Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn sự vận động phát triển hệ thống chủ đề đề tài trong văn chương thiền ...

Tài liệu Luận văn sự vận động phát triển hệ thống chủ đề đề tài trong văn chương thiền phái trúc lâm

.PDF
80
77
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------- TRẦN THỊ HƢƠNG SỰ VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI TRONG VĂN CHƢƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------------------- TRẦN THỊ HƢƠNG SỰ VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI TRONG VĂN CHƢƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Vƣơng HÀ NỘI – 2013 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 4. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5 6. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 6 NỘI DUNG....................................................................................................... 7 Chƣơng 1: XÁC ĐỊNH NỘI HÀM CỦA KHÁI NIỆM VĂN CHƢƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM ............................................................................ 7 1.1. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm ........................................................... 7 1.2. Tác giả văn học trong Thiên phái Trúc Lâm.............................................. 8 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 10 Chƣơng 2: SÁNG TÁC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI ................................................................................. 11 2.1. Khái niệm chủ đề - đề tài ......................................................................... 11 2.2. Hệ thống chủ đề - đề tài qua sáng tác của một số tác giả trong Thiền phái Trúc Lâm ......................................................................................................... 11 2.2.1. Trần Thái Tông ................................................................................. 11 2.2.1.1. Con người nhân ái vị tha rộng mở ............................................. 16 2.2.1.2. Con người giác ngộ với những phẩm hạnh cao cả .................... 19 2.2.2. Tuệ Trung Thượng Sĩ ........................................................................ 21 2.2.2.1. Bậc trí có cái nhìn thông đạt xem sống chết là lẽ thường mà thôi.26 2.2.2.2. Nếp sống đạo Thiền - Suối nguồn hạnh phúc ............................ 32 2.2.3. Trần Nhân Tông ................................................................................ 34 2.2.3.1. Ngộ: Vô thường vô ngã thiền thơ............................................... 36 2.2.3.2. Ngộ: Trực cảm tâm linh thiền thơ.............................................. 39 2.2.3.3. Ngộ: Thủy nguyệt điền viên thiền thơ ........................................ 40 2.2.3.4. Ngộ: Lâm tuyền dã thú thiên thơ ............................................... 42 2.2.3.5. Ngộ: Sơn thôn lạc chiếu thiên thơ ............................................. 43 2.2.4. Pháp Loa ........................................................................................... 45 2.2.5. Thiền Sư Huyền Quang ..................................................................... 49 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 56 Chƣơng 3: HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI CỦA VĂN CHƢƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM TRONG HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI CHUNG CỦA VĂN HỌC DÂN TỘC CÙNG THỜI................................. 57 3.1. Chủ đề - đề tài của văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV. 57 3.1.1. Văn học Phật giáo ............................................................................. 57 3.1.2. Văn học yêu nước .............................................................................. 61 3.2. Đóng góp của Thiền phái Trúc Lâm vào hệ thống chủ đề - đề tài của văn học dân tộc ...................................................................................................... 65 KẾT LUẬN .................................................................................................... 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 73 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đạo Phật từ Ấn Độ được du nhập vào Việt Nam đã hơn hai ngàn năm. Trong suốt chiều dài lịch sử đó, Phật giáo đã tồn tại và song hành cùng vận mệnh thăng trầm của dân tộc. Trải qua nhiều thời đại Đinh, Lê, Lý, Trần,…đạo Phật được xem là quốc giáo. Đặc biệt là thời nhà Trần không những đất nước thịnh trị mà văn học cũng phát triển rực rỡ. Song song với sự phát triển của văn chương Phật giáo thời bấy giờ, nền văn học Việt Nam cũng được khơi nguồn phát triển. Văn học Việt Nam từ khi ra đời đến nay đã trải qua nhiều thời kì. Trong từng thời kì, do đặc điểm riêng về kinh tế, văn hoá xã hội, hệ tư tưởng,… nên diện mạo văn học không tránh khỏi có sự khác nhau. Văn học thời Trần ra đời trong hoàn cảnh cả đất nước liên tục chiến đấu chống ngoại xâm và Phật giáo phát triển cực thịnh nên bên cạnh mảng văn học yêu nước còn có sự xuất hiện của mảng thơ thiền như một khu vườn nghệ thuật mới lạ và đầy sức thu hút. Dù do hoàn cảnh lịch sử, tác phẩm thơ văn thiền không còn lại bao nhiêu, nhưng xuất phát từ tinh thần "thức nhất phiến, tri toàn thiên" ta vẫn tìm thấy nhiều điều thú vị. Toàn bộ vấn đề Sự vận động phát triển hệ thống chủ đề - đề tài trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm thời Trần đã toát lên một sự giải thoát tự tại chứa đựng những triết lý sâu xa nhưng rất gần gũi với con người. Bằng những việc làm, sự nhập thế tích cực của các vị Thiền sư, các vua quan là những Phật tử thuần thành đã đưa văn chương Thiền phái Trúc Lâm vào lòng dân tộc. Đây chính là nét độc đáo mà chúng ta có thể tìm thấy ở thời đại nhà Trần và đó cũng chính là lý do vì sao người viết chọn đề tài này. Nhưng vì kiến thức người viết còn hạn hẹp cho nên không sao tránh khỏi những sai sót trong khi viết, dù đã cố gắng hết sức. Người viết mong được quý vị hoan hỉ phủ chính và chỉ bảo thêm. 1 2. Lịch sử vấn đề Đứng về phương diện chính trị - xã hội, nhìn chung các Thiền sư thời Trần đều là những người có tấm lòng yêu nước nồng nàn, có tinh thần tự chủ dân tộc cao, xứng đáng là những tấm gương sáng cho đời sau noi theo Đứng ở phương diện văn học, các Thiền sư thời kỳ này còn là những nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc. Những sáng tác văn chương của họ đã góp phần to lớn cho việc hình thành nên văn học viết Việt Nam buổi đầu của thời kỳ độc lập tự chủ. Bởi vậy, đã có không ít các công trình nghiên cứu về văn thơ thời kỳ này nói chung và văn thơ của các thiền sư Thiền phái Trúc Lâm nói riêng. Việc làm sáng tỏ vấn đề Sự vận động phát triển hệ thống chủ đề - đề tài trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm thời Trần được thể hiện qua các sáng tác văn chương của các Thiền sư sẽ giúp chúng ta có sự nhìn nhận sâu sắc hơn triết lý sống của các Thiền sư ở văn học giai đoạn này nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Từ đó, có sự đánh giá khách quan, đúng mức về những đóng góp của các Thiền sư thời kỳ này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền độc lập tự chủ cũng như trong lĩnh vực văn học Hướng nghiên cứu này có các công trình đáng lưu ý như: - Quyển Thực thể Việt nhìn từ các tạo độ chữ, tác giả Trần Ngọc Vương, Nhà xuất bản tri thức Hà Nội năm 2010. - Quyển Văn học trung đại Việt Nam do Lê Trí Viễn chủ biên (tài liệu lưu hành nội bộ của trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 1985) và quyển Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX) do Đoàn Thị Thu Vân chủ biên (NXB giáo dục, 2008) viết về văn học thời đại Lý - Trần. - Hai chuyên luận của tác giả Nguyễn Công Lý là Bản sắc dân tộc trong văn thơ Thiền tông thời Lý - Trần (NXB Văn hóa thông tin, 1997) và Văn học Phật giáo thời Lý - Trần diện mạo và đặc điểm (NXB Đại học quốc 2 gia TP. Hồ Chí Minh, 2002) cung cấp cho độc giả cái nhìn có hệ thống, đầy đủ về diện mạo, đặc điểm và bản sắc dân tộc trong văn học thời Lý - Trần, đặc biệt là về dòng văn học Phật giáo của một thời đại phát triển rực rỡ vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nguyễn Phạm Hùng với ba chuyên luận: Văn học Lý - Trần nhìn từ thể loại (NXB Giáo Dục, 1996), Thơ thiền Việt Nam - Những vấn đề lịch sử và tư tưởng (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1998) và Trên hành trình văn học trung đại (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001) đã đưa ra nhiều lí giải thú vị về thơ thiền Việt Nam qua các thời kì (thời nhà Lý, thời nhà Trần, thời nhà Lê đến nhà Nguyễn) cũng như sự cần thiết phải nghiên cứu thơ thiền từ khía cạnh thể loại. Đặc biệt trong công trình Thơ thiền Việt Nam - Những vấn đề lịch sử và tư tưởng (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1998), ở chương V - Thơ thiền thời Trần, Nguyễn Phạm Hùng đã chỉ ra nét riêng trong sáng tác của các gương mặt tiêu biểu cho thơ thiền thời kì này như Trần Thái Tông, Trần Tung (Tuệ Trung), Trần Nhân Tông, Huyền Quang. - Năm 2008, luận án tiến sĩ ngữ văn Giá trị văn học trong tác phẩm của Thiền phái Trúc Lâm của Trần Lý Trai đã lí giải. - Những sáng tác của các tác giả thuộc Thiền phái về các mặt: + Tư tưởng Thiền học với quan điểm Phật tại tâm, chủ thuyết “cư trần lạc đạo” tinh thần tùy duyên, phương thức hành Thiền tu chứng. + Những cảm hứng chính như: cảm hứng bản thể giải thoát, cảm hứng cõi thiên nhiên Phật nhiệm màu, cảm hứng nhân văn - thế sự, cảm hứng quê hương đất nước - quê hương Thiền tông. + Giá trị nghệ thuật về các mặt: thể loại, ngôn ngữ, các thủ pháp nghệ thuật. - Năm 1985, Ủy ban khoa học xã hội - Viện nghiên cứu triết học cho xuất bản quyển Lịch sử Phật giáo Việt Nam do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Công trình này bàn về Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập từ Ấn Độ sang vào thế kỉ thứ II cho đến thế kỉ XIX. 3 - Nguyễn Lang, trong quyển Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, NXB Văn học, 1992 đã dành bảy chương trong tổng số mười lăm chương để giới thiệu về Phật giáo đời Trần. - Năm 1995, quyển Thiền học đời Trần do Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản, gồm 28 bài viết của nhiều tác giả xoay quanh vấn đề tác phẩm, tư tưởng của các thiền gia đời Trần. - Nguyễn Hùng Hậu viết Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, Từ khởi nguyên đến thế kỉ XIV – NXB khoa học xã hội, năm 2000 và Trương Văn Chung bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ về Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần năm 1996. Cả hai công trình này đều đi vào phân tích, tổng kết tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm qua việc phân tích hành trạng và tác phẩm của từng nhân vật Thiền phái như: Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. - Quyển Lịch sử Phật giáo Việt Nam, (Từ Lý Thánh Tông đến Trần Nhân Tông) của Lê Mạnh Thát được NXB TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 2002. - Gần đây nhất vào tháng 11 năm 2008, tại Quảng Ninh đã diễn ra hội thảo về Trần Nhân Tông nhân 700 năm ngày vị tổ thứ nhất của phái Thiền Trúc Lâm viên tịch. Trong hội thảo này có rất nhiều bài tham luận khi viết về Trần Nhân Tông như: Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt Ở trong nhà , Vua Trần Nhân Tông và bài học giải phóng dân tộc v.v… 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đây là một đề tài khá rộng và nội dung chủ yếu là nói về hệ thống chủ đề - đề tài trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm qua những tác phẩm văn thơ thời Trần. Cho nên, khi viết, người viết chỉ trú trọng đến những tài liệu có liên quan đến đề tài. Tất cả những tài liệu mà người viết sử dụng đều không ngoài phạm vi những tác phẩm liên quan đến văn học thời Trần. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu các tác phẩm văn chương của năm Thiền sư thuộc Thiền phái Trúc Lâm đời Trần như sau: - Trần Thái Tông (1218 – 1277). - Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291). - Trần Nhân Tông Đại Sĩ (1258 - 1308) - Sơ tổ Trúc Lâm Yên Tử. - Pháp Loa ( 1248- 133) Nhị tổ Trúc Lâm Yên Tử. - Huyền Quang (1254 - 1334) Tam tổ Trúc Lâm Yên Tử. 4. Mục đích nghiên cứu Khi viết đề tài này, người viết không ngoài mục đích là muốn khơi nguồn lại thời vàng son của Phật giáo Việt Nam trong đời nhà Trần và đồng thời giúp người viết hiểu rõ hơn về tư tưởng trong văn thơ của các vị Thiền sư. Qua những phong cách, những tư tưởng đó cũng là lợi ích phần nào trong cuộc sống nhân sinh. Tiếp đó là tìm hiểu xem vấn đề hệ thống chủ đề - đề tài trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm của các Thiền sư giai đoạn này được thể hiện qua các sáng tác văn học ra sao? Có gì khác với hệ thống chủ đề - đề tài của các tác giả cùng thời khác. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp một số phương pháp và thao tác sau: Phương pháp phân tích tổng hợp: tài liệu nghiên cứu và sáng tác văn học của các Thiền sư thời kỳ này có rất nhiều. Vì vậy, khi nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng thao tác phân tích tài liệu để tìm ra những dấu hiệu đặc trưng có liên quan đến đề tài Phương pháp so sánh: Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, và văn học Phật giáo cũng có từ rất sớm nên luận văn so sánh sự vận động phát 5 triển hệ thống chủ đề - đề tài trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm với sáng tác của các tác giả cùng thời khác. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Xác định nội hàm của khái niệm văn chương Thiền phái Trúc Lâm. Chương 2: Sáng tác của Thiền phái Trúc Lâm nhìn từ góc độ chủ đề đề tài. Chương 3: Hệ thống chủ đề - đề tài của văn chương Thiền phái Trúc Lâm trong hệ thống chủ đề - đề tài chung của văn học dân tộc cùng thời. 6 NỘI DUNG Chƣơng 1: XÁC ĐỊNH NỘI HÀM CỦA KHÁI NIỆM VĂN CHƢƠNG THIỀN PHÁI TRÚC LÂM 1.1. Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Đầu thế kỷ XIII, triều đình nhà Lý bắt đầu suy yếu. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên ham chơi, bỏ bê việc triều chính. Vua Cao Tông mải mê xây cung điện, nghe đàn hát. Vua Duệ Tông thì nhu nhược, lại mắc bệnh cuồng. Trong triều các gian thần, nịnh thần lộng hành nhiễu loạn. Ngoài xã hội, nhiều năm mất mùa, đói kém triền miên. Nạn hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến càng trở nên sâu sắc. Trong triều đình bấy giờ, họ Trần ngày càng chiếm ưu thế, anh em con cháu họ Trần lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều. Vốn sống bằng nghề đánh cá, họ Trần thường sinh sống làm ăn ở những vùng cửa sông ven biển, đến đời Trần Lý (ông nội của vua Trần Thái Tông) đã trở thành một cự tộc có thế lực vùng Hải Ấp nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tông phải chạy lên Tuy Hoá, Thái tử Sảm chạy về Hải ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hoàng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bình Di), đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi Hoàng tử Sảm lên ngôi vào năm 1211, tức là vua Lý Huệ Tông. Ông cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung Từ được phong là Thái úy phụ chính. Huệ Tông là người yếu đuối, lại bị Thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho Đàm Dĩ Mông, người chức cao, quyền lớn nhưng "không có học thức, không có mưu thuật, lại nhu nhược không quyết đoán chính sự ngày 7 một đổ nát”. Lợi dụng tình hình đó, Đoàn Thượng làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình không chế ngự nổi. Năm 1216 , trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tông đã bí mật rời bỏ hoàng cung, cùng với Trần Thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa và Tự Khánh) khi ấy là chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân. Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngôi cho công chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh lên 6 tuổi. Một năm sau, vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần bắt đầu nắm quyền cai trị. Khi lên ngôi, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) còn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư Trần Thủ Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa. Nhà Trần trải qua 13 đời vua bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly - tổng cộng là 175 năm. Những vị vua và tôn thất nhà Trần mến mộ Phật giáo, nghiên cứu tu tập và có sự chứng đắc, điển hình là vua Trần Nhân Tông, sau hai lần đánh thắng quân Nguyên Mông (1285 và 1287) đã nhường ngôi lại cho Trần Anh Tông, về làm Thái thượng hoàng và tu hành trên núi Yên Tử rồi sáng lập thiền phái Trúc Lâm. 1.2. Tác giả văn học trong Thiên phái Trúc Lâm Đối với thiền phái Trúc Lâm thì Trúc Lâm Điều Ngự Trần Nhân Tông là đệ nhất Tổ, nhưng tính theo hệ thống truyền thừa của Yên Tử phải kể từ 8 Thiền Sư Hiện Quang là Tổ ban đầu. Sư là người khai sơn chùa Vân Yên (chùa Hoa Yên ngày nay). Vốn là đệ tử của Thiền Sư Thường Chiếu, dòng Vô Ngôn thông, nhưng tỏ ngộ nơi Thiền Sư Trí Thông chùa Thánh Quả. Thiền sư Viên Chứng, cũng gọi là Quốc Trúc Lâm, người đã từng đón tiếp vua Trần Thái Tông tìm lên Yên Tử năm 1236. Quốc sư Đại Đăng, người đã tiếp nhận thêm dòng thiền Lâm Tế từ Thiền sư Thiên Phong người Trung Hoa tại kinh đô Thăng Long và là thầy của vua Trần Thánh Tông. Thiền sư Tiêu Dao, là Thầy của Thượng Sĩ Tuệ Trung, cũng gọi là Đại sư Phúc Đường, vì sư ở Tinh xá Phúc Đường mà Thượng Sĩ Tuệ Trung có bài thơ tựa "Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư". Thiền sư Huệ Tuệ, theo Việt Nam Phật giáo Sử luận của nguyễn Lang cho là sư vốn làm Thầy Hoà Thượng truyền giới pháp cho vua Trần Nhân Tông khi vua xuất gia. Trúc Lâm Đại Đầu Đà Trần Nhân Tông, theo hệ thống truyền thừa của Yên Tử, ngài thuộc hàng thứ sáu, nhưng là người khai sáng ra dòng Thiền Trúc Lâm của Đại Việt nên là Sơ Tổ. Theo sách Đại Nam Thiền Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục của Hòa thượng Phúc Điền hệ thống truyền thừa của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được tiếp nối qua các vị sau: Tổ sư Pháp Loa,Tổ sư Huyền Quang, Quốc sư An Tâm, Quốc sư Phù Vân Tĩnh Lự, Quốc sư Vô Trước, Quốc sư Quốc Nhất, Tổ sư Viên, Tổ sư Đạo Huệ, Tổ sư Viên Ngộ, Quốc sư Tổng Trì, Quốc sư Khuê Thám, Quốc sư Sơn Đằng, Đại sư Hương Sơn, Quốc sư Trí Dung, Tổ sư Tuệ Quang, Tổ sư Chân Trú, Đại sư Vô Phiền. Mặc dù tác giả trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm thì có nhiều nhưng với nội dung của đề tài nghiên cứu, tác giả chỉ tiến hành nghiên cứu các tác phẩm văn chương của năm Thiền sư thuộc Thiền phái Trúc Lâm đời Trần như sau: 9 - Trần Thái Tông (1218 – 1277). - Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 – 1291). - Trần Nhân Tông Đại Sĩ (1258 – 1308) – Sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử. - Pháp Loa (1248 – 1330) - Nhị Tổ Trúc Lâm Yên Tử. - Huyền Quang (1254 – 1334) - Tam Tổ Trúc Lâm yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm được một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông sơ tổ Trúc Lâm truyền thừa cho Pháp Loa là đệ nhị Tổ, đến Huyền Quang đệ tam Tổ, sau đó hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng như trước nữa. Tiểu kết chƣơng 1 Trên đây, chúng tôi đã trình bày về sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và sự truyền thừa của các tác giả văn chương Thiền sư trong Thiền phái này rất hùng hậu, để thấy văn chương đời Trần được hình thành và phát triển là nhờ lực lượng sáng tác của những Thiền sư với thể loại phong phú, nội dung xúc tích, đa dạng, đa sắc thái, thể hiện rõ bản sắc dân tộc đậm tính nhân văn và giàu lòng yêu nước. Thời kỳ này, có những minh quân sau khi bỏ áo hoàng bào khoác áo nâu sòng đã hoàn thành rất tốt vai trò Thiền sư vừa tu tập giải thoát vừa có tinh thần yêu nước thương dân. 10 Chƣơng 2: SÁNG TÁC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CHỦ ĐỀ - ĐỀ TÀI 2.1. Khái niệm chủ đề - đề tài Về khái niệm chủ đề - đề tài thì có rất nhiều sách đề cập tới, nhưng ở đây với nội dung của đề tài luận văn nên người viết chỉ nêu khái niệm chủ đề - đề tài thuộc Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi ( chủ biên). Theo sách này thì “khái niệm đề tài giúp ta xác định tác phẩm viết về cái gì, còn khái niệm chủ đề lại giải đáp câu hỏi vấn đề cơ bản của tác phẩm là gì” và lấy đó làm cương yếu cho bài nghiên cứu của mình. Thời Trần xã hội thịnh trị nên hệ thống chủ đề - đề tài chung trong văn chương của các Thiền sư lúc bấy giờ là đều thấy tính chất vô thường, giả tạo của vạn vật vũ trụ này và muốn nhân sinh tu hành đạt tới cực lạc giải thoát. 2.2. Hệ thống chủ đề - đề tài qua sáng tác của một số tác giả trong Thiền phái Trúc Lâm 2.2.1. Trần Thái Tông Trần Thái Tông (1218 - 1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần đã từng trực tiếp xông pha trận mạc. Sau chiến thắng đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông để làm thơ và nghiên cứu Phật giáo rồi viết ra Thái hư lục và Thiền tông chỉ nam. Qua thơ văn ông, người đời sau thấy được một vị vua khoan hậu, tuy chưa hề xuất gia nhưng vẫn tha thiết với Phật pháp và mơ ước một cuộc sống thanh tịnh, an nhiên, coi thường quyền lực và phú quí. Theo tài liệu ghi chép lại thì Thái Tông sáng tác được tác phẩm. Tác phẩm đầu, như ta đã biết là Thiền tông chỉ nam. Sáng tác rất sớm trong cuộc đời của ngài, khi ngài mới khoảng 31, 32 tuổi, và được Quốc sư khen là trái tim của Bụt nằm trong đó. Tác phẩm thứ hai là Kim cương tam muội kinh chú giải. Vua đã chú giải Kinh Kim cương tam muội và chúng ta còn bài tựa của tác phẩm này. 11 Tác phẩm thứ ba là Lục thời sám hối khoa nghi mà chúng ta đã nói qua ở trên đây. Tác phẩm thứ tư là Bình đẳng lễ sám văn. Một tác phẩm sám hối khác. Bình đẳng ở đây là Samat, tức là không phân biệt giữa mình và Phật, tại vì tự tính của mình và của Phật hoàn toàn bình đẳng. Không phân biệt người lạy và người bị lạy. Tác phẩm thứ năm là Khóa hư lục có thể là những bài hướng dẫn về tu tập, hợp lại thành một cuốn sách. “Khóa” có nghĩa là những bài học, những thời khóa công phu. “Hư” có nghĩa là thực tập với một thái độ tự do, không bị vướng mắc. Chúng ta biết có nhiều người thực tập và bị dính mắc vào những hình thái thực tập cho đến nỗi không thừa hưởng được bản chất của sự thực tập. Thực tập như vậy thì rất là nặng nề, kẹt vào hình thức. Như vậy khóa hư ở đây có nghĩa là những thời thực tập với một thái độ không bị vướng mắc. Tác phẩm thứ sáu là Thi tập, tức là những bài thơ của vua để lại. Tác phẩm Kim cương tam muội kinh chú giải hiện nay chúng ta không thấy còn nữa. Chỉ còn một bài tựa được in lại trong sách Khóa hư lục mà thôi. Trong bài tựa này vua có nói rằng mỗi khi vua đọc Kinh kim cương tam muội là trong lòng phát sinh ra trăm ngàn mối cảm hứng. Vì vậy cho nên vua đem những cảm hứng đó, đem hết ruột gan để làm những lời chú giải Kinh kim cương tam muội. Chúng ta biết Kinh kim cương là sự thực tập lấy đi bốn ý niệm về Ngã, về Nhân, về Chúng sinh, và về Thọ giả. Nếu sống tỉnh thức để có thể nhận diện được bốn ý niệm đó trong đời sống hàng ngày, để đừng vướng mắc vào chúng, thì mình đã sống thường trực trong tam muội gọi là Kim cương tam muội. Bình đẳng lễ sám văn cũng là một nghi thức sám hối và nay cũng đã mất, và bài tựa cũng còn được giữ lại trong sách Khóa hư lục. Nếu ta suy tư 12 về đề tài của tác phẩm và nếu căn cứ trên bài tựa thì chúng ta có thể biết rằng nghi thức này được viết sau Lục thời sám hối khoa nghi và nghi thức này có một chiều triết học thâm sâu hơn là nghi thức Lục thời sám hối khoa nghi. Khi có thì giờ nghiên cứu, học hỏi những tác phẩm của vua Trần Thái Tông, chúng ta nhận thức rằng cái nhu yếu đầu tiên mà chúng ta thấy được trong các tác phẩm đó là nhu yếu muốn sống tỉnh thức. Vua không muốn sống đời sống mê ngủ, đắm chìm. Chúng ta biết tác phẩm Lục thời sám hối khoa nghi là một sự nhắc nhở không phải chỉ bằng lý thuyết, bằng cách đọc, mà nhắc nhở bằng sự thực tập mỗi ngày sáu lần. Nhắc rằng con mắt của mình có thể đưa mình đi rất xa; lỗ tai của mình có thể đưa mình đi rất xa; lưỡi của mình cũng có thể đưa mình đi rất xa. Và khi đi xa rồi thì mình đánh mất quê hương, mình không thấy được những cái quan trọng nhất của sự sống. Không thấy được nhu yếu thâm sâu nhất của cuộc đời mình. Tình trạng của những người không tu học, không có chính niệm, không có tăng thân là tình trạng gọi là "túy sinh mộng tử", nghĩa là khi sống thì sống như một người say, khi chết thì cũng chết ở trong giấc mộng. Sống say chết mộng. Vua không muốn như vậy. Vua nhắc nhở mình phải sống tỉnh thức, cho nên thời khóa Lục thời sám hối khoa nghi là để đánh thức mình dậy trong mỗi giờ phút của sự sống. Trong Khóa hư lục vua có làm những bài kệ về bốn núi, gọi là Tứ sơn kệ. Đây là một phương tiện để vua tự nhắc mình đừng sống trong cơn say, đừng chết trong giấc mộng. Chúng ta biết rằng ngày xưa, hồi Phật còn tại thế, một hôm Phật có nhắc vua Ba Tư Nặc một vấn đề. Hôm đó vua đến thăm Phật, và được Phật hỏi những câu về bốn ngọn núi: “Đại vương! Nếu Đại vương đang ngồi trong cung mà có một phái đoàn trinh thám của Đại vương chạy về và nói rằng từ phương Đông có một ngọn núi vĩ đại đang di chuyển lần lần đến kinh đô, và 13 trên con đường di chuyển nó làm tan nát hết những công trình xây dựng, những sinh mạng, những sông núi. Khi vừa nghe báo cáo như vậy xong thì có một phái đoàn khác, về tới cung và nói từ phương Tây cũng có một ngọn núi vĩ đại đang di chuyển tới kinh đô, và trên đường đi nó cũng đang tiêu diệt tất cả những sinh mạng, sông núi, thành quách. Và rốt cuộc thì Đại vương được báo cáo từ bốn phía có bốn ngọn núi đang đi tới như vậy. Đại vương biết rằng Đại Vương không có thì giờ nữa. Bốn ngọn núi đó tượng trưng cho sinh, lão, bệnh, tử và chúng đang đi tới ép vua. Vậy thì Đại Vương phải làm gì?” Phật thấy vua đã lớn tuổi mà tu học không được tinh chuyên mấy, có vẻ nhởn nhơ cho nên Phật mới đưa ra hình ảnh bốn trái núi bao vây, đang từ từ tiến tới, để nhắc nhà vua rằng thời gian đã cấp bách, không gian đã thu hẹp. Vua Ba Tư Nặc cũng thông minh lắm nên vua nói: “Bạch Đức Thế Tôn, trong trường hợp đó thì câu trả lời duy nhất là mình phải sống những giờ phút còn lại của mình cho chính niệm”. Khi vua Trần Thái Tông đọc được kinh đó thì vua rung động, tại vì nhà vua cũng muốn làm được như vua Ba Tư Nặc, và có thể muốn làm hơn vua Ba Tư Nặc nữa. Cho nên vua đã làm bốn bài thơ về bốn trái núi, và vua đã viết những bài chú giải về bốn trái núi rất là hay. Quý vị nên tìm đọc cho biết. Chuyện Bụt nói về bốn trái núi cho vua ghi chép trong biệt dịch Tạp A Hàm (Samyukt gamma), và trong Kinh Tăng Nhất A Hàm (Ekattarik gamma). Ngày xưa vua Trần Thái Tông đã được đọc những kinh đó. Trong bài tựa Phổ khuyến phát Bồ đề tâm, vì vua nghĩ rằng khi nào có được tâm bồ đề thì mình sống mới tỉnh thức, mới có hạnh phúc. Vì vậy vua đã sáng tác một bài văn gọi là "Mời tất cả quý vị hãy phát tâm bồ đề ": “Công danh cái thế, chẳng qua một giấc mộng dài, Phú quý kinh người, khó trách “vô thường” hai chữ, Tranh nhân chấp ngã, rốt cuộc là không, 14 Khoe giỏi khoe hay, rốt cùng chẳng thực, Tứ đại rã rời thôi già trẻ, Núi khe mòn mỏi hết anh hùng, Già cũng vậy, trẻ cũng vậy, sẽ có ngày bốn đại rã rời ra. Anh hùng cũng vẫy mà người khiếp nhược cùng đều vậy cả. Tóc xanh chưa mấy mà mầu bạc đã pha, Kẻ mừng mới đi thì người điếu đã tới Những người nào bắt đầu có hai màu tiêu muối ở trên đầu, đọc bài này chắc thấm lắm. Mừng đám cưới vừa xong thì người điếu đám ma cũng vừa tới. Một bao máu mủ, Bao năm khổ luyến ân tình (Nhất bao nùng huyết Trường niên khổ luyến ân tình) Đọc những hàng chữ này chúng ta nên nhớ tác giả là ai, tác giả đã từng yêu, từng khổ. Nhất bao là một cái bao, một cái bọc. Nùng huyết là máu và mủ ở trong con người của chúng ta. Đó là bất tịnh quán. Con người chỉ là một bao máu mủ mà thôi. Vậy mà ngày này sang ngày khác, đêm này sang đêm khác, năm này sang năm khác, nhớ thương, quyến luyến, khổ đau vì người ân, người tình. Bảy thước xương khô, Mặc sức xan tham tiền của. Bảy thước đây là bảy thước ngày xưa, bằng khoảng thước bảy thước tám bây giờ. Bảy thước xương khô là một bộ xương khô. Nhìn cho kỹ thì mình chỉ mang một bộ xương khô đi theo thôi. Vậy mà mình tom góp đồng này đồng khác, nghĩ rằng hạnh phúc nằm ở chỗ tom góp. Điều này người nào có đi ngang qua thì mới thấm thía, người nào chưa đi ngang qua thì có thể mỉm cười hoài nghi. 15 Thở ra không hẹn thở vào, Ngày nay không tin ngày kế, Trôi nổi sông yêu giờ nào nghỉ, Nấu nung nhà cháy biết bao thôi? Sông yêu tức là ái hà, sông tham ái (Ái hà thiên tích lãng - Khổ hải vạn trùng ba). “Thiên tích lãng” là có những đợt sóng cao ngàn trượng. “Ái hà thiên tích lãng” là ý nói trong sông yêu có những đợt sóng cao cả ngàn trượng, mình sẽ chìm đắm, sẽ chết đuối trong những đợt sóng đó. “Khổ hải vạn trùng ba”, là trong biển khổ có những đợt sóng vạn trùng. Chúng ta có bài tán: Ái hà thiên tích lãng, Khổ hải vạn trùng ba, Dục thoát luân hồi khổ, Tảo cấp niệm Di Đà. Trong nghi thức tụng niệm đại toàn chúng ta có bài niệm Phật tương đương: Sông ái dài muôn dặm, Biển mê sóng vạn tầm, Cõi luân hồi muốn thoát, Niệm Phật hãy nhất tâm. 2.2.1.1. Con người nhân ái vị tha rộng mở Trần Thái Tông đã thể hiện tấm lòng nhân ái, vị tha, rộng mở qua Khóa hư lục kể từ khi tiếp nhận lời khuyên của thiền sư Viên Chứng: “Phàm làm bậc nhân quân thì lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình” (Thiền tông chỉ nam tự). Để được như vậy con người phải biết sống hòa hợp, thuận theo đạo lý, chung sống trong một cộng đồng. Mọi người tự ý thức thủ tiêu những ham muốn cá nhân, thay vào đó là tấm lòng cần phải trang trải. Như vậy, từ con người cá nhân vị kỷ, 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan