Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn sự vận động của truyện ngắn việt nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ hìn...

Tài liệu Luận văn sự vận động của truyện ngắn việt nam từ 1986 đến nay nhìn từ góc độ hình thức thể loại

.PDF
121
51
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC -----***----- LƯU THỊ THU HÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: Mã số: Văn học Việt Nam 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hà Văn Đức Hà Nội - 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC LƯU THỊ THU HÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY NHÌN TỪ GÓC ĐỘ HÌNH THỨC THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Hà Nội - 2008 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 3 2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài ......................................................................... 5 2.1 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 5 2.2 Nhiệm vụ của đề tài ................................................................................................. 6 3. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................ 7 3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006 ........................................ 7 3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006..................................................... 11 4.1 Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 14 4.2 Bố cục luận văn...................................................................................................... 15 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................................. 16 CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU ............................... 16 1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986 ................................ 17 1.1.1 Giai đoạn trƣớc 1932 .......................................................................................... 17 1.1.2 Giai đoạn 1932 - 1945 ........................................................................................ 21 1.1.3 Giai đoạn 1945 - 1985 ........................................................................................ 24 1.2 Những xu hƣớng tổ chức cốt truyện và kết cấu truyện ngắn 1986 - 2006................. 26 1.2.1 Kiểu cốt truyện chặt chẽ đƣợc kế thừa và phát triển đến đỉnh cao ..................... 26 1.2.2 Cốt truyện tâm lý đƣợc sử dụng phổ biến ........................................................... 37 2.2.3 Cốt truyện phân rã, vai trò của tình huống đƣợc đẩy mạnh ................................ 41 CHƢƠNG 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT ................................................. 52 2.1 Một số mẫu nhân vật nổi bật ...................................................................................... 53 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 1 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------2.1.1 Con ngƣời cô đơn .............................................................................................. 53 2.1.2 Con ngƣời giả cổ tích, giả huyền thoại, giả lịch sử ............................................ 63 2.2 Những đóng góp mới về nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................ 71 2.2.1 Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật............................................................. 71 2.2.2 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ nhân vật .............................................................. 77 2.2.2.1 Đối thoại gia tăng mạnh tính khẩu ngữ........................................................ 77 2.2.2.1 Độc thoại có xu hƣớng trộn lẫn vào lời ngƣời kể chuyện............................ 85 CHƢƠNG 3: ĐỔI MỚI VỀ NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT............................................ 89 3.1 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật ......................................................................... 89 3.2 Những biến đổi về ngôn ngữ trần thuật ..................................................................... 93 3.2.1 Ngôn ngữ trần thuật mang tính hiện thực - đời thƣờng ...................................... 93 3.2.2 Ngôn ngữ giàu tính thông tin, nhịp điệu trần thuật nhanh .................................. 95 3.3 Sự vận dụng các hình thức và giọng điệu trần thuật .................................................. 99 3.3.1 Ảnh hƣởng của ngƣời trần thuật ngày càng bị thu hẹp ....................................... 99 3.3.2 Tính chất phức điệu của giọng trần thuật.......................................................... 103 PHẦN KẾT LUẬN............................................................................................................ 108 DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………112 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 2 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm tháng chống ngoại xâm, lịch sử Việt Nam hiện đại đƣợc phản chiếu trong văn học chủ yếu ở những biểu hiện của tinh thần yêu nƣớc, lòng căm thù giặc, ở những sự kiện, những chiến thắng quan trọng quyết định đến vận mệnh của cả dân tộc cũng nhƣ hạnh phúc của mỗi cá nhân. Có một mảng sáng tác lớn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 1975 ghi lại lịch sử chiến tranh oai hùng và vinh quang của đất nƣớc. Bƣớc sang thời bình, sự thay đổi của điều kiện sống khiến cho thị hiếu thẩm mỹ của ngƣời đọc cũng có những biến chuyển lớn. Cuộc sống thực tại đã nhắc nhủ con ngƣời về những phƣơng diện của đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, văn minh vẫn âm thầm trôi chảy cùng công cuộc chống ngoại xâm, giữ nƣớc của dân tộc. Họ không rũ bỏ, nhƣng đã bắt đầu xếp chiến tranh vào ký ức. Thay cho tâm thế đấu tranh vì quyền lợi của cả cộng đồng, cả dân tộc, họ quan tâm hơn đến cuộc đấu tranh với cái khốn khó của đời sống thƣờng ngày. Thay vì dõi theo cục diện thế giới, họ hứng thú hơn với những mối quan hệ cá nhân, với những câu chuyện gần gũi xảy ra xung quanh mình. Kết thúc chiến tranh, văn học cũng không còn lý do để chỉ chăm chắm phục vụ những mục đích cách mạng. Với bối cảnh lịch sử mới và những đổi thay về nhu cầu của ngƣời đọc, văn học, với tƣ cách là một hình thức phản ánh hiện thực, tất yếu phải đối mới. Nhà văn tất yếu không thể viết theo lối cũ. Cơ hội chuyển mình của loại hình nghệ thuật ngôn từ đƣợc tiếp sức nhờ công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng vào năm 1986. Không chỉ ý thức văn học đƣợc cởi trói, bản thân nhà văn cũng nỗ lực cởi trói cho chính mình. Sự cởi mở nhiều chiều đã mang đến biến chuyển lớn lao về ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 3 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- tƣ duy. Là một bộ phận của nền nghệ thuật phát triển trong bối cảnh cuộc sống thời bình, văn học Việt Nam sau 1986 phản ánh hiện thực theo cách nhìn mới, quan niệm mới. Không chỉ mở rộng đề tài theo hƣớng tiếp cận gần gũi hơn với hiện thực đời sống sinh hoạt, đời sống văn hóa, quan điểm của các nhà văn về một số vấn đề của lịch sử Việt Nam cũng mang những sắc thái thẩm mỹ mới. Cảm hứng sử thi của giai đoạn trƣớc đƣợc thay thế bằng cảm hứng đời tƣ - thế sự. Xu hƣớng ngợi ca đƣợc thay thế bằng cái nhìn phê phán hiện thực. Thói quen nhìn cuộc sống ở khía cạnh lạc quan, tƣơi đẹp đƣợc thay bằng sự khai thác trực diện những tồn đọng của xã hội, những khát vọng của đời sống cá nhân con ngƣời. Văn học giai đoạn này vì thế đa giọng điệu, đa sắc màu và gây nhiều tranh cãi hơn. Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những biến chuyển của đời sống. Tuy không phải là thể loại chủ chốt của nền văn học, nhƣng với thế mạnh của một loại hình tự sự, truyện ngắn nhanh nhạy len lỏi vào mọi ngóc ngách của xã hội, phản chiếu cuộc sống trong từng mảnh ghép nhỏ. Nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc nhận xét: “Đây có thể coi là một thời kỳ có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam, tiếp theo „vụ đƣợc mùa truyện ngắn‟ những năm 1960 và một vụ mùa khác, trong chiến tranh. Tuy nhiên, truyện ngắn lần này có những khác biệt rõ rệt. Những năm 1960 từng để lại nhiều truyện ngắn đẹp nhƣ thơ, trong veo, trữ tình. Truyện ngắn thời chiến tranh thì vạm vỡ, chắc chắn. Đặc điểm nổi bật lần này là cầm cái truyện ngắn trong tay có thể cảm thấy cái dung lƣợng của nó nặng trĩu. Có những truyện ngắn, chỉ mƣơi mƣời trang thôi, mà sức nặng có vẻ còn hơn cả một cuốn tiểu thuyết trƣờng thiên” [44; 7]. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 4 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Nhƣ vậy, truyện ngắn giai đoạn từ 1986 đến nay đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành diện mạo nền văn học Việt Nam đƣơng đại. Chính vì vậy, chúng tôi hƣớng tới truyện ngắn khi triển khai luận văn này nhƣ một cách tiếp cận với một giai đoạn văn học đặc biệt sôi động từ thể loại đƣợc đánh giá là năng động và tích cực nhất. Với tên gọi Sự vận động của truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại, luận văn tập trung nghiên cứu về những biến chuyển hình thức thể loại, bởi sự vận động của thể loại bộc lộ quan điểm thẩm mỹ, tƣ duy nghệ thuật của mỗi thời kỳ. Mikhail Bakhtin cho rằng: “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp âm ồn ào của tiến trình văn học, ngƣời ta không nhìn thấy vận mệnh to lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây trƣớc hết là các thể loại, còn trƣờng phái, trào lƣu chỉ là những nhân vật hạng nhì và hạng ba” [9; 5]. 2. Phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ đề tài 2.1 Phạm vi nghiên cứu Từ mốc khởi đầu mang tính chất tƣơng đối - 1986, luận văn sẽ dừng lại ở những tác phẩm ra đời trƣớc 2006. Trong vòng 20 năm phát triển, truyện ngắn Việt Nam đã đi đƣợc những bƣớc dài với số lƣợng tác phẩm đồ sộ. Hàng trăm tuyển tập truyện ngắn, đƣợc tập hợp theo những hệ tiêu chí khác nhau, đã ra đời. Với khuôn khổ hạn chế của luận văn thạc sĩ, chúng tôi không có điều kiện khảo sát mọi tác phẩm, vì vậy đề tài sẽ khoanh vùng vào những tuyển tập tiêu biểu nhƣ: - Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, NXB Hội Nhà văn, 2005 - Văn mới 2004 - 2005, NXB Hội Nhà văn, 2005 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 5 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- - Văn mới 2005 - 2006, NXB Hội Nhà văn, 2006 - Những tuyển tập truyện ngắn của các cây bút tiêu biểu cho giai đoạn này nhƣ: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh… - Những truyện ngắn đƣợc giải thƣởng các cuộc thi uy tín do Báo Văn Nghệ, tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức. … và một số tác phẩm riêng lẻ khác. Do hạn chế về tƣ liệu, chúng tôi chƣa có điều kiện khảo sát mảng truyện ngắn Việt Nam ở hải ngoại giai đoạn 1986 - 2006. Đây là mảng truyện ra đời trong bối cảnh lịch sử xã hội khác hẳn với phạm vi chúng tôi sẽ đề cập ở trên. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất về đối tƣợng nghiên cứu, chúng tôi sẽ bàn đến đến phần truyện này trong một công trình khác. 2.2 Nhiệm vụ của đề tài - Cung cấp cái nhìn tổng quan về sự vận động và biến đổi của truyện ngắn Việt Nam hiện đại ở phƣơng diện hình thức thể loại. - Tìm hiểu sự vận động và phát triển của truyện ngắn 1986 - 2006 về hình thức thể loại qua việc tập hợp, hệ thống hóa và phân tích tác phẩm. - Khát quát những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006 trên những phƣơng diện chủ yếu nhƣ: Cốt truyện - kết cấu, Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ và giọng điệu… Đạt đƣợc những mục đích trên, luận văn sẽ có ý nghĩa nhƣ một cách nhìn bổ sung vào những đánh giá, nhận định về một giai đoạn văn học đang vận động và gây nhiều tranh cãi. Đồng thời, luận văn sẽ là tƣ liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến truyện ngắn đƣơng đại Việt Nam. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 6 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- 3. Lịch sử vấn đề Là giai đoạn có nội lực và tiềm năng, văn học Việt Nam 1986 - 2006 thu hút sự quan tâm của nhiều nhà phê bình, nghiên cứu, nhà văn và độc giả. Trong đó, truyện ngắn đƣợc đánh giá là một trong những thể loại chủ đạo của đời sống văn học thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, do đây là một giai đoạn văn học chƣa ổn định nên chúng ta chƣa có nhiều những công trình khái quát, đánh giá một cách toàn diện những đặc điểm của 20 năm phát triển này so với các giai đoạn trƣớc. Liên quan tới đề tài, chúng tôi tổng kết một số thành tựu của những ngƣời đi trƣớc trên những nét lớn nhƣ sau: 3.1 Tình hình nghiên cứu khái quát về văn học 1986 - 2006 * Các công trình nổi bật: - Chuyên luận 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 NXB Đại học Quốc gia, 1996 với những bài viết quan trọng: Tiểu thuyết về chiến tranh - mấy ý nghĩ góp bàn - Lê Thành Nghị Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975 - Bùi Việt Thắng Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 - Nguyễn Thị Bình - Chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định Vũ Tuấn Anh, NXB Khoa học Xã hội, 2001 - Luận án tiến sĩ Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự - Lê Thị Tuyết Hạnh, 1997 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 7 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- - Luận án tiến sĩ Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nghệ thuật từ 1980 - 1986 - Nguyễn Thị Huệ, 2000 - Hội thảo Quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế - Viện Văn học Việt Nam tổ chức - Thảo luận về Truyện ngắn hôm nay - Báo Văn Nghệ số 11/1991 - Tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới tác giả Dana Healy. * Những nhận định chung: - Sự đổi mới quan niệm và ý thức nghệ thuật của văn học sau 1986 đƣợc đánh giá là nhân tố đặc biệt quan trọng, có ảnh hƣởng chi phối đến mọi thể loại, trong đó có truyện ngắn. Các tác giả Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Thị Huệ khẳng định, văn học đƣơng đại phát triển theo xu hƣớng dân chủ hóa, có ý nghĩa bổ sung, hoàn thiện những quan niệm hiện thực về con ngƣời cho văn học giai đoạn trƣớc. Trong chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Nếu nhƣ cách nhìn sử thi là thích hợp cho việc thể hiện tầm rộng lớn của những vấn đề lịch sử xã hội và cộng đồng thì cách nhìn tiểu thuyết là cái nhìn tập trung, xoáy sâu vào những vấn đề của con ngƣời cá nhân cũng nhƣ mối quan hệ cá nhân - xã hội trên hành trình tìm kiếm và khẳng định giá trị nhân văn” [3; 54]. Sự chuyển biến ấy, theo các nhà nghiên cứu, xuất phát từ nguyên nhân khách quan là không khí dân chủ của công cuộc Đổi mới và nguyên nhân chủ quan là cá tính sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Cái nhìn của nhà văn trong khi phản ánh hiện thực không còn bị ảnh hƣởng bởi ý thức cộng đồng mà phụ thuộc vào ý thức cá nhân. “Tác giả xuất phát từ kinh nghiệm bản thân, ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 8 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- thể nghiệm bản thân chứ không phải thể nghiệm cộng đồng” [63; 6], Nguyên Ngọc viết. Chia sẻ cách nhìn này, tác giả Nguyễn Thị Bình trong bài viết Mấy nhận xét về nhân vật văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng khẳng định: “Văn xuôi sau 1975 phát triển trong bối cảnh đất nƣớc chuyển đổi kinh tế, giao lƣu văn hóa nhiều chiều. Ý thức cá nhân đƣợc sự cổ vũ của cơ chế thị trƣờng trỗi dậy mạnh mẽ. Nhu cầu thức tỉnh gắn liền với cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện thực, nhu cầu công bố tƣ tƣởng riêng trong thái độ nhập cuộc của nhà văn…” [11; 67]. Từ bối cảnh lịch sử đó, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những đặc điểm kế thừa và khác biệt của giai đoạn văn học này so với các giai đoạn trƣớc. Trong tiểu luận Văn học quá độ - khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới, tác giả Dana Healy, giảng viên tiếng Việt tại Trƣờng nghiên cứu phƣơng Đông và châu Phi, Đại học London đánh giá: “Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của nhiều tác phẩm hiện đại là mức độ phê phán cao đối với cuộc sống thƣờng ngày. Sau nhiều năm tụng ca hiện thực, nhiều năm ca ngợi và tự ca ngợi, cũng nhƣ hô hào một thứ lạc quan phi lý, các nhà văn bây giờ đã vứt bỏ bức tranh lý tƣởng hóa hiện thực và đƣa ra một cái nhìn điềm đạm hơn về cuộc sống” [24; 8]. Trong bài viết Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới tại cuộc Hội thảo quốc tế Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế, nhà lý luận Lê Ngọc Trà nêu ra 3 đặc điểm của văn học sau 1986. Đặc điểm nổi bật, theo ông là tính chất phê phán. “Nếu trƣớc đây nhân vật chính của các tác phẩm hầu hết là ngƣời tốt, là nhân vật chính diện, thì bây giờ, ngƣợc lại, trong nhiều tác phẩm các nhân vật chính thƣờng là nhân vật ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 9 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- tiêu cực, giả dối, làm ăn phi pháp, thấp kém về đạo đức. Và một khi các nhân vật chính đã nhƣ vậy thì dĩ nhiên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm cũng thay đổi: nhiệt tình ca ngợi, khẳng định đƣợc thay thế bằng sự phê phán, châm biếm” [73; 21]. Đặc điểm thứ hai là tinh thần phân tích xã hội và sự chiêm nghiệm lại lịch sử. “Những năm hòa bình sau 1975 và tiếp theo là phong trào đổi mới đã tạo ra cơ sở xã hội để các nhà văn nghĩ lại về công việc sáng tác của mình. Giờ đây nhu cầu ghi chép, phản ánh hiện thực theo kiểu trƣớc đây không còn đặt ra cấp bách nhƣ trong những năm chiến tranh. Cuộc sống cũng đã bộc lộ những mặt phức tạp mà những lời giải thích đơn giản, công thức không còn thuyết phục nữa. Mỗi ngƣời cầm bút cũng nhận ra rằng sức mạnh của tác phẩm văn học không chỉ nằm ở khối lƣợng hiện thực đƣợc ghi chép, phản ánh mà còn phụ thuộc vào sự nghiền ngẫm của nhà văn, vào chiều sâu của những tƣ tƣởng, tình cảm mà anh ta gửi gắm trong đó. Trên bối cảnh ấy đã xuất hiện hàng loạt tác phẩm không chỉ ghi chép các tính cách, các sự kiện mà còn soi sáng chúng dƣới nhiều góc độ khác nhau” [73; 22]. Đặc điểm thứ ba là sự trở lại với đời thường, với số phận riêng. “Sự trở lại này hoàn toàn tất yếu, bởi vì trƣớc đây, trong giai đoạn 1930 - 1945 nhiều nhà văn đã viết về chủ đề này, hơn nữa nói chung đã là văn học thì nền văn học nào cũng quan tâm đến số phận con ngƣời, đến cái riêng. Song vấn đề là ở chỗ do hoàn cảnh chiến tranh suốt mấy chục năm qua, văn học cách mạng chủ yếu nói về cái chung, chỉ xem xét cái riêng xuất phát từ quyền lợi chung của giai cấp, của dân tộc, thành ra vấn đề đời thƣờng, số phận riêng của con ngƣời bị chìm đi, thậm chí đôi khi còn bị xem nhƣ cái gì xa lạ với một nền văn học lành mạnh. Điều này giải thích vì sao khi quay lại với chủ đề này, văn học đƣợc đánh giá nhƣ đã có một hành động đổi mới” [73; 5]. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 10 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Có thể nói, các nhà nghiên cứu đã có sự thống nhất khá cao về những đặc điểm nội dung của giai đoạn văn học 1986 - 2006. Về đổi mới thi pháp. Tuy chƣa đi vào nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn đề thi pháp của văn xuôi sau 1986, song các bài viết gần đây đã nhấn mạnh vào một số biến đổi về hình thức biểu đạt của tác phẩm nhƣ: Sự suy giảm vai trò cốt truyện; sự đa dạng các hình thức cấu trúc tác phẩm; tính chất đa thanh trong nghệ thuật trần thuật, những khám phá về hệ thống nhân vật… Từ đó, các nhà nghiên cứu bƣớc đầu đi đến kết luận về khả năng mở rộng, gia tăng tính đối thoại của tự sự đƣơng đại trƣớc các vấn đề hiện thực và lịch sử. Nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà cho rằng: “Nền tảng của thi pháp này là việc xem sáng tác văn học không phải nhƣ hoạt động tuyên truyền, mà là hoạt động nhận thức và tự nhận thức, ở đó nhà văn không áp đặt cho ngƣời đọc tƣ tƣởng có sẵn, đƣợc hình tƣợng hóa mà mang đến cho họ bức tranh sinh động về cuộc sống thấm nhuần những cảm xúc, suy nghĩ của mình, gợi ra cho họ, cùng thảo luận với họ và để họ tự phán xét” [73; 40]. 3.2 Tình hình nghiên cứu truyện ngắn 1986 - 2006 * Các công trình nổi bật - Chuyên luận: Truyện ngắn Việt Nam: Lịch sử, thi pháp, chân dung Phan Cự Đệ, NXB Đại học Quốc gia, 2000 - Chuyên luận: Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại - Bùi Việt Thắng - NXB Đại học Quốc gia, 2000 - Chuyên luận Bình luận truyện ngắn - Bùi Việt Thắng, NXB Văn học, 1999 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 11 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- - Bài viết: Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra, và triển vọng - Nguyên Ngọc - Bài viết: Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay - Phạm Xuân Nguyên - Tập bài giảng Văn học Việt Nam sau 1975, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG HN * Những nhận định chung Không đƣợc coi là thể loại chủ đạo trong đời sống văn học nhƣ tiểu thuyết, nhƣng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn giai đoạn 1986 2006 không hề thua kém phƣơng thức tự sự cỡ lớn này. Trƣớc sự chín muồi của đội ngũ các cây bút đã có thành tựu và sự nở rộ của lớp các nhà văn mới, 1986 - 2006 đƣợc coi là một trong những giai đoạn hoàng kim của lịch sử truyện ngắn Việt Nam. Thất vọng trƣớc khả năng nắm bắt cuộc sống của tiểu thuyết thời kỳ này, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc viết: “Văn học đã chọn lấy một thể loại khác để làm cái công việc mà tiểu thuyết chƣa làm đƣợc, một thể loại tự bản thân nó, do chính đặc điểm thể loại của nó, đòi hỏi khái quát: truyện ngắn… Truyện ngắn đạt đƣợc dung lƣợng nặng nhƣ vậy chính là vì nó đƣợc cả một giai đoạn văn học của phóng sự và tiểu thuyết tích lũy và chuẩn bị cho nó. Nó có ngồn ngộn tƣ liệu xã hội để mà làm công việc chƣng cất, chắt lọc… Rõ ràng, trong các thể loại, truyện ngắn đã tiến xa hơn cả” [10; 34]. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng cũng khẳng định: “Nhìn tổng thể, truyện ngắn 1975 - 2000 vƣợt trội so với thơ và kịch vì nhiều lý do - trong đó phải kể đến sự ƣu ái của đời sống là mảnh đất màu mỡ cho các thể của văn xuôi phát triển. Nếu có thể so sánh thì truyện ngắn Việt Nam trong thế kỷ 20 có hai thời hoàng kim của nó: 1930 - 1945 và 1986 - 2000” [68; 113]. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 12 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Đây cũng là nguyên nhân khiến truyện ngắn trở thành đối tƣợng thu hút nhiều công trình phê bình, nghiên cứu về giai đoạn này. Các công trình, bài viết nhìn chung đều đánh giá cao đóng góp của truyện ngắn trong việc phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Phạm Xuân Nguyên trong bài Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay đánh giá: “Truyện ngắn hôm nay tiếp xúc, xới lật các mảng hiện thực ở cả hai chiều quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói định vị cho ngƣời đọc, một thái độ nhìn nhận, đánh giá những việc, những ngƣời của bây giờ, nơi đây [47; 10]. Chỉ rõ sự phát triển mạnh mẽ cả về số lƣợng và chất lƣợng của thể loại này, nhà nghiên cứu Lý Hoài Thu viết: “Cùng với sự gia tăng của những tên tuổi mới và số lƣợng tác phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều tìm tòi cả trong tiếp nhận hiện thực lẫn thi pháp thể loại. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về sự cô đơn của thân phận con ngƣời, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa chất thơ và văn xuôi” [73; 182]. Còn trong bài viết Từ một góc nhìn về sự vận động của truyện ngắn chiến tranh, tác giả Tôn Phƣơng Lan lý giải chi tiết hơn: “Những truyện ngắn đã khai thác yếu tố tâm linh và tạo ra những chi tiết, cảnh huống ly kỳ, hấp dẫn, đem lại cho các truyện này một vóc dáng hiện thực mới khiến ngƣời đọc không chỉ cảm mà còn thấy” [38; 34]. Những đổi mới về nội dung tất yếu dẫn đến sự thay đổi về hình thức thể loại truyện ngắn. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng nhận xét: “Về khía cạnh thi pháp, truyện ngắn 1986 - 2000 đã trở nên phong phú về hình thức, phong cách và bút pháp. Đã có thể tách bạch ra những dòng phong cách chủ yếu sau: phong cách cổ điển (ứng với lớp nhà văn nhƣ Nguyễn Thành Long, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Hồng Nhu…), phong ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 13 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- cách trữ tình (ứng với các nhà văn Nguyễn Bản, Đỗ Chu, Nguyễn Quang Thiều, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Trần Huyền Trang…); phong cách hiện thực (ứng với Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Thị Thu Huệ…). Về hình thức, truyện ngắn giai đoạn này khá đa dạng - có thể nói đến một kiểu Truyền kỳ hiện đại (kiểu Bến trần gian của Lƣu Sơn Minh, Hai người đàn bà xóm trại của Nguyễn Quang Thiều), kiểu truyện giả cổ tích (Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp), truyện ngắn - kịch (kiểu Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh), truyện ngắn rất ngắn (Vùng lặng của Phạm Sông Hồng), truyện ngắn triết luận (Tâm tưởng của Bùi Hiển, Sống mãi với cây xanh của Nguyễn Minh Châu, Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp)…” [65; 45]. Nhƣ vậy, là một thể loại phát triển rực rỡ trong giai đoạn văn học 1986 - 2006, truyện ngắn là đối tƣợng của không ít các công trình nghiên cứu, phê bình đƣơng đại. Nhƣng với tham vọng khảo sát một cách tƣơng đối hệ thống sự vận động của thể loại truyện ngắn giai đoạn 1986 - 2006, chúng tôi hy vọng, việc triển khai đề tài này không phải là một công việc thừa thãi. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu và bố cục luận văn 4.1 Phương pháp nghiên cứu * Vận dụng kiến thức lý luận về thi pháp truyện ngắn đối với các vấn đề: Cốt truyện - kết cấu, Nghệ thuật xây dựng nhân vật, Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật… * Sử dụng các thao tác: - So sánh giữa các giai đoạn văn học nhằm làm rõ quá trình vận động của thể loại truyện ngắn sau 1986. ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 14 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- - So sánh đối chiếu các tác phẩm đồng đại để thấy đƣợc nét riêng biệt của từng trào lƣu, từng xu hƣớng truyện ngắn nổi bật. - Phân tích, tổng hợp những nét chung và riêng trong các tác phẩm để thiết lập hệ thống luận điểm. - Thống kê, mô tả các hiện tƣợng, các biểu hiện của hình thức, sau đó lý giải sự vận động của hình thức thể loại truyện ngắn sau 1986. 4.2 Bố cục luận văn Luận văn bao gồm Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận. Phần nội dung có 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cốt truyện và kết cấu Chƣơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật Chƣơng 3: Nghệ thuật trần thuật Danh mục tài liệu tham khảo ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 15 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CỐT TRUYỆN VÀ KẾT CẤU Khái niệm “cốt truyện” đƣợc sử dụng chủ yếu cho các thể loại văn học thuộc phƣơng thức tự sự hoặc kịch. Trong cuốn Lý luận văn học, giáo sƣ Hà Minh Đức xác định: “Cốt truyện là một hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống, và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng nhằm làm sáng tỏ tƣ tƣởng và chủ đề tác phẩm” [17; 45]. Nếu cốt truyện là một yếu tố nghiêng về nội dung thì kết cấu là một phƣơng diện của hình thức liên quan tới cách tổ chức, bố trí, sắp xếp sự xuất hiện của các chất liệu hiện thực hay tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài của tác phẩm. “Bố cục là một phƣơng diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm, nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện” [17; 132] Nhƣ vậy, trong quan hệ với cốt truyện, khái niệm kết cấu rộng hơn. Mọi liên kết bên trong (giữa các sự kiện, chi tiết trong cốt truyện) và bên ngoài (giữa cốt truyện và các thành phần khác của tác phẩm) đều là nhiệm vụ của kết cấu. Cốt truyện là một đơn vị, một căn cứ để triển khai các công việc kết cấu từ quy mô nhỏ cho đến quy mô lớn. Chính vì thế, trong khi nghiên cứu cấu trúc của một tác phẩm văn học, ngƣời ta thƣờng phân tích đồng thời các mối quan hệ qua lại, chi phối lẫn nhau giữa cốt truyện và kết cấu. Đánh giá cao vai trò của cốt truyện, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học viết: “Cốt truyện trỏ lớp biến cố của hình ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 16 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố đã tạo ra sự vận động của nội dung cuộc sống đƣợc miêu tả trong tác phẩm. Tính truyện (có cốt truyện) là phẩm chất có giá trị quan trọng của văn học, sân khấu, điện ảnh và các nghệ thuật cùng loại” [22; 57]. Trong truyện ngắn, vai trò của cốt truyện càng đƣợc đẩy mạnh do đặc trƣng phản ánh cuộc sống qua những khoảnh khắc tập trung nhất các xung đột, mâu thuẫn của thể loại này. Chính vì vậy, sự vận động và biến đổi của thể loại qua từng thời kỳ phát triển gắn liền với những biến chuyển về mặt cốt truyện. Có thể thấy rõ điều này qua việc khảo sát những chặng đƣờng truyện ngắn từ lúc thể loại này manh nha tại Việt Nam cho tới ngày nay. 1.1 Sự vận động của cốt truyện và kết cấu truyện ngắn trƣớc 1986 1.1.1 Giai đoạn trước 1932 Ra đời muộn hơn thế giới hàng trăm năm, truyện ngắn Việt Nam hình thành vào khoảng thế kỷ 15, 16 với những tập truyện nhƣ Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục (đời Trần); Việt điện u linh, Nam ông mộng lục (1438), Thánh Tông di thảo, Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ XV), Truyền kỳ mạn lục (thế kỷ 16)… Nhƣng các đặc điểm thể loại trong những tập truyện này chƣa biểu hiện một cách tập trung và rõ nét. Tình trạng diễn ra phổ biến là sự nhập nhằng giữa tính chất ký, truyện lịch sử, truyện mô phỏng, phóng tác truyền thuyết dân gian trong các tác phẩm. Giới nghiên cứu thƣờng dùng khái niệm “truyện ngắn trung đại” nhƣ một cách ƣớc lệ để chỉ hiện tƣợng không thuần nhất về nội dung và nghệ thuật, gồm rất nhiều kiểu tác phẩm khác nhau ra đời trong một khoảng thời gian gần 10 thế kỷ. Trong cuốn Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng viết: “Trong khi nghiên cứu sự hình thành và phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam, chúng tôi quan sát thấy một hiện tƣợng sau: trong khu vực Đông Bắc Á (gồm ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 17 Luận văn Thạc sĩ Lưu Thị Thu Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), hình thức ban sơ của truyện ngắn là truyền kỳ - đó là một thứ “truyện thần thoại có tác giả, cốt truyện của nó có thể đƣợc lƣu hành trong dân gian, đƣợc các nhà văn sử dụng, nâng cao thành tác phẩm văn học. Truyền kỳ là thể loại văn xuôi nghệ thuật sớm sủa của văn học cổ điển Trung Quốc và theo quan niệm về thể loại này, nó là hình thức ban đầu của truyện ngắn” [68;79]. Mới manh nha và chƣa có hình mẫu nào ổn định, truyện ngắn trung đại phát triển khá đa dạng, nhiều chiều, nhiều khuynh hƣớng nhƣng có thể đƣợc khái quát thành một số đặc điểm nhất định. Truyện thƣờng có nội dung và lối kể dân gian. Dựa trên cốt truyện hoặc các nhân vật dân gian, nhà văn đắp thêm phần hƣ cấu của mình cho tác phẩm có màu sắc hiện đại hoặc nhằm phản ánh hiện thực nào đó. Người con gái Nam Xương là một ví dụ điển hình. Tác phẩm có nguồn gốc từ truyện cổ tích dân gian Vợ chàng Trương. Nhƣng Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần không gian truyện dƣới thủy cung nhằm tăng tính diệu kỳ, tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm. Truyện ngắn thời kỳ này cũng chịu ảnh hƣởng lối văn tự sự trong các bộ sử, tạo nên tính chất sử ký văn chƣơng cho tác phẩm. Theo đó, tác giả thƣờng vận dụng lối kể chuyện khách quan với lời văn ngắn gọn, giàu chất truyện. Một số lƣợng lớn truyện ngắn thời kỳ này lấy cảm hứng từ dã sử Trung Quốc hoặc Việt Nam và nhuận sắc thêm. Mặt khác, do ảnh hƣởng của truyện dân gian và truyện lịch sử nên truyện ngắn trung đại thƣờng có cốt truyện hấp dẫn, tình tiết ly kỳ. Ngay trong thời kỳ sơ khai của truyện ngắn, cốt truyện đã đóng vai trò quan trọng đối với các tác phẩm thuộc thể loại này. Chính vì thế, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng, truyện ngắn trung đại có thể phân loại theo tiêu chí cốt truyện. Ông viết: “Xét về nguồn gốc cốt truyện, có thể chia truyện ngắn ------------------------------------------------------------------------------------------------------------Sự vận động của truyện ngắn VN từ 1986 đến nay, nhìn từ góc độ hình thức thể loại 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan