Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Luận văn tản văn nguyễn hữu quý

.PDF
100
121
51

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TRẦN BẢO THẮNG TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TRẦN BẢO THẮNG TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh THÁI NGUYÊN - 2019 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019 Tác giả luận văn Trần Bảo Thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh người thầy đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian tôi nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn nhà thơ, nhà văn Nguyễn Hữu Quý đã cung cấp những tư liệu quý giá liên quan, tình cảm chân thành đã giúp đỡ, chỉ bảo động viên để tôi hoàn thành văn này. Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn. Thái Nguyên, năm 2019 Tác giả luận văn Trần Bảo Thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang TRANG BÌA PHỤ LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC ......................................................................................................... i PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 5 4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5 5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6 6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6 PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 7 Chương 1. TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI ......................................................................................... 7 1.1. Khái quát về tản văn Việt Nam đương đại................................................. 7 1.1.1. Một số vấn đề chung về thể loại tản văn ................................................. 7 1.1.2. Một số tác giả - tác phẩm tiêu biểu và khuynh hướng nghệ thuật trong tản văn Việt Nam đương đại........................................................ 11 1.2. Nguyễn Hữu Quý với thể loại tản văn ..................................................... 17 1.2.1. Tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, quan điểm sáng tác của Nguyễn Hữu Quý ........................................................................................................ 17 1.2.2.Tản văn Nguyễn Hữu Quý trong dòng chảy tản văn đương đại ............ 21 Tiểu kết chương 1: .......................................................................................... 23 Chương 2. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT TRONG TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ ................................................................................... 24 2.1. Khái niệm, phân loại cảm hứng nghệ thuật trong văn học ...................... 24 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn ii 2.1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật trong văn học .................................... 24 2.1.2. Phân loại cảm hứng nghệ thuật trong văn học ...................................... 25 2.2. Các kiểu loại cảm hứng nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Hữu Quý ...... 28 2.2.1. Cảm hứng về văn hóa, lịch sử, quê hương, nguồn cội .......................... 28 2.2.2. Cảm hứng về con người và đời sống .................................................... 40 2.2.3. Cảm hứng tự biểu hiện “cái tôi” tác giả ................................................ 54 Tiểu kết chương 2: .......................................................................................... 60 Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRONG TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ ................................................................................... 61 3.1. Miêu tả hiện thực đời sống gắn với người thật, việc thật, kết hợp hư cấu có hạn chế ........................................................................................................ 61 3.2. Xây dựng các biểu tượng nghệ thuật ....................................................... 67 3.2.1. Biểu tượng Làng.................................................................................... 69 3.2.2. Biểu tượng Cát ...................................................................................... 72 3.3. Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật ......................................................... 75 3.3.1. Giọng điệu nghệ thuật ........................................................................... 75 3.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ............................................................................. 81 Tiểu kết chương 3: .......................................................................................... 86 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1.Giữa sự đa dạng của đời sống văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XXI, thể loại tản văn đang nổi lên để ngày càng khẳng định vị trí và giá trị của một thể loại mà trước đây vốn chưa được đánh giá một cách đầy đủ và tương xứng. Xu hướng phát triển của thể loại này đã đóng góp những thành tựu quan trọng cho nền văn học đương đại của nước nhà với những tên tuổi như Y Phương, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Quang Lập, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Phan Thị Vàng Anh, Phong Điệp.v.v.. Họ đã kiến tạo một hệ giá trị mới về thể loại cho văn xuôi đương đại Việt Nam. Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của thể loại tản văn, nhà văn Nguyễn Hữu Quý là một trong những tác giả đạt được thành công với những đóng góp nhất định. Chùm bốn tập tản văn Dưới tán cây Bồ Đề (NXB Văn hóa Thông tin, 2002), Cầu vồng Hiền Lương (NXB Quân đội nhân dân, 2006), Từ Đền Hùng nhìn ra biển cả (NXB Quân đội nhân dân, 2016), Thì thầm tiếng cát (NXB Kim Đồng, 2017) đã hiển lộ chân dung một cây viết tản văn độc đáo, ấn tượng, mà đằng sau đó là chân dung của một nhà văn hóa. Bề dày sự nghiệp văn chương của Nguyễn Hữu Quý vốn được xây dựng từ thành quả của thơ ca, nhưng đến nay đã có thêm một lĩnh vực quan trọng khác là tản văn. Tuy sự xuất hiện của tản văn Nguyễn Hữu Quý là còn khá mới mẻ, nhưng nó đã được giới nghiên cứu cũng như của độc giả đón nhận và đánh giá rất tích cực. 1.2. Khảo sát hệ thống các tác phẩm tản văn của Nguyễn Hữu Quý, chúng ta có thể nhận thấy một dòng chảy liên tục có bổ khuyết và hoàn thiện. Nếu như Dưới tán cây Bồ Đề khai thác về các vấn đề văn hóa – tôn giáo, thì Cầu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 2 vồng Hiền Lương và Từ Đền Hùng nhìn ra biển cả lại hướng đến vấn đề lịch sử dân tộc. Rất thú vị và đáng chú ý, đến Thì thầm tiếng cát, tác giả lại dành ngòi bút cho các đề tài về tuổi thơ, về thiếu nhi. Tản văn đang là một thể loại khởi sắc mạnh mẽ trên văn đàn như: Uông Triều, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Y Phương, Nguyễn Việt Hà ... Bởi vậy, khi nghiên cứu tản văn Nguyễn Hữu Quý, chúng tôi sẽ góp phần vào việc khảo sát, phân tích, đánh giá đặc trưng, thành công, hạn chế của tản văn Việt Nam đương đại. Thực hiện đề tài Tản văn Nguyễn Hữu Quý, chúng tôi mong muốn nhận diện những kiến giải sâu sắc và nhân văn của tác giả về các vấn đề văn hóa - lịch sử - nhân sinh, qua đó làm rõ và khẳng định sự phong phú sinh động và nét mới độc đáo riêng của Nguyễn Hữu Quý đối với thể loại tản văn nói riêng, những đóng góp của tác giả vào văn xuôi hiện đại Việt Nam nói chung. Nếu đề tài được thực hiện thành công thì đây là một tư liệu tham khảo bổ ích trong công tác dạy và học phần văn học Việt Nam hiện đại trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề Một số nhà nghiên cứu, nhà văn nhà thơ đã có những bài báo khoa học đáng chú ý về các tác phẩm của Nguyễn Hữu Quý, nhưng chủ yếu là các sáng tác thuộc thể loại thơ ca. Trên báo Đà Nẵng, ngày 18 tháng 12 năm 2016, tác giả Nguyễn Ngọc Hạnh có bài Thơ Nguyễn Hữu Quý, trong đó nhận định: “Muôn đời, thơ vẫn là nhịp cầu nối tâm hồn này đến tâm hồn khác. Sứ mệnh của thơ là thế, chẳng hề thay đổi, đừng bao giờ làm cho thơ xa lạ hay thấp hèn đi. Nhà thơ Nguyễn Hữu Quý luôn đau đáu nghĩ về thơ như vậy, chính điều này đã làm cho tác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 3 phẩm của ông luôn tươi mới. Lục bát rất khó viết, nhưng qua nhịp điệu, hình ảnh trẻ trung, Nguyễn Hữu Quý đã làm cho tứ thơ trở nên lấp lánh”. Nhà văn Nguyễn Bình Phương có bài Hành trình của “Sinh ở cuối dòng sông”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 576 (năm 2003), trong đó đánh giá: “Trong Sinh ở cuối dòng sông, cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước bỗng nhiên gần gũi đến lạ lùng bởi vì nó được đọc ra không phải từ sách vở mà đọc ra từ mỗi hạt cát, ngọn cỏ, mỗi số phận con người. Dường như với cái làng cát trắng ấy chiến tranh và hy sinh là một phần của cuộc sống, là cái phần tàn khốc nhất nhưng cũng vĩ đại nhất. Chính vì thế mà tất cả những gì thuộc về quê hương cũng trở nên thiêng liêng hơn và sâu sắc hơn”. Trên trang diễn đàn Thơ hiện thời plus, nhà nghiên cứu phê bình Ngô Văn Giá đã chỉ ra hành trình đời thơ Nguyễn Hữu Quý trong bài viết Một cuộc làm mới thơ (ngày 24/11/2017). Tác giả nhận định: “Cái tên Nguyễn Hữu Quý đã trở nên quen thuộc trong làng thơ Việt Nam và bạn đọc yêu thơ rộng rãi. Một giọng thơ chắt chiu, đi tìm và biểu đạt những vẻ đẹp tâm hồn. Một giọng thơ chinh phục người đọc bằng sự thành thực nội tâm. Vì thế, thơ Nguyễn Hữu Quý đẹp trong một vóc dáng hiền hòa, thuần hậu. Nhưng hình như nay đã khác. Có một Nguyễn Hữu Quý dấn thân hơn, gai góc hơn, phản biện đời sống dứt khoát và trực diện hơn. Nhà thơ can dự vào đời sống theo cách của thơ. Vẫn là đánh động tâm can người đọc, nhưng trên tinh thần của một sự phân tích đời sống chiều sâu, hòa phối chất cảm và chất nghĩ. Nhiều vần thơ nóng bỏng thời khí hiện tại, nhức nhối và đau đớn. Hình thái câu/bài thơ được nới mở ra bề bộn hơn, phóng túng, tự nhiên hơn. Tôi thích một Nguyễn Hữu Quý đang là Thơ anh đang góp phần chống lại một thứ thơ véo von, du dương trên mây vô bổ và tràn lan hiện nay”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 4 Trên báo Văn nghệ Thái Nguyên, ngày 16/5/2016 có bài viết “Nước mắt cá” Tản văn Nguyễn Hữu Quý, tác giả viét về cảnh ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sinh vật biển “ Nỗi sót xa của cá, của biển ai đã thấu hiểu”. Đặc biệt đáng chú ý, đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ Nguyễn Hữu Quý. Nó cho thấy sức thu hút và giá trị văn học của những tác phẩm của nhà thơ này. Tác giả Đặng Thị Nhung thực hiện đề tài Đặc điểm cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Hữu Quý (Luận văn thạc sĩ, Đại học Huế, 2015). Tác giả Nông Thị Phương Thảo thực hiện đề tài Thơ Nguyễn Hữu Quý (Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2018).v.v.. Những công trình luận văn trên đây đều khá công phu, khoa học, là những tiền đề mang tính định hướng và gợi ý để chúng tôi có những căn cứ nhất định về con người, tác phẩm, quan điểm sáng tác, quan niệm nghệ thuật của tác giả Nguyễn Hữu Quý để từ đó tiến hành thực hiện đề tài Tản văn Nguyễn Hữu Quý trong luận văn của mình. Một số nghiên cứu đã có những nhận diện và phân tích tổng quan về tản văn trong văn học Việt Nam hiện đại (Lê Trà My, Bước đầu tìm hiểu tản văn Việt Nam thời kì “Đổi mới”, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội, 2002). Tuy nhiên, đó là một nghiên cứu văn học sử và lịch sử thể loại, chứ không đi vào tìm hiểu chuyên biệt về tản văn của Nguyễn Hữu Quý. Như vậy, cho đến nay, khi nghiên cứu về Nguyễn Hữu Quý, mới chỉ có các bài báo, công trình nghiên cứu về tác phẩm thể loại thơ, hoàn toàn chưa có những tìm hiểu đánh giá về các tác phẩm thể loại tản văn của nhà văn này. Nó cho thấy, đây là một vấn đề mới mẻ cần nghiên cứu, khám phá để tìm ra những kho tàng kiến thức, những quan niệm mới có giá trị trong nền văn học Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 5 Những nhận định, đánh giá của các bài báo và các công trình trên đây phần nhiều đã nêu ra vấn đề, nhưng việc giải quyết chúng thì vẫn còn bỏ ngỏ. Đó là những gợi dẫn quan trọng để chúng tôi căn cứ và vận dụng triển khai trong luận văn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tiến hành thực hiện luận văn, trong khi tiếp cận các tác phẩm, chúng tôi tập trung nghiên cứu hai vấn đề cơ bản: Mạch nguồn cảm hứng và bút pháp nghệ thuật trong các tản văn của Nguyễn Hữu Quý. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn khảo sát trong phạm vi các tác phẩm thuộc thể loại tản văn của Nguyễn Hữu Quý: Dưới tán cây Bồ Đề (NXB Văn hóa Thông tin, 2002), Cầu vồng Hiền Lương (NXB Quân đội nhân dân, 2006), Từ Đền Hùng nhìn ra biển cả (NXB Quân đội nhân dân, 2016), Thì thầm tiếng cát (NXB Kim Đồng, 2017). Đồng thời, khảo sát mang tính quy chiếu, so sánh với một số tản văn của tác giả khác khi cần thiết để làm nổi bật nội dung, quan điểm nghệ thuật, phong cách sáng tác của Nguyễn Hữu Quý. 4. Phương pháp nghiên cứu Tiến hành thực hiện luận văn, chúng tôi tích hợp đồng bộ một số phương pháp sau đây: - Phương pháp nghiên cứu thi pháp học: Ứng dụng tri thức thi pháp học về thể loại để tiếp cận, nhận diện, phân tích và đánh giá các tác phẩm theo góc nhìn thể loại. - Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Văn hóa và văn học có những mối quan hệ tương hỗ, biện chứng. Muốn giải quyết vấn đề của luận văn, cần tiếp cận từ giác độ văn hóa học. Sử dụng phương pháp tiếp cận này, chúng tôi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 6 có điều kiện để khai thác những vẻ đẹp và đặc trưng của văn hóa Việt được thể hiện trong tác phẩm. - Các thao tác nghiên cứu khác: Ngoài việc sử dụng thao tác phân tích tác phẩm, chúng tôi kết hợp sử dụng một số thao tác như tổng hợp, so sánh nhằm khảo sát tác phẩm một cách chi tiết và hệ thống. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn nhận diện những khía cạnh đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong tản văn của Nguyễn Hữu Quý. Từ đó khẳng định cá tính sáng tạo độc đáo và đóng góp thêm một tiếng nói đánh giá về giá trị của tản văn Nguyễn Hữu Quý có những đóng góp quan trọng không chỉ đối với thơ ca mà còn cả đối với văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cũng qua nghiên cứu này, luận văn hy vọng sẽ đặt ra các vấn đề để các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm xứng đáng hơn về nghiên cứu thể loại tản văn, nếu luận văn thành công đây cũng là một tư liệu tham khảo bổ ích trong công tác dạy và học phần văn học Việt Nam hiện đại trong nhà trường. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và phần Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn có kết cấu 3 chương: Chương 1: Tản văn Nguyễn Hữu Quý trong tản văn Việt Nam đương đại Chương 2: Cảm hứng nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Hữu Quý Chương 3: Bút pháp nghệ thuật trong tản văn Nguyễn Hữu Quý Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 7 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 TẢN VĂN NGUYỄN HỮU QUÝ TRONG TẢN VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Khái quát về tản văn Việt Nam đương đại 1.1.1. Một số vấn đề chung về thể loại tản văn Bàn về thể loại tản văn nói chung và xác định nội hàm để xây dựng khái niệm về thể loại tản văn nói riêng, có thể coi là một công việc khó khăn, phức tạp. Do tính chất đặc thù của đối tượng, cho đến nay vẫn chưa thật sự có một khái niệm chính xác và thống nhất dành cho thể loại tản văn. Việc phân biệt tản văn - tạp văn - tạp bút vẫn còn những vấn đề chưa được khu biệt rõ ràng. Hầu hết, trong cách sử dụng từ ngữ chuyên ngành trên sách và báo chí đều đồng nhất ba thể loại trên. Người ta thường nêu tên cả ba cùng lúc để chỉ ra nhiều cách gọi khác nhau của cùng một thể loại, hoặc chỉ dùng một tên phổ biến nhất là tản văn để gọi tên tất cả. Theo Từ điển văn học (bộ mới) của Nhà xuất bản Thế giới thì không có khái niệm của tản văn, chỉ có khái niệm của tạp văn: “Tạp văn là một thể loại thuộc tản văn trong văn học Trung Quốc, thiên về nghị luận nhưng cũng giàu ý nghĩa văn học. Từ tạp văn vốn xuất hiện trong sách Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, song trong công trình đó từ này còn dùng để chỉ chung các thể loại văn chương. Tạp văn với tư cách là một thể văn chỉ chính thức ra đời vào khoảng Cách mạng Ngũ Tứ (1917 - 1924), là một bài luận văn ngắn, giàu tính luận chiến, thường xoay quanh một số vấn đề về xã hội, lịch sử, văn hóa, chính trị… Đặc điểm chung của tạp văn là ngắn gọn, linh hoạt, đa dạng; phản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 8 ánh một cách nhanh nhạy, kịp thời trước những vấn đề bức xúc của xã hội với những ý kiến đánh giá rõ ràng, sắc sảo” [33,tr1601]. Từ “tản văn” thường được dùng theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Theo nghĩa rộng, tản văn chỉ tất cả những thể loại ngoài thơ ca, bao gồm tác phẩm văn học và luận văn khoa học, văn bản hành chính công vụ. Theo nghĩa hẹp, tản văn được dùng với ý nghĩa văn học thuần túy là một thể loại văn học bên cạnh thơ ca, tiểu thuyết, kịch, thường gọi là “tản văn văn học” hoặc “tản văn nghệ thuật”. Loại tản văn này là thể loại văn học chú trọng việc ghi lại những gì đã trải qua, đã nghe thấy, cảm thấy, thể nghiệm liên tưởng của cái tôi hoặc ghi lại những câu chuyện, những trạng thái cảnh vật hoặc trữ tình hoài niệm, là loại tác phẩm văn học giàu tính trữ tình, rộng rãi về đề tài, tinh túy về nội dung, khuôn khổ tương đối nhỏ, ngôn ngữ tự nhiên mới mẻ, thủ pháp biểu hiện linh hoạt, văn phong sáng sủa. Tản văn là những tác phẩm văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có hoặc không có cốt truyện, biểu hiện rất đậm nét “cái tôi” tác giả với chân dung tâm hồn tự họa của người viết. Kết cấu của tản văn phóng khoáng, không có tính quy phạm chặt chẽ bởi được xây dựng theo dòng cảm xúc, tình cảm, suy nghĩ với những liên tưởng bất ngờ, hồi ức gần và xa, cùng sự luận giải các vấn đề nhân sinh - xã hội đậm tính chủ quan của người cầm bút. Với một nội dung như thế tản văn có phương thức biểu hiện tự do, giọng điệu đa thanh và ngôn ngữ đa sắc thái, kết hợp linh hoạt các bút pháp nghệ thuật khác nhau (tự sự, trữ tình, huyền ảo...), dung nạp cả chất thơ và chất văn xuôi. Có thể nói tản văn là một thể loại văn học nằm ở giữa truyện ngắn và ký văn học. Thể loại văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con người trước các hiện tượng đời sống. Thể loại là nơi thể hiện rõ nhất đặc trưng loại hình văn học vì là nơi nhận ra diện mạo, đường nét của một loại hình văn học. Tuy nhiên, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 9 không có một sự tuân thủ hay mô phỏng mang tính phân biệt tuyệt đối, mà thực tế, các thể loại văn học luôn ở trong sự vận động, thay đổi, có xu hướng giao thoa pha trộn vào nhau. Các hiện tượng đó làm khó cho công việc phân loại. Tiêu chí phân loại cũng rất nhiều. Phân loại về ngôn ngữ, về phương thức cấu tạo hình tượng, về dung lượng dài ngắn.v.v.. Các tiêu chí làm cho việc phân loại không khỏi chồng chéo, và nhìn chung sự phân loại chỉ có thể mang tính chất tương đối. Trong một bối cảnh như vậy, cso thể thấy rằng, tản văn được coi là một trong những thể loại phức tạp bậc nhất. Việc xác định và phân biệt thể loại tản văn do vậy cũng đặt ra nhiều yêu cầu mang tính linh hoạt cụ thể. Do sự phức tạp của nội hàm khái niệm thể loại tản văn, chúng tôi chọn khái niệm về tản văn trong Từ điển Thuật ngữ Văn học để dùng làm cơ sở chính triển khai đề tài của mình: “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý nghĩa mang đậm bản sắc cá tính của tác giả”[17,tr293]. Như vậy, có thể thấy rằng, tản văn là thể loại không giới hạn đề tài, chỉ cần người viết xác định được vấn đề then chốt cần nói thì bất cứ phạm vi nào của cuộc sống cũng có thể là đề tài cho tản văn. Có thể nói, người viết có thể viết bất kỳ điều gì mà họ trăn trở, muốn giãi bày dù đó là vấn đề mang tầm vĩ mô quốc tế, toàn cầu hay chỉ là một tâm sự cá nhân rất nhỏ bé. Tuy nhiên, dù viết về nội dung gì thì tản văn vẫn phải đảm bảo một điều kiện then chốt đó là phải thể hiện được một quan niệm nào đó của riêng tác giả. Hai yếu tố quan trọng của tản văn đó là tính cá nhân và tính thời sự. Tản văn không cần “cốt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 10 truyện” theo đúng nghĩa của nó, nhưng luôn có “cốt truyện” tâm trạng của người trần thuật. Tản văn đặc biệt cần cảm xúc. Bởi tản văn là tiếng nói riêng của người viết, là những suy nghĩ được trình bày dưới dạng viết nên buộc phải có cảm xúc, phải khiến độc giả tin đây là văn bật ra từ chính nhu cầu cần giãi bày của mình chứ không phải là việc liệt kê những sự kiện nào đó thành câu chuyện. Vì vậy, các nhà nghiên cứu cho rằng tản văn là một thể loại dễ viết nhưng khó hay. Dễ ở chỗ không quy định nội dung, không quy định hình thức, tự do, tản mạn nhưng lại phải chứa một vấn đề nào đó mà xã hội đang quan tâm và phải thể hiện nó theo cách riêng nhất của bản thân. Nếu tản văn không làm nổi bật được quan niệm riêng của tác giả thì xem như không đạt. Khó ở chỗ nói chuyện riêng, chuyện phiếm theo cách nghĩ chủ quan của mình nhưng lại phải thuyết phục độc giả tin vào mình, phải dẫn dắt sao cho từ những vụn vặt của đời sống tinh thần riêng tư bắt được nhịp với những vấn đề tồn tại mang tính thời sự của xã hội. Tản văn tản mạn nhưng không lan man, tự do nhưng không tùy tiện, nói chuyện riêng nhưng thực chất là luận bàn những vấn đề bức thiết của xã hội. Vì đặc điểm đó nên trong tản văn, kết cấu là một yếu tố rất quan trọng. Bắt đầu từ những suy nghĩ bất chợt, từ những chi tiết vụn vặt của cuộc sống nhưng kết thúc lại là một quan niệm, một phát biểu mang tính luận đề nên kết cấu phải là một bộ khung sườn chắc chắn và liền mạch để dẫn dắt tác phẩm đi đúng định hướng đã đặt ra. Nếu không có kết cấu tốt tản văn sẽ rời rạc hoặc tính luận đề được gán ghép một cách gượng gạo. Hoặc tác phẩm chỉ dừng lại ở mức độ giãi bày chứ không phát triển được đến chức năng phản ánh những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội như người viết mong muốn. Mặt khác, tản văn là một thể loại có dung lượng nhỏ nên không đòi hỏi phải tải một lượng thông tin lớn, chứa nhiều sự kiện. Như đã nói, điều cốt yếu trong tản văn là cảm xúc của người viết, là cái tôi được thể hiện như thế nào. Song, cũng chính vì đặc điểm này mà những vấn đề được bàn bạc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 11 trong tản văn không mang tính khách quan, thậm chí thiên lệch, phiến diện. Do đó, khi đọc tản văn, ta nên chú trọng vào giọng điệu, sắc thái, độ rung cảm của người viết trước hiện thực, nói chung là chú trọng cảm xúc tác giả, chứ không nên đánh giá quá cao tính đúng sai, tầm khái quát của vấn đề. Yêu cầu đó khó mà được thực hiện trọn vẹn ở tản văn - một thể loại mang dấu ấn cá nhân sâu sắc. Qua những cách tiếp cận khái niệm trên đây, có thể nhận thấy một số đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của thể loại tản văn, bao gồm: Thứ nhất: Tản văn có hình thức trình bày tương đối ngắn gọn, hàm súc, và thường không có cốt truyện. Thứ hai: Trong tản văn thì “Cái tôi” của tác giả được bộc lộ rõ nét, trở thành “nhân vật” trung tâm. Thứ ba: Tản văn thường viết về người thật, việc thật, dù vẫn có sử dụng hư cấu nhưng yếu tố này được vận dụng một cách hạn chế. Thứ tư: Tản văn thường có một biểu tượng nghệ thuật trung tâm, xuyên suốt mạch dài cả tác phẩm. Thứ năm: Có sự giao thoa thể loại rất mạnh mẽ, giữa tản văn với kí, tản văn với tùy bút.v.v.. 1.1.2. Một số tác giả - tác phẩm tiêu biểu và khuynh hướng nghệ thuật trong tản văn Việt Nam đương đại Thể loại văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con người trước các hiện tượng đời sống. Thể loại văn học là một hình thức tổ chức ngôn từ theo một dạng thức nhất định nào đó thể hiện cảm xúc, tư tưởng của con người trước các hiện tượng của đời sống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 12 Trong quá trình lịch sử phát triển của nền văn học Việt Nam, do nhiều lí do về hoàn cảnh lịch sử thời đại cũng như quan niệm thẩm mĩ và tư duy sáng tạo, cho nên thể loại tản văn vốn không có được vị trí nhất định trong đời sống văn học. Trong lịch sử, các thể loại như thơ, truyện, tiểu thuyết dường như vẫn được đề cao hơn. Theo những nghiên cứu của tác giả Lê Trà My, thể loại tản văn ở Việt Nam có một quá trình hình thành phát triển khá phức tạp. Nhìn lại một trăm năm lịch sử, có thể nhận thấy tản văn hiện đại từ khi được hình thành cho đến nay, trải qua những môi sinh văn hóa khác nhau, có những diễn biến đặc thù, có đời sống và sức sống riêng tương thích với các môi sinh văn hóa đó. Sự hình thành hay những bước đột khởi của nó hầu như đều gắn với các giai đoạn lịch sử có nhiều biến động về văn hóa, có sự giao thoa các tư tưởng Đông - Tây, dân tộc - quốc tế. Trong những thời điểm đó, sự nảy nở phong phú của các ý tưởng cá nhân cùng nhu cầu cất tiếng nói độc đáo, thể hiện sự tự do sáng tạo đã khuyến khích sự phát triển tản văn. Đặc biệt, những giai đoạn có sự biến đổi lớn các hình thức truyền thông sẽ là môi trường phù hợp “thể tạng” của tản văn, thôi thúc sự sinh trưởng mạnh mẽ của nó [31]. Tác giả đã đưa ra cái nhìn tổng quát để thấy những bước đi của tản văn trong các môi sinh văn hóa một trăm năm qua, với các giai đoạn sau: Giai đoạn tiếp xúc văn hóa phương Tây (từ thập niên thứ hai thế kỉ XX đến năm 1945) - Đây là giai đoạn đánh dấu sự hình thành và phát triển của tản văn; Giai đoạn chiến tranh và hậu chiến (từ năm 1945 đến năm 1986) - Đây là giai đoạn tản văn bị phân hóa và rơi vào trạng thái trầm lắng; Giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế (từ năm 1986 đến nay) - Đây là giai đoạn Việt Nam mở cửa, giao lưu và hội nhập, đặc biệt là giai đoạn đánh dấu bước ngoặt về truyền thông, cho nên tản văn hồi sinh mạnh mẽ sau một thời gian dài gần như bị loại khỏi mối quan tâm của cả người sáng tác và người đọc, bắt đầu được chú ý và ngày càng có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 13 sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống xã hội, từ đó có sự vượt trội về số lượng sáng tác, đề tài, chủ đề. Phải đến gần đây, đặc biệt là bước sang đầu thế kỉ XXI, thể loại tản văn xuất hiện nhiều hơn, có tính hệ thống hơn, tạo nên một luồng gió mới trong đời sống văn học Việt Nam. Theo góc nhìn mới của văn chương Việt Nam với đầy đủ các chủ đề trong cuộc sống, có thể thấy loại sách tản văn xuất hiện ngày một dày đặc, và trở nên quen thuộc với mọi người yêu thích văn chương hiện nay. Sự nở rộ của tản văn khiến cho chúng ta buộc phải thật lòng thừa nhận về tinh thần dân chủ của các thể loại văn học. Một giai đoạn dài trước đây, bởi những quán tính văn nghệ đường lối, giới cầm bút nước ta ưa thích triển khai những câu chuyện lớn, và kéo theo đó, trong văn xuôi, tiểu thuyết, truyện ngắn và cùng lắm, bút kí/tùy bút mới được xếp chiếu, được đầu tư lao động. Những mô hình viết khác, như thư từ, nhật kí, tự truyện, hồi kí…, bị phớt lờ và chịu không ít dị nghị. Thói quen đánh giá thiên về giá trị phản ánh hiện thực cuộc sống lớn lao trong tác phẩm đã lảng tránh những tản mạn cảm xúc, suy nghĩ rời rạc, vụn vặt và hết sức riêng tư. Tản văn với đặc trưng ngắn, gọn, “tiểu tự sự”, tự do tùy hứng của mình đã phải chịu hoàn cảnh thiếu vị thế trước các thể loại lớn. Nhưng bởi sự đảo chiều trong thời đại thông tin, nơi cái nhanh gọn, dễ nắm bắt, dễ triển khai là qui tắc hàng đầu của mọi kênh phát và nhận, nên tản văn có cơ hội giành lấy vị thế mới. Vì thế, đã đến lúc chúng ta nên coi những cuộc chơi nhỏ, vừa tầm đón đợi và mặt khác, linh động bước vào thị trường văn chương, cũng là một nỗ lực xây dựng giá trị. Thừa nhận sức mạnh của tản văn đồng nghĩa với việc các thể loại được đón nhận và tồn tại một cách bình đẳng trong đời sống văn học. Một yếu tố nữa rất đáng chú ý là đề tài của tản văn đặc biệt rộng lớn, và bất cứ thứ gì cũng có thể nói đến như lịch sủ, tương lai, thiên văn, địa lí, tình cảm, tôn giáo, nghệ thuật, triết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn 14 học,…Với sự vận dụng tài tình của ngòi bút điêu luyện, xuất thần, tản văn có thể bao hàm triết lí sâu sắc, tình ý đậm chất thơ, từ đó mà tạo ra được sức hấp dẫn đối với người đọc. Sự rộng lớn của tản văn vượt lên trên tất cả thể loại văn học khác. Tản văn không phải là cách sắp xếp nhỏ lẻ, cũng không phải là có vị thế lớn, nó là thể loại văn lành mạnh, phóng túng, có thể là tinh thân thời đại với xu hướng thẩm mĩ rất cao. Góp phần tạo nên vị thế đó của thể loại tản văn, phải kể đến các tác phẩm của những tên tuổi đã thành công với thể loại này. Nhìn trên tổng thể, các cây viết tản văn ở Việt Nam hiện nay đi theo hai khuynh hướng cơ bản sau đây: Khuynh hướng tản văn về các vấn đề đời sống thường nhật: Với các tác giả tác phẩm nổi bật như Nguyễn Quang Lập (Kí ức vụn; Chuyện đời vớ vẩn); Phan Thị Vàng Anh (Tạp văn Phan Thị Vàng Anh; Ghi chép nhỏ của người cưỡi ngựa), Nguyễn Việt Hà (Đàn bà uống rượu; Con giai phố cổ; Mặt của đàn ông; Nhà văn thì chơi với ai); Đỗ Bích Thúy (Trên căn gác áp mái; Đến độ hoa vàng); Nguyễn Ngọc Tư (Đong tấm lòng; Yêu người ngóng núi; Biển của mỗi người; Gáy người thì lạnh).v.v.. Khuynh hướng tản văn về các vấn đề văn hóa: Với các tác giả tác phẩm tiêu biểu như Y Phương (Tháng giêng, tháng giêng, một vòng dao quắm; Kungfu người Co Xàu; Fừn nèn – Củi tết); Đỗ Chu (Tản mạn trước đèn); Cao Huy Thuần (Chuyện trò; Sợi tơ nhện; Khi tựa gối khi cúi đầu); Nguyễn Quang Thiều (Trong ngôi nhà của mẹ; Mùi của kí ức; Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng).v.v.. Trong khuynh hướng này, tản văn Nguyễn Hữu Quý cũng có những đóng góp với các tác phẩm như: Dưới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan