tình (1934), Một việc tự tử (1934), Vì cánh hoa trôi (1934), Nơi ước hẹn (1934), Anh Xẩm (1934), Thằng Gầy (1934), Cái của nợ (1934), Cô Bụt (1934), Khóc thông reo (1934), Khổ tình (1935), Chung tình (1935), Kiếp con tằm (1935), Chiếc xe trên đường (1934), Ngày qua (1935), Lyđêan (1930), Đào rụng (1939), Một nạn nhân của lãng mạn (1940). 14 Nhiệm vụ nghiên cứu Công việc của chúng tôi là thống kê, phân loại, đưa ra những nhận xét, đánh giá về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Lan Khai và những đặc điểm thi pháp nhân vật trong truyện ngắn của ông. Từ đó làm nổi rõ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và khẳng định những cống hiến to lớn của ông ở thể tài truyện ngắn. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp chính sau đây: 4.1. Phương pháp nghiên cứu lịch sử - xã hội Phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử - xã hội đến hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai. 4.2. Phương pháp hệ thống Tập hợp tất cả các loại nhân vật trong 37 truyện ngắn của Lan Khai thành các tiểu loại để khảo sát: Truyện ngắn đường rừng; Truyện ngắn tâm lí xã hội. 4.3. Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp Chúng tôi tiến hành khảo sát, lập bảng thống kê nhân vật trong 37 truyện ngắn của Lan Khai. Từ đó khái quát lại để chỉ ra những thành công và cả những hạn chế của nhà văn trong quá trình sáng tác. 4.4. Phương pháp so sánh Khi nghiên cứu các hình tượng nhân vật trong thể tài trên, chúng tôi có so sánh với các hình tượng nhân vật của các nhà văn khác cùng giai đoạn 1930 -1945 để khẳng định tài năng sáng tạo của Lan Khai.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan