ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
TRẦN THỊ BÍCH NGỌC
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành:
VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
TRẦN THỊ BÍCH NGỌC
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU.
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 602234
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Dục Tú
HÀ NỘI - 2013
1
MỤC LỤC:
A. Phần mở đầu: ..........................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài: ....................................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề: ........................................................................................................4
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: .............................................................................6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:........................................................................................7
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn: ............................................................7
6. Cấu trúc luận văn: ...................................................................................................7
B. Phần nội dung: ........................................................................................................9
CHƢƠNG I: THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU TRONG HÀNH TRÌNH THƠ ...............9
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ...............................................................................................9
1.1: Phác thảo diện mạo thơ kháng chiến chống Mĩ : ..............................................9
1.3. Hành trình sáng tác thơ của Nguyễn Đức Mậu: ..............................................14
1.3.1: Thơ ngƣời ra trận ( NXB Quân đội nhân dân 1971) .................................16
1.3.2. Cây xanh đất lửa: ( NXB Văn học -1973) ................................................18
1.3.4: Trƣờng ca sƣ đoàn: ( NXB Quân đội nhân dân-1980) .............................20
1.3.5. Hoa đỏ nguồn sông ( NXB Tác phẩm mới- 1987)....................................21
1.3.6: Bão và sau bão ( 1994) .............................................................................23
1.3.7: Cánh rừng nhiều đom đóm bay: ..............................................................23
CHƢƠNG II: THẾ GIỚI HIỆN THỰC TRONG THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU. .....25
2.1. Cảm hứng về thực tại chiến tranh của đất nƣớc. .............................................25
2.1.1. Hình ảnh đất nƣớc. ....................................................................................25
2.1.2. Hình ảnh ngƣời lính. .................................................................................31
2.1.2. Hình ảnh nhân dân. ...................................................................................37
2.2: Kí ức về chiến tranh trong cuộc sống hòa bình: .............................................40
2.3 Cảm hứng từ cuộc sống đời thƣờng: ................................................................49
2.3.1. Đất nƣớc, quê hƣơng, thiên nhiên thanh bình:..........................................49
2.3.2. Những ngƣời thân yêu. .............................................................................54
2
CHƢƠNG III: NHỮNG PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO TRONG
THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU. ....................................................................................66
1. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ. .................................................................................66
2. Phƣơng thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh: .................................................72
3. Giọng điệu thơ. ......................................................................................................77
4. Thể thơ: .................................................................................................................83
C. PHẦN KẾT LUẬN: .............................................................................................91
DANH MỤC THAM KHẢO: ...................................................................................93
3
A. Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc đã khơi nguồn cảm hứng cho thơ, lôi
cuốn một lực lƣợng sáng tác đông đảo . Các thế hệ làm thơ cùng có mặt bên nhau
trong trận tuyến đánh Mỹ. Lớp lớp nhà thơ trƣởng thành từ trƣớc cách mạng tháng
Tám nâng cao tầm tƣ tƣởng, phong phú kinh nghiệm, trẻ trong tâm hồn, khỏe trong
sức viết đã khẳng định đƣợc hƣớng đi và “ truyền lửa” cho thế hệ sau. Tiếp nối thế
hệ đi trƣớc là lớp nhà thơ trẻ trƣởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Những con
ngƣời ấy, trƣớc khi làm thơ, trong khi làm thơ, đều là những ngƣời lính, hoặc tình
nguyện sống nhƣ những ngƣời lính chống Mỹ. Điều đáng quý là thế hệ nhà thơ này
đã nhận thức sâu sắc sứ mệnh lịch sử lớn lao của thế hệ mình, chọn một con đƣờng
đi cho mình trong nhịp sống cuồn cuộn của dân tộc thời đánh Mỹ. Họ mang đến sự
đông vui cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi sục, mới mẻ, lạc quan và tràn đầy sức
sống của một dân tộc dám “ xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc”. Nét đặc sắc ấy khác
hẳn với “ cái tôi” tiểu tƣ sản của điệu nhạc tâm hồn của thơ mới ( 1930-1945), khác
với sự tƣơi sáng của cả một quần chúng rộng lớn, hồn nhiên đi làm cách mạng và
trở về thắng lợi của giai đoạn ( 1954-1960). Nói cách khác, thơ ca chống Mỹ mang
nét mới mẻ, sục sôi- đặc trƣng riêng của lứa tuổi trẻ mà thế hệ nhà thơ trƣớc đó
không thể nói thay đƣợc. “ Họ hiểu và nhận thức đúng đắn con đƣờng đi của mình.
Vừa cầm súng, vừa cầm bút, họ đã viết về thế hệ của mình một cách trân trọng và
rất đỗi tự hào” ( Hữu Thỉnh).
Trong tiến trình thơ hiện đại, thơ chống Mỹ giống nhƣ một dàn đồng ca, một
dàn hợp xƣớng lớn bởi nó đƣợc sinh thành trong một bối cảnh tinh thần đặc biệt “
những năm tháng đất nƣớc có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” ( Chế Lan
Viên) và khi nhà thơ “tự hát” thì cũng ý thức đƣợc “ nhƣng giọng anh đơn lẻ - sánh
sao bằng đồng ca”. Tuy thế, trong dàn hợp xƣớng của cả nền thơ, ngƣời ta vẫn nhận
ra nhiều chất giọng khác nhau, nhiều phong cách và thế giới nghệ thuật riêng của
một số nhà thơ tiêu biểu: Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Hoàng Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân…. Với mỗi tác phẩm của họ, ta nhƣ nhận
4
ra một phong cách riêng, một gƣơng mặt riêng, một dấu ấn riêng của mỗi nhà thơ –
mỗi ngƣời nghệ sĩ.
Là một trong số những nhà thơ trƣởng thành và lăn lộn nhiều năm ở các chiến
trƣờng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, “ đôi tay cầm súng và bản thảo trên
lƣng”, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã tạo dựng cho mình một phong cách riêng và
một thế giới nghệ thuật trong thơ vô cùng rõ nét, đóng góp quan trọng vào thành
công của nền thơ ca thế hệ chống Mỹ. Thơ ông vừa giản dị, chân thành, trải nghiệm
và sâu lắng, ấn tƣợng sâu sắc trong lòng ngƣời đọc về một nhà thơ có phong cách và
tâm hồn thi sĩ nhạy cảm.
Tìm hiểu về Nguyễn Đức Mậu, tôi lựa chọn cách tiếp cận, nghiên cứu về thế
giới nghệ thuật độc đáo trong thơ ông, cũng nhƣ làm sáng tỏ nguồn cảm hứng cùng
những nét đặc sắc nghệ thuật độc đáo trong các tác phẩm của ông. Bên cạnh đó,
xuất phát từ quan niệm Thi pháp học cho rằng “ hình thức nào cũng mang một nội
dung nhất định và nội dung nào cũng nằm trong một hình thức cụ thể”, càng thôi
thúc tôi khai thác đề tài này. Với cá nhân tôi, đây là một cơ hội đào sâu, mở rộng và
tìm hiểu về tiếng thơ Nguyễn Đức Mậu. Qua đó góp phần làm sáng tỏ phần nào nét
đặc sắc về thế giới nghệ thuật trong thơ và tài năng của “ nhà thơ áo lính” này.
2. Lịch sử vấn đề:
Trên tinh thần tiếp thu những quan niệm về phong cách thơ, chúng tôi đi sâu
tìm hiều về thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Đức Mậu- một gƣơng mặt tiêu
biểu trong thơ ca chống Mỹ và thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ông không chỉ thành
công khi viết về chiến tranh mà còn đạt đến độ chín trong suy tƣ cảm xúc giữa bộn
bề đời thƣờng nơi cuộc sống thanh bình. Thơ Nguyễn Đức Mậu dù ra đời trong
hoàn cảnh nào, thời gian nào cũng đƣợc độc giả khá chú ý, đón nhận. Số lƣợng bài
phê bình thơ Nguyễn Đức Mậu chƣa nhiều nhƣng đã phác họa đƣợc chân dung của
nhà thơ và đánh giá, ghi nhận những thành công đáng khích lệ của ông:
Vũ Quần Phƣơng đã có nhận xét về thơ Nguyễn Đức Mậu ở hai thời kì trƣớc
và sau chiến tranh: "Cuộc sống ở chiến trƣờng vô cùng phong phú, Nguyễn Đức
Mậu kiên trì tạo ra những bức tranh miêu tả, với nhiều chi tiết cụ thể độc đáo, chỉ
5
có những cây bút sống ở chiến trƣờng mới dễ có các chi tiết ấy" [23;3] và " Nguyễn
Đức Mậu vốn mạnh về tình cảm, xúc cảm. Ông đã phát huy đúng sở trƣờng của
mình. Tình cảm của ông thấm thía hơn, sâu sắc hơn theo năm tháng từng trải của
đời ông[ 34;3]. Hơn thế nữa, Vũ Quần Phƣơng đã khẳng định rằng: dù thời điểm
nào, phong cách thơ Nguyễn Đức Mậu vẫn sáng lên đặc sắc của một nhà thơ mặc áo
lính giàu tình cảm, đôn hậu.
Giáo sƣ Nguyễn Đăng Mạnh đã bày tỏ sự cảm phục một tài năng thơ và nhấn
mạnh “ thơ ông là thơ của một tấm lòng sâu sắc đầy rung cảm và những xúc động
nội tâm- một tiếng thơ hết sức chân thành”, [2;34]
Tác giả Trần Đăng Suyền lại có sự nhận xét về một khía cạnh khác trong thơ
Nguyễn Đức Mậu “ sự nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình, đan xen nhiều thể thơ
trong trƣờng ca nhằm mở rộng hiện thực, tăng cƣờng tính chính luận, triết lý trong
thơ”,
Các nhà nghiên cứu nhƣ GS Mã Giang Lân, Bích Thu, Lƣu Khánh Thơ lại
nhắc đến ông nhƣ một trong những hiện tƣợng tiêu biểu của thời kì kháng chiến
chống Mỹ và phân tích một số phƣơng diện trong đặc điểm thơ Nguyễn Đức Mậu,
hay nhƣ nhà thơ Trần Mạnh Hảo, Võ Văn Trực lại khẳng định “ Chiến tranh đã qua
rất lâu nhƣng thơ ca Nguyễn Đức Mậu chƣa có một ngày bình yên. Hầu nhƣ trái
tim ông đã biến thành quả bom kí ức đêm đêm ném xuống trang bản thảo tất cả nỗi
đau chƣa nguôi ngoai của chiến tranh, khiến các con chữ bị thƣơng nghiêng
ngả”[21;56].. Nói cách khác nhƣ Trịnh Thanh Sơn, sự dằn vặt với quá khứ của nhà
thơ Nguyễn Đức Mậu dai dẳng và săn sâu nhƣ " những ám ảnh hóa thạch"- " hóa
thạch máu và nƣớc mắt của cả một dân tộc đã vùng lên, giữ vững nền độc lập, tự do
cho đất nƣớc" [66;34]
Một số tác giả lại đi sâu phân tích những hình tƣợng nghệ thuật độc đáo của
thơ Nguyễn Đức Mậu nhƣ: tác giả Nguyễn Văn Long, nhà thơ Phạm Hổ cùng chung
sự yêu mến với hình tƣợng: ngƣời lính, tác giả Nguyễn Thanh Tú với hình tƣợng
Đất… đã nhắc đến Nguyễn Đức Mậu nhƣ là một trong những hiện tƣợng tiêu biểu
của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ
6
Và bản thân nhà thơ cũng đã từng bộc bạch: " Kỉ niệm về cuộc sống chiến đấu
nơi chiến trƣờng đã để lại dấu ấn sâu sắc không thể nhạt phai trong tôi. Nghĩ đến
cái chết của đồng đội nhƣ là sự thôi thúc của lƣơng tâm". Chiến tranh đã chạm khắc
rất sâu trong cảm xúc và tƣ duy của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu, trở thành một đặc
điểm riêng trong phong cách thơ.
Nhƣ vậy, qua việc tìm kiếm, nghiên cứu tƣ liệu, khảo sát các bài viết, nghiên
cứu về thơ Nguyễn Đức Mậu, cá nhân tôi nhận thấy đã có nhiều bài tiếp cận nghiên
cứu thơ ông bằng nhiều cách khác nhau, làm sáng tỏ những vấn đề khác nhau, đa
dạng và đa chiều nhƣng thực sự phần lớn chỉ là những bài viết nhỏ, những nhận xét,
đánh giá về một bộ phận trong thơ ông, chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu,
hoàn chỉnh, mang lại cái nhìn khái quát về thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Đức Mậu. Đó nhƣ là một khoảng trống gợi ý để chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tìm
hiều về “ Thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Đức Mậu” một cách có hệ thống.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Với yêu cầu của nội dung đề tài, tôi tập trung vào khảo sát, tìm hiểu thế giới
nghệ thuật trong thơ Nguyễn Đức Mậu. Sự tìm hiểu này đƣợc tiến hành dựa trên
toàn bộ sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu đã đƣợc xuất bản, một số bài thơ lẻ,
những bài giới thiệu thơ, bài phỏng vấn, tiểu luận phê bình văn học, bài viết đăng
các báo, tạp chí gần đây của tác giả. Trong số đó, tôi đặc biệt chú ý đến những tập
thơ đã đƣợc ghi nhận bằng những giải thƣởng cao quý, tìm đƣợc chỗ đứng trong trái
tim bạn đọc.
Những tập thơ đƣợc khảo sát cụ thể gồm: Thơ ngƣời ra trận ( Thơ in chung
1971), Cây xanh đất lửa (1973), Áo trận ( 1976), Mƣa trong rừng cháy ( 1976),
Trƣờng ca sƣ đoàn ( Trƣờng ca 1980), Hoa đỏ nguồn sông ( 1987), Từ hạ vào thu (
1992), Bão và sau bão ( 1994), Cánh rừng nhiều đom đóm bay ( 1998), Bầy chim và
lá vàng ( 2004), Mở bàn tay gặp núi ( 2008). Ngoài ra, tác giả Nguyễn Đức Mậu
cũng có những đóng góp nhất định ở thể loại truyện ngắn và văn xuôi: Con đƣờng
không quên ( truyện ngắn 1984), Tƣớng và lính (1990), Chí Phèo mất tích ( tiểu
thuyết 1993). Ở những tác phẩm này, chúng tội không đề cập sâu nhƣng vẫn sử
7
dụng nhƣ một tƣ liệu để đối chiếu và so sánh khi cần thiết để làm rõ hơn nét độc
đáo của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Ngoài ra, chúng tôi cũng sử dụng những sáng
tác của các nhà văn, nhà thơ cùng thời và các nhà thơ thuộc thế hệ đi trƣớc để có sự
đối chiếu, nhìn nhận, tìm ra những nét chung, nét riêng độc đáo của nhà thơ Nguyễn
Đức Mậu. Những sáng tác này đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo quan trọng để
soi sáng, nổi bật vấn đề trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để giải quyết đề tài này, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp sau:
- Phƣơng pháp tổng hợp tƣ liệu nhằm có cái nhìn khái quát vấn đề.
- Phƣơng pháp hệ thống: Ngƣời viết có thể hệ thống đƣợc vế sự hình thành,
vận động, phát triển của các yếu tố cấu thành nên phong cách nghệ thuật cũng nhƣ
cái nhìn riêng trong thơ Nguyễn Đức Mậu.
- Phƣơng pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh: Luận văn tiến hành
phân tích những sáng tác cụ thể của Nguyễn Đức Mậu trên nhiều chiều, trong một
hệ thống chung của cá nhân nhà thơ và thời đại. Bƣớc nghiên cứu đó đồng thời dựa
trên kết quả của sự so sánh thơ Nguyễn Đức Mậu với các thế hệ nhà thơ cùng thời,
giữa thơ Nguyễn Đức Mậu ở các chặng đƣờng sáng tác.
- Phƣơng pháp lịch sử: Vận dụng phƣơng pháp này để tìm hiểu ảnh hƣởng của
hoàn cảnh lịch sử, xã hội và các yếu tố con ngƣời, quê hƣơng…. đối với việc góp
phần làm nên một hồn thơ Nguyễn Đức Mậu riêng biệt.
5. Mục đích, ý nghĩa, đóng góp của luận văn:
- Luận văn là một công trình nghiên cứu về thế giới nghệ thuật trong thơ
Nguyễn Đức Mậu. Kết quả nghiên cứu trong luận văn này hy vọng sẽ đem đến một
cái nhìn khái quát, sâu sắc về diện mạo thơ Nguyễn Đức Mậu. Từ đó, ta thấy đƣợc
sự vận động của thơ ông trong tiến trình thơ đồng thời khẳng định những đóng góp
của tiếng thơ Nguyễn Đức Mậu đối với nền thơ Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc luận văn:
- Ngoài phàn mở đầu, kết luận và danh sách thƣ mục tham khảo, luận văn gồm
3 chƣơng :
8
* Chƣơng 1: Thơ Nguyễn Đức Mậu trong hành trình thơ hiện đại Việt Nam.
1.1 Phác thảo diện mạo thơ kháng chiến chống Mỹ.
1.2. Diện mạo thơ Việt Nam sau năm 1975.
1.3. Hành trình sáng tác thơ của Nguyễn Đức Mậu.
* Chƣơng 2: Thế giới hiện thực trong thơ Nguyễn Đức Mậu:
2.1: Cảm hứng về thực tại chiến tranh của đất nƣớc.
2.1.1. Hình ảnh đất nƣớc.
2.1.2. Hình ảnh ngƣời lính.
2.1.2. Hình ảnh nhân dân.
2.2: Kí ức về chiến tranh trong cuộc sống hòa bình.
2.3: Cảm hứng từ cuộc sống đời thƣờng.
2.3.1: Đất nƣớc, quê hƣơng, thiên nhiên thanh bình.
2.3.2: Những ngƣời thân yêu.
* Chƣơng 3: Những phƣơng diện nghệ thuật độc đáo trong thơ Nguyễn Đức Mậu.
1. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
2. Phƣơng thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh.
3. Giọng điệu.
4. Thể thơ.
C. Kết luận:
9
B. Phần nội dung:
CHƢƠNG I: THƠ NGUYỄN ĐỨC MẬU TRONG HÀNH TRÌNH THƠ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1.1: Phác thảo diện mạo thơ kháng chiến chống Mĩ :
Trải qua một quá trình phấn đấu, rèn luyện không mệt mỏi, đồng thời có sự
định hƣớng chính trị, sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, văn học giai đoạn chống Mỹ
nói chung và thơ ca chống Mỹ nói riêng đã có bƣớc trƣởng thành nhanh chóng cả về
số lƣợng và chất lƣợng, trở thành một mặt trận quan trọng trong công cuộc đấu
tranh chống đế quốc Mỹ. Có thể thấy rằng, văn học cách mạng là một nền văn học
của Đảng, của giai cấp công nhân. Do đó, nhiệm vụ của văn học và thơ ca kháng
chiến chống Mỹ phải phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ cách mạng là xây dựng chủ
nghĩa xã hội, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Có thể nói rằng, văn học
thời kỳ này đã đạt đƣợc nhiều thành tựu lớn. Trong đó thơ chống Mỹ là một nền thơ
phát triển ở trình độ cao – phản ánh đƣợc tƣơng đối đầy đủ bức tranh toàn cảnh của
một thời kỳ vẻ vang của dân tộc, nó vừa là “ngƣời thƣ ký trung thành của thời đại”
vừa để lại những ấn tƣợng sâu lắng, những cảm xúc chan chứa mang tầm cao tƣ
tƣởng, có giá trị và sức sống lâu bền với thời gian
Tiếp nối văn học kháng chiến chống Pháp, văn học chống Mỹ hƣớng vào sự
ngợi ca các chiến công, kỳ tích anh hùng của dân tộc. Chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam trong văn học giai đoạn này nói chung và thơ ca nói riêng là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ các tác phẩm. Chủ nghĩa anh hùng đƣợc phản ánh ngay ở
chính những con ngƣời đang sống, chiến đấu cho một lý tƣởng xã hội cao cả. Họ là
những con ngƣời xuất phát từ quần chúng bình thƣờng, đƣợc quần chúng tin yêu, có
tinh thần cách mạng tiến công, sẵn sàng hi sinh cho đất nƣớc. Dƣới sự lãnh đạo chặt
chẽ và thống nhất của Đảng, thơ ca kháng chiến chống Mỹ có những bƣớc chuyển
mình phát triển tạo nên một diện mạo mới cho nền văn học nƣớc nhà.
Một đặc điểm đáng chú ý nhất của thơ ca thời chống Mỹ là sự mở rộng của
hình ảnh cái Ta, thu nhỏ cái Tôi trữ tình. Hình ảnh dân tộc, nhân dân, hình ảnh non
10
sông đất nƣớc cùng với những tình cảm lớn hƣớng về quê hƣơng, Tổ quốc, hƣớng
tới cộng đồng đã dần dần trở thành xu hƣớng khái quát của thơ ca. Cái Ta ở đây là
cái tổng thể với ý nghĩa trọn vẹn nhằm đối lập với kẻ thù, tạo nên một mối đồng
cảm chung của mọi tầng lớp nhân dân. Cái Ta thật sự trở nên hoàn chỉnh, tròn đầy
vừa có ý nghĩa bao quát, vừa có ý nghĩa cụ thể, nó vừa là một nhân vật, một con
ngƣời, một biểu tƣợng:
Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc và cho tất cả
Lá cờ này là máu là da
Của ta của con ngƣời vô giá
(Tố Hữu)
Do xu hƣớng ngày càng mở rộng cái ta nên cái tôi trữ tình dần dần bị ẩn khuất.
Các nhà thơ nhân danh đất nƣớc mình, dân tộc mình để nói đến những tình cảm
chung, khát vọng chung, ca ngợi những con ngƣời sống, chiến đấu, hi sinh cho lý
tƣởng của Tổ quốc. Trƣớc đây, chúng ta bắt gặp hình ảnh cái tôi của các nhà thơ
bộc lộ một cách trực tiếp - đấy là sự đồng cảm, sẻ chia với những số phận bất hạnh
trong xã hội. Cảm nhận về cuộc sống, con ngƣời, về mọi miền quê, ta vẫn thấy đƣợc
một cái tôi trữ tình mang ý nghĩa cái tôi nội dung. Dù cái tôi đó đã “mở hồn mình
đón những vang vọng từ cuộc đời” nhƣng dù nhiều hay ít cái tôi trữ tình vẫn mang
hình ảnh của tác giả, mang những tâm tƣ, tình cảm của chính tác giả đó chứ không
phải cái tôi nói hộ, cái tôi nhân danh nhân vật khác. Cái tôi trong thơ giai đoạn này
không còn là đối tƣợng nhận thức, cái tôi bị che lấp, bị mờ nhạt để hòa cùng, để nói
cùng, để nhân danh cho toàn thể quốc gia, dân tộc. Mỗi một hình ảnh, một biểu
tƣợng, một xúc cảm, khi đƣợc viết ra phải mang trong mình cái chung của cả thời
đại. Tuy nhiên có thể thấy không phải mọi tác giả, mọi bài thơ đều nhằm phản ánh
hiện thực khách quan. Mỗi một tác giả, mỗi một bài thơ có khi hƣớng tới những
biểu hiện riêng của cảm xúc nhƣng cái riêng đó lại đạt đến cái chung, vận động đến
cái chung một cách không cố ý. Sự hòa quyện giữa nét chung và những nét riêng
tạo đƣợc sự cân xứng hài hòa, không xa lạ mà vô cùng gần gũi với cuộc sống, tình
11
cảm con ngƣời. Cái riêng ở trong cái chung, cái tôi ở trong cái ta, bởi tất cả những
tâm tƣ, tình cảm của con ngƣời đều hƣớng về lý tƣởng chung. Cái chung, cái riêng,
cái bình thƣờng, cái vĩ đại đều đƣợc thể hiện theo nguyên tắc điển hình hóa. Tƣ
tƣởng, hành động của con ngƣời Việt Nam đang chiến đấu và sản xuất đều đƣợc
chọn lọc khát quát để mang tính chất tiêu biểu cho dân tộc, thời đại. Nhƣ một xu thế
tất yếu, sự vận động của hình tƣợng thơ từ cái tôi sang cái ta có nghĩa là tƣ duy thơ
chuyển từ hƣớng nội sang hƣớng ngoại - tạo nên một nền thơ mang tính sử thi, đậm
chất anh hùng ca, đây là một đặc điểm quan trọng của thơ ca kháng chiến chống
Mỹ.
Thơ chống Mỹ là một giai đoạn phát triển khá rực rỡ của nền thơ cách mạng
hiện đại. Bên cạnh những hạn chế, thơ ca đã đạt đƣợc những thành công nhất định,
đánh dấu bƣớc trƣởng thành của văn học nói chung và của thơ kháng chiến chống
Mỹ nói riêng. Đó là một nền thơ có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, đồng thời là một
nền thơ mang tính nhân dân, tính quần chúng, rộng rãi sâu sắc nhất từ trƣớc cho tới
nay. Phản ánh đƣợc hiện thực chiến đấu, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam.Thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử mà Đảng và dân tộc giao phó kêu
gọi nhân dân hành động, đánh giặc, là tiếng nói tự hào, kiêu hãnh của ngƣời Việt
Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nƣớc. Với những thành tựu đã đạt đƣợc, thơ ca
giai đoạn chống Mỹ có thể sánh với bất kỳ một nền thơ phát triển nào của nhân loại,
xứng đáng đứng ở vị trí tiên phong của nền văn học chống đế quốc.
1.2. Diện mạo thơ Việt Nam sau năm 1975.
Sau năm 1975, cuộc sống thời hậu chiến có quá nhiều điểm khác biệt so với
cuộc sống thời chiến tranh. Điều đó đòi hỏi nghệ sĩ phải xác lập vị thế của mình sao
cho thích hợp với hoàn cảnh lịch sử mới. Từ chỗ là những ca sĩ ngợi ca đất nƣớc và
nhân dân bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ
“bè cao” sang “giọng trầm”. Cái nhìn sử thi đã dần phai nhạt và thay vào đó là cái
nhìn phi sử thi. Đây là yếu tố hết sức quan trọng khiến cho văn học giai đoạn này
thể hiện tinh thần dân chủ hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức
cá nhân đã trở thành nền tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau 1975.
12
Nhà thơ không còn bị vƣớng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và hiện thực thứ
yếu, không bị bó buộc trong những khung tƣ tƣởng định sẵn mà cố gắng thể hiện
tính đa chiều của hiện thực. Nói đúng hơn, hiện thực trong văn học phải là thứ hiện
thực của suy tƣ. Chỉ một khi nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt cá nhân, nói lên
tiếng nói cá nhân, lúc đó mới hi vọng anh ta tạo nên giọng điệu và tƣ tƣởng nghệ
thuật riêng. Tuy nhiên, trong những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, cần chú ý
đến hai mạch chính trong sự vận động của tƣ duy thơ. Thứ nhất, cảm hứng sử thi
vẫn đƣợc tiếp nối nhƣ một quán tính nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà giai
đoạn này xuất hiện hàng loạt trƣờng ca có ý nghĩa nhƣ những bức tranh hoành tráng
tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật
trong các trƣờng ca này so với thơ ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang chủ âm
hào hùng, nhƣng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con ngƣời.
Nói khác đi, trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã
quan tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất
nƣớc đƣợc đo ƣớm bằng nỗi đau của cá nhân:
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Hữu Thỉnh - Đƣờng tới thành phố).
Trong trƣờng ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái tráng
nhƣng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với những suy tƣ
cá nhân về số phận dân tộc và số phận con ngƣời. Thứ hai, trong những năm cuối
thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời thƣờng” xuất hiện nhiều.
Chƣa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế. Thậm chí, cảm giác bế tắc và
chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm trạng nhiều ngƣời: thời tôi sống có bao
nhiêu câu hỏi/ câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi (Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn
thời tôi sống). “Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay
đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con ngƣời trong cuộc
sống đầy khốn khó. Lƣu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi nghĩ về Tổ quốc.
13
Các hình tƣợng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ và
cảm hứng sử thi không còn xuất hiện nhƣ là hiện tƣợng nổi bật của thơ ca giai đoạn
này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm
sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết róng những mặt trái của đời sống,
những thay đổi các thang bậc giá trị và không né tránh việc nói đến những bất công
xã hội. Theo đó, thể tài thế sự, đời tƣ trở nên nổi bật. Ở đây chất giọng giễu nhại
mang trong mình nó ít nhất hai chức năng nghệ thuật cơ bản: một là làm cho thơ bớt
đi sự nghiêm trang thái quá, ngôn ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng thêm phù
sa của “cây đời”; hay đôi khi cho phép ngƣời đọc hình dung cuộc sống nhƣ một
thực thể đa trị, bên cạnh cái trong veo, thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm
hồn”. Thơ sau 1975 xuất hiện “cái tôi” đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hƣớng . Đến
khi công cuộc đổi mới đƣợc khởi xƣớng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại làm
thay đổi cuộc sống nƣớc ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn nghệ,
trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều
sự thật đau lòng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng đƣợc giải phóng triệt
để hơn. Cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí thƣ Nguyễn Văn Linh và giới văn nghệ sĩ cả
nƣớc vào tháng 10 năm 1987 có tác động rất lớn đến tinh thần của những ngƣời cầm
bút. Bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến các nhà
thơ không thể nhìn cuộc sống nhƣ trƣớc đây mà buộc họ phải thích ứng với những
thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu sắc về
tƣ duy nghệ thuật thơ giai đoạn này qua ba điểm đáng chú ý sau đây:
Ý thức nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra nhƣ một hình
thức tra vấn không ngừng về đời sống. Khát vọng đổi mới ấy trong nghệ thuật đã
đƣợc tiếp sức bởi công cuộc đổi mới của đất nƣớc. Màu sắc duy lí “tỉnh táo, tỉnh
bơ” khá đậm trong thơ cho thấy ý thức tạo dựng nhãn quan nghệ thuật mới của
nhiều nghệ sĩ. ý thức ấy bộc lộ qua hai dấu hiệu cơ bản: thứ nhất, thơ ca đã bắt đầu
bứt thoát khỏi những trận mƣa trữ tình và sự ngọt ngào thƣờng thấy trong thơ 19451975 để tiến đến sự đa dạng với những câu thơ trúc trắc, mang tính đối thoại cao,
giọng điệu thơ gần gũi với đời sống thƣờng ngày; thứ hai, cái nhìn tỉnh táo của nhà
14
thơ thực ra là cái nhìn giàu chất suy tƣ, là bề ngoài của một nỗi đam mê lớn bên
trong. Gắn liền với những thay đổi ấy trong cấu trúc tƣ duy nghệ thuật là vị thế của
nhà thơ trong hoàn cảnh mới. Nhà thơ không phải là những ngƣời rao giảng đạo đức
hay minh họa cho một tƣ tƣởng sẵn có mà anh ta phải góp phần đánh thức những
khát khao, những niềm trắc ẩn của con ngƣời trên cơ sở trình bày cảm nhận của
mình về các giá trị.
Nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những bi
kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị
mới Với tƣ cách là một nghệ sĩ, cái quan trọng nhất là nhà thơ phải tạo ra đƣợc quan
niệm riêng về đời sống. Quan niệm ấy không hiện lên qua những lời thuyết lý khô
khan mà phải hoá thân vào chữ nghĩa và hình tƣợng. Đó là lý do khiến các nhà thơ
sau 1986 chú ý nhiều hơn đến tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ ca. Bên cạnh xu
hƣớng đƣa thơ gần với đời sống là một cực khác: ý thức tạo ra tính nhòe mờ trong
ngôn ngữ và biểu tƣợng. Xu hƣớng này muốn gia tăng chất ảo trong thơ, buộc
ngƣời đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều chiều liên tƣởng văn hóa
khác nhau.
Nhƣ vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đã vận động một cách mạnh
mẽ theo hƣớng dân chủ hóa. Tất nhiên, trong quá trình tìm tòi, đã xuất hiện không ít
trƣờng hợp rơi vào cực đoan. Tuy nhiên, với những “cực đoan lành mạnh”, nhìn
thấy khía cạnh tích cực của nó: Nó sẽ là những cú hích để: phá bỏ những tín điều
mòn cũ một cách triệt để. Điều đó có ý nghĩa nhƣ một kinh nghiệm nghệ thuật để
những ngƣời đi sau tìm cách điều chỉnh hoặc tạo ra một lối rẽ khác triển vọng hơn.
Nếu hình dung nhƣ thế sẽ thấy, tuy chƣa tạo đƣợc những đỉnh cao nghệ thuật nhƣ ta
vẫn trông đợi, song với sự thay đổi về tƣ duy nghệ thuật, sự nhận thức toàn diện hơn
về bản chất thơ ca và cấu trúc thể loại, thơ Việt đã thực hiện một cuộc tạo đà mạnh
mẽ cho những kết tinh nghệ thuật trong chặng đƣờng sắp tới.
1.3. Hành trình sáng tác thơ của Nguyễn Đức Mậu:
Nhƣ chúng ta đã biết: Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu lấy tên khai sinh làm bút
danh, sinh ngày 14 tháng 1 năm 1948 tại làng Vị Khê- xã Nam Điền- huyện Nam
Trực- tỉnh Nam Định.
15
Quê hƣơng Nguyễn Đức Mậu là một làng quê đồng bằng Bắc bộ nghèo nhƣ
bao làng quê chiêm trũng khác, đã phải hứng chịu biết bao biến động của lịch sử,
bao khắc nghiệt của thiên nhiên và bao tấn bom đạn của kẻ thù trong chiến tranh.
Mảnh đất ấy cũng là nơi quy tụ và sinh thành những ngôi sao sáng chói trong lịch
sử văn học nƣớc nhà: Trần Tế Xƣơng, Á Nam Trần Tuấn Khải, Vũ Hoàng Chƣơng,
Nguyễn Bính… Mảnh đất Nam Định bên dƣới lớp sỏi khô cằn là những mạch
nguồn trong mát nuôi dƣỡng bao thế hệ sáng tác suốt cả thời kì lịch sử dài. Sức
sống dồi dào, sự trỗi dậy kiên cƣờng, bất khuất của quê hƣơng Nam Định khắc khổ
mà anh dũng đã ảnh hƣởng không nhỏ đến phẩm chất con ngƣời và phẩm chất thơ
Nguyễn Đức Mậu.
Say mê sống và say mê sáng tạo, Nguyễn Đức Mậu là ngƣời đam mê thơ ca thuở
ấu thơ. Ngay từ nhỏ, ông đã làm thơ có tác phẩm đăng báo, Mƣời bảy tuổi lên đƣờng
nhập ngũ theo tiếng gọi của tổ quốc, Nguyễn Đức Mậu đã phải sống những tháng ngày
gian khổ, đã giáp mặt với chiến tranh, cận kề với bom đạn và cái chết.. những thử thách
đó, nhƣ lửa thử vàng càng làm sáng tỏ lý tƣởng cách mạng kiên định trong tâm hồn nhà
thơ. Cuộc đời chiến sĩ với năng khiếu bẩm sinh, Nguyễn Đức Mậu đã biết chắt lọc từ
khói lửa, trong hy sinh mất mát những vần thơ mang âm hƣởng sử thi hào hùng. Nói
đến duyên thơ của Nguyễn Đức Mậu không thể không nhắc đến sự song song và thống
nhất của con đƣờng văn nghiệp và con đƣờng binh nghiệp. Đến nay, với trên hai chục
đầu sách gồm cả thơ, văn, tác phẩm viết cho thiếu nhi.. tất cả đã cho thấy Nguyễn Đức
Mậu có một sức sáng tạo thật dồi dào.
Với công việc biên tập thơ cho tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà thơ Nguyễn
Đức Mậu càng góp đƣợc nhiều hơn cho sự nghiệp thơ ca. Bằng kinh nghiệm sáng
tác của mình, Nguyễn Đức Mậu đã góp phần vun đắp những tài năng thơ đƣơng đại.
Hiện nay, ông đã nghỉ hƣu nhƣng vẫn tiếp tục bền bỉ trên con đƣờng sáng tác, nhƣ
ngày nào ông viết những vần thơ trong nỗi đam mê không thể dứt: Với nhà thơ, thơ
là nỗi đam mê
Họ theo đuổi, suốt đời chƣa dứt đƣợc
…Khi kết thúc tập thơ mới nhất
Lại bắt đầu vỡ đất tập thơ sau
( Ghi chép về thơ)
16
Chính vì thế, thơ Nguyễn Đức Mậu là sự kết tinh trí tuệ và cảm xúc- trí tuệ
giàu có, tƣ duy sắc sảo và một tấm lòng, một trái tim có sức lay động tâm hồn ngƣời
đọc. Thơ ông đã để lại ấn tƣợng sâu sắc về tiếng nói thơ đầy trách nhiệm trƣớc đất
nƣớc và cuộc sống đồng thời cũng phản ánh rõ những chuyển biến của tƣ duy thời
đại. Xin đƣa ra mốc thời gian phân chia chặng đƣờng sáng tác của thơ Nguyễn Đức
Mậu là những năm 1976- một năm sau hơn 30 năm đấu tranh gian khổ của dân tộc.
Sự phân định này nhằm mục đích phân biệt, so sánh sự khác nhau về đề tài, cảm
hứng nghệ thuật, các hình tƣợng thơ, cảm xúc trữ tình.. trong thơ Nguyễn Đức Mậu
giữa các chặng đƣờng sáng tác.
Trƣớc năm 1976, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu cho ra đời bốn tập thơ: Thơ
ngƣởi ra trận ( in chung với Vƣơng Trọng- năm 1971), Cây xanh đất lửa ( 1973),
Áo trận ( 1976), Mƣa trong rừng cháy ( 1976). Do sự xuất hiện trùng lặp của một số
bài thơ nên tôi tập trung khảo sát những tập : Thơ ngƣời ra trận, Cây xanh đất lửa,
Mƣa trong rừng cháy.
Sinh ra từ sau cách mạng tháng Tám 1945, đƣợc trau dồi tri thức, văn hóa
trong nhà trƣờng của chế độ mới, Nguyễn Đức Mậu thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ
thời kì chống Mỹ đã từ cánh cửa trƣờng đi thẳng tới chiến trƣờng cầm súng chiến
đấu.
Hiện thực đời sống những năm chống Mĩ và ngọn lửa chiến tranh cách mạng
đã tôi luyện Nguyễn Đức Mậu thành con ngƣời vững vàng trong cuộc sống, có bản
lĩnh nghệ thuật. Giáp mặt với thực tế chiến tranh, Nguyễn Đức Mậu đã ý thức sâu
sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình, sự xuất hiện đúng lúc của thế hệ mình.
Cùng với giải Nhất cuộc thi thơ do Báo Văn Nghệ tổ chức năm 1972-1973 cho
bốn bài thơ chân thật và cảm động về ngƣời lính ( Đất- Đôi mắt- Nằm hầm- Ghi ở
chiến trƣờng), Nguyễn Đức Mậu khẳng định tài năng, vị trí và trở thành một trong
những nhà thơ tiêu biểu của thời chống Mỹ.
1.3.1: Thơ ngƣời ra trận ( NXB Quân đội nhân dân 1971)
Đây là tập thơ đầu tay in chung với nhà thơ Vƣơng Trọng Tạo của anh lính
trẻ- nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Lúc này Nguyễn Đức Mậu vừa tròn 23 tuổi và đứng
17
trong quân ngũ đƣợc sáu năm. Phần thơ của Nguyễn Đức Mậu có 19 bài trong đó có
những bài rất nổi tiếng: Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc, Âm điệu đồng bằng,
Hầm vây lấn, Công sự trên điểm cao…
Trong tập thơ, ta bắt gặp một giọng thơ vừa trẻ trung, tƣơi tắn, chan chứa men
say nồng của tuổi trẻ ( Tháng ba, mùa đông lên đƣờng…) khao khát sống và chiến
đấu một cách chân thành, trong sáng ( Khát, Mùa xuân Trƣờng Sơn, mƣa Trƣờng
Sơn….)
Nguyễn Đức Mậu đƣa ngƣời đọc theo bƣớc chân của ngƣời lính từ giã thôn
xóm, làng mạc ra đi, hòa nhập cùng đồng đội trên mọi nẻo chiến trƣờng
Sống dồn sức trẻ băng ra biển
Tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng
Tháng ba trống vỗ căng trời rộng
Đƣờng đông ngƣời đi khi còn sƣơng
( Tháng ba)
Nhà thơ nhƣ hòa cùng khí thế lên đƣờng của cả một thế hệ, đi trong tiếng
trống giục giã, sôi động, trong niềm tự hào “ tôi mặc màu xanh đến chiến trƣờng”, “
tôi đƣợc là ngƣời lính", đƣợc lên đƣờng chiến đấu.
Không chỉ có vậy, tập thơ còn tái hiện đƣợc phần nào không khí của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc nhƣng hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến đấu
vẫn còn chƣa có nhiều ở tập thơ này. Hình ảnh con ngƣời thời đại chống Mỹ chủ
yếu đƣợc nhấn mạnh ở sự thanh tao, bình dị, nhƣng lại ánh lên sức mạnh của cả một
thế hệ, một dân tộc kiên cƣờng.
Suối ơi: in nhịp cầu xa tắp
Rừng già bom dội suốt mùa khô
Đánh trăm trận đã quen cơn khát
Những vẫn không nguôi khát diệt thù
( Khát)
Mặc dù không tránh khỏi những non nớt của tập thơ đầu tay và suy nghĩ của
một thanh niên trẻ tuối, nhƣng đây vẫn đƣợc coi là một tập thơ thành công, đáng ghi
18
nhận, tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển của thơ Nguyễn Đức Mậu ở những
chặng đƣờng sau, định hình một phong cách riêng “ thơ viết về ngƣời lính một cách
trung thực và giản dị”. Ngoài ra trong một số bài thơ của tập thơ này, Nguyễn Đức
Mậu cũng đã thể hiện đƣợc suy nghĩ sâu sắc, trƣởng thành hơn trong cách nhìn
nhận, phản ánh hiện thực.
1.3.2. Cây xanh đất lửa: ( NXB Văn học -1973)
Tiếp tục khẳng định phong cách thơ của mình từ sau tập thơ “ Ngƣời ra trận"
Nguyễn Đức Mậu đã cho ra đời tập thơ “ Cây xanh đất lửa”. Tập thơ gồm 30 bài thơ
và nội dung chủ yếu của nó vẫn là những câu chuyện ở chiến trƣờng, những chuyện
sinh hoạt đời thƣờng của ngƣời lính. Các bài thơ trong tập thơ này thƣờng là các bài
thơ dài hơi. Có những bài thơ đã trở thành tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách của
Nguyễn Đức Mậu thời chiến tranh nhƣ: Nằm hầm, anh Pa-thét Lào ngủ trong chum
đá, Nấm mộ và cây trầm, Ghi ở chiến trƣờng…
Có lẽ chƣa có tập thơ nào lại tái hiện và mô tả đầy đủ công việc của những
ngƣời lính nhƣ Cây xanh đất lửa. Tập thơ có lời tâm sự của anh lính công binh (
Theo những con đƣờng), có ngƣời chiến sĩ phá bom dũng cảm ( Nơi em có nhiều
bom đến nỗi), ngƣời coi kho ( Kho chiến rừng), chién sĩ pháp binh ( Hoa phong lan
ở trận địa pháo), bộ binh ( tiểu đội bộ binh trên chốt mùa mƣa), chiến sĩ Pathét Lào
( Anh Pa- thét Lào ngủ trong chum đá…).
Ngoài ra, nhà thơ cũng thể hiện lòng yêu tha thiết quê hƣơng, đất nƣớc ( Tổ
Quốc, đất Việt Nam)
Ơi! tổ quốc- Mẹ hiền sao kì diệu thế
Từ thuở vua Hùng dựng nƣớc vẫn hành quân”
( Tổ quốc)
Và tình cảm kính trọng với vị cha già của dân tộc :
Tháng Năm, tháng Năm ở mỗi con ngƣời
Nghĩ về Bác tình yêu thêm rộng mở
Trời cao, trời cao đong đầy thƣơng nhớ
Trái đất này nhƣ xích lại gần nhau
( Tháng năm nhớ Bác..)
- Xem thêm -