Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn so sánh cách tả ngoại hình nhân vật trong truyện kiều của nguyễn du và ...

Tài liệu Luận văn so sánh cách tả ngoại hình nhân vật trong truyện kiều của nguyễn du và truyện ngắn của nam cao

.PDF
98
77
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------TRẦN MAI HƯƠNG SO SÁNH CÁCH TẢ NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM Hà Nội - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------TRẦN MAI HƯƠNG SO SÁNH CÁCH TẢ NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 602234 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Nho Thìn Hà Nội - 2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài: .......................................................................................... 4 2. Một số vấn đề lí luận chung .......................................................................... 9 2.1.Khái niệm nhân vật: .................................................................................... 9 2.2. Ngoại hình nhân vật : ................................................................................. 9 2.3. Thể loại và vấn đề miêu tả ngoại hình: .................................................... 10 2.4. Hai thời kỳ văn học trung đại và hiện đại trong lịch sử văn học Việt Nam 2.4.1 Văn học trung đại Việt Nam .................................................................. 11 2.4.2 Văn học hiện đại Việt Nam ................................................................... 12 3. Đối tượng, mục đích, phạm vi, phương pháp nghiên cứu: ......................... 14 3.1. Đối tượng: ................................................................................................ 14 3.2. Môc ®Ých nghiªn cøu ................................................................................ 15 3.3. Ph¹m vi nghiªn cøu. ................................................................................. 15 3.4. Phương pháp nghiên cứu : ....................................................................... 15 4. LÞch sö vÊn ®Ò nghiªn cøu. .......................................................................... 16 4.1. Lịch sử nghiên cứu việc miêu tả ngoại hình nhân vật Truyện Kiều: ....... 16 4.2. Nghiên cứu về vấn đề miêu tả ngoại hình nhân vật trong sáng tác Nam Cao: ................................................................................................................. 21 NỘI DUNG ..................................................................................................... 24 Chương 1: VẤN ĐỀ MIÊU TẢ NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU 1 1. Ngoại hình nhân vật chính diện .................................................................. 25 1.1 Nh©n vËt Thuý V©n: .................................................................................. 26 1.2. Nhân vật Thúy Kiều : ............................................................................... 28 1.3 Nhân vật Từ Hải : ...................................................................................... 29 1.4 Nh©n vËt Kim Träng: ................................................................................ 31 2. Ngoại hình nh©n vËt ph¶n diÖn:.................................................................. 33 2.1. Nhân vật M· Gi¸m Sinh ........................................................................... 34 2.2 Nhân vật Tú Bà ........................................................................................ 37 2.3. Nhân vật Sở Khanh .................................................................................. 39 2.4. Nhân vật Hoạn Thư .................................................................................. 39 2.5 Nhân vật Hồ Tôn Hiến .............................................................................. 42 Chương 2: NGOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO. 1. Ngo¹i h×nh nh©n vËt chÝ PhÌo...................................................................... 49 1.1 Ngo¹i h×nh cña ChÝ PhÌo khi b¾t ®Çu tha hóa¸: ........................................ 50 1.2 Ngo¹i h×nh khi Chí Phèo chìm sâu trong sự tha hóa trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại .............................................................................................. 53 1.3 Ngo¹i h×nh cña ChÝ PhÌo khi bÞ cù tuyÖt:.................................................. 55 2 . Ngo¹i h×nh nh©n vËt Thị Nở. ...................................................................... 58 3. Ngo¹i h×nh nh©n vËt L·o H¹c ...................................................................... 68 4. Một vài quan sát so sánh : ........................................................................... 70 Chương 3: SO SÁNH VÀ LÍ GIẢI ................................................................ 74 2 1.So sánh ......................................................................................................... 74 1.1. Giống nhau ............................................................................................... 74 1.2 Khác nhau .................................................................................................. 76 1.2.1. Về hệ thống nhân vật : .......................................................................... 76 1.2.2. Về bút pháp nghệ thuật: ........................................................................ 80 2. Lý giải: ........................................................................................................ 80 2.1. Quan niệm văn học thời trung đại : .......................................................... 81 2.2. Quan niệm về con người cộng đồng thời trung đại : ............................... 85 2.3. Quan niệm văn học thời hiện đại .............................................................. 86 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 91 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Để làm nổi bật đặc điểm riêng, nét độc đáo của một đối tượng nào đó, cần phải dùng phương pháp so sánh. Có một số lý do để chúng tôi đến với đề tài nghiên cứu so sánh cách miêu tả ngoại hình nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và trong truyện ngắn Nam Cao. - Chúng ta đều biết, Nguyễn Du là một tác giả tiêu biểu của văn học trung đại và Nam Cao- một tác giả tiêu biểu của văn học hiện đại giai đoạn nửa đầu thế kỷ. Nghiên cứu so sánh miêu tả ngoại hình nhân vật của một tác giả trung đại và một tác giả hiện đại thoạt nhìn có vẻ như một đề tài đơn giản, song thực ra ẩn sau vẻ ngoài đơn giản này là những vấn đề khá quan trọng của so sánh loại hình học văn học trung đại và hiện đại. Đề tài của chúng tôi là một dạng nghiên cứu trường hợp, thông qua một sự kiện cụ thể để hình dung đặc điểm của hai nền, hai kiểu loại văn học lớn. Trong nghiên cứu và giảng dạy văn học ở chương trình trường phổ thông, vấn đề về đặc trưng của văn học trung đại và văn học hiện đại là vấn đề quan trọng nhưng khá phức tạp. Làm cách nào để miêu tả và cắt nghĩa cho học sinh hiểu được những đặc trưng nổi bật của hai kiểu văn học này trên cơ sở những tác phẩm học sinh được học, một cách cắt nghĩa không quá khó, quá phức tạp, vừa đủ với trình độ tư duy và nhận thức của học sinh- câu hỏi này luôn thôi thúc sự suy nghĩ của tôi với tư cách một giáo viên dạy văn ở trường phổ thông cấp trung học cơ sở. Được sự gợi ý của thầy hướng dẫn, chúng tôi quyết định chọn đề tài “So sánh cách tả ngoại hình nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện ngắn của Nam Cao”. Những lý do cụ thể như sau: 4 1.1 Vấn đề miêu tả ngoại hình với quan niệm về con người: Ngoại hình con người (cũng là nhân vật trong tác phẩm văn học) gồm những yếu tố gì ? Nếu duy danh định nghĩa, hình là hình khối, đường nét, màu sắc, ngoại là bên ngoài. Vậy ngoại hình trước hết đó là chân dung –khuôn mặt, mắt, mũi, miệng thông qua nụ cười, cái nhìn, giọng nói, sau đó là cách phục sức, quần áo với kiểu cách, màu sắc của quần áo. Chúng ta dễ thống nhất với nhau rằng ở một con người, nếu tâm lý vốn trừu tượng, chỉ có thể nắm bắt, phán đoán và diễn tả gián tiếp thì ngoại hình là phần hữu hình, có thể quan sát trực quan. Tất nhiên, tả ngoại hình có ý nghĩa quan trọng trong việc nắm bắt, diễn tả tính cách nhân vật. Cùng với ngôn ngữ, hành động, tâm lý, các yếu tố ngoại hình góp phần làm nổi bật tính cách của nhân vật. Nhưng mỗi nền văn học, mỗi thời đại văn học lại có cách miêu tả ngoại hình khác nhau. Nói một cách lý luận, miêu tả ngoại hình nhân vật là một phạm trù lịch sử. Các trích đoạn Truyện Kiều hay tác phẩm Chí Phèo đều có miêu tả chân dung nhân vật, dĩ nhiên ở các mức độ và tính chất khác nhau, với những quan niệm khác nhau. So sánh cách tả ngoại hình nhân vật để từ đó khái quát lên đặc trưng của tư duy văn học trung đại và hiện đại do đó là cách làm phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh, mà cũng là cách làm mà giới nghiên cứu chưa từng vận dụng khi so sánh hai nền văn học trung đại và hiện đại. Đề tài do vậy có tính ứng dụng thực tiễn cấp thiết, đồng thời cũng có cái mới. 1.2. Đề tài tuy đề cập đến một phương diện rất nhỏ của nhân vật văn học nhưng có liên quan đến tư duy văn học của văn học trung đại và văn học hiện đại. Tả ngoại hình con người không đơn giản là câu chuyện của kỹ thuật viết văn mà ẩn sau việc miêu tả ấy là quan niệm của mỗi tác giả, mỗi thời đại về con người. Quan niệm về con người như thế nào thì tác giả sẽ tả ngoại hình nhân vật tương ứng. Đọc lịch sử nghiên cứu bình luận việc miêu tả nhân vật Truyện Kiều, chúng tôi gặp ý kiến độc đáo của René Crayssăc, một nhà 5 Việt Nam học người Pháp. Ông cho rằng, con người trong Truyện Kiều sống trong xã hội gia trưởng, lấy gia đình làm bản vị, hy sinh con người cá nhân cho cộng đồng gia đình nên nét cá nhân thường rất mờ nhạt. Theo ông, quan niệm con người như vậy chi phối đến cách miêu tả nhân vật, trước hết là miêu tả ngoại hình. Ông viết “Các nhân vật trong Truyện Kiều, người nào cao hay thấp, béo hay gầy, mặc xanh hay mặc đỏ, cái đó không có quan hệ gì. Người trong truyện đây chẳng qua mỗi người chỉ là để đóng một vai trong xã hội, cái bản thân mình không có quan hệ gì; mỗi người có thể cho là chân “phái viên” phải làm một công việc cho xã hội” ( René Crayssac, Truyện Kiều và xã hội Á Đông, Thượng Chi dịch từ Pháp văn, Nam phong, các số 111 và 112 (tháng 11 và 12,1926) ). Nghĩa là, vì không có quan niệm đề cao con người cá nhân nên Nguyễn Du không theo đuổi việc tả chi tiết ngoại hình nhân vật. Từ cách giải thích thú vị của ông, ta có thể suy ra, các tác phẩm văn học hiện thực ở thế kỷ XX, ví dụ, sáng tác của Nam Cao, sở dĩ có việc tả chi tiết, tỉ mỉ ngoại hình nhân vật vì các nhà văn hiện đại sống trong môi trường văn học chịu nhiều ảnh hưởng của văn học phương Tây, vốn đề cao con người cá nhân. Nghĩa là nếu mở rộng xem xét ngữ cảnh văn hóa, ta sẽ thấy sau chuyện tả ngoại hình nhân vật là một vấn đề văn hóa của từng thời đại. Nhưng trong Truyện Kiều có một vấn đề khác nữa mà Crayssac chưa đề cập đến, nhưng đã được một số nhà nghiên cứu gần đây miêu tả và lý giải, trong số đó có nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn. Đó là việc phân tích và lý giải vì sao có sự khác biệt trong miêu tả nhân vật chính diện và phản diện ở tác phẩm này. Nội dung vấn đề tóm tắt như sau: trong Truyện Kiều, có sự phân biệt trong việc sử dụng các kỹ thuật tả nhân vật- không chỉ ngoại hình mà còn cả tâm lý- dành cho các nhân vật chính diện và phản diện. Theo ông, ngoài một hai nhân vật có tính trung gian, các nhân vật Truyện Kiều về cơ bản vẫn phân tuyến thành chính diện và phản diện. Ông dùng khái niệm “tư duy phân 6 loại” để diễn tả, tư duy phân loại này bộc lộ trên ba cấp độ khác nhau (thái độ của tác giả đối với mỗi loại nhân vật; cấu tạo giá trị cho mỗi loại nhân vật và phân loại nhân vật bằng các phương tiện nghệ thuật ngôn từ). Nghệ thuật tả ngoại hình nhân vật thuộc tầng thứ ba, theo Trần Nho Thìn là tầng sâu nhất, mang những đặc trưng rõ nhất của nghệ thuật tự sự truyện Nôm bác học. Ông viết “Đặc điểm nổi bật của tính ước lệ trong việc miêu tả nhân vật Truyện Kiều là việc tác giả sử dụng rộng rãi và nhất quán các biểu tượng rút từ thiên nhiên làm công cụ miêu tả. Chúng ta thấy ngoại hình của Thúy Kiều, Thúy Vân, Kim Trọng, Từ Hải được miêu tả một cách ước lệ, trong đó vai trò của các yếu tố thiên nhiên là đặc điểm nổi bật” [48, tr.107]. Trong khi đó, ngoại hình nhân vật phản diện lại có xu hướng được tả thực. “Nếu như khi miêu tả các nhân vật chính diện, Nguyễn Du khai thác các yếu tố thiên nhiên thì khi miêu tả các nhân vật phản diện, ông lại cố gắng đặt chúng vào địa hạt cuộc sống hàng ngày, cố gắng miêu tả chúng sao cho cụ thể giống thực…Với các nhân vật phản diện, tác giả cố gắng gọi sự vật bằng đúng cái tên của nó. Do đó chúng ta mới có cơ hội bắt gặp một Mã Giám Sinh khá cụ thể về tuổi tác, ngoại hình, phục sức…Có thể nói rằng Nguyễn Du phân biệt một cách rạch ròi, kiên quyết, triệt để trong quan sát và miêu tả hai loại nhân vật, sự phân biệt đã đi vào tư duy nghệ thuật” [48, tr.109-110]. Với nhận xét này, Trần Nho Thìn chỉ rõ, các từ ngữ “khuôn trăng‟, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt”, “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa ghen, liễu hờn” không đơn giản là những công thức ước lệ mà ẩn sau chúng là quan niệm văn hóa riêng cuả thời trung đại. Cũng vậy, sau những từ ngữ “mày râu nhẵn nhụi” tả Mã Giám Sinh, “nhờn nhợt màu da” tả Tú Bà không đơn giản là chuyện bút pháp chủ nghĩa hiện thực như có nhà nghiên cứu quan niệm mà chính là một biểu hiện của tư duy văn học rất riêng thời trung đại. Trần Nho Thìn lý giải “Vì coi thiên nhiên là nguồn gốc sinh ra nhân cách cao quý nên theo quan niệm Nho gia, thiên nhiên là mẫu 7 mực, là lý tưởng, là cái đẹp, cái hoàn mỹ. Mặt khác chỉ có những con người cao quý mới xứng đáng sánh cùng thiên nhiên, đối diện với thiên nhiên. Những kẻ độc ác, xấu xa vĩnh viễn bị cầm tù trong phạm vi cuộc sống xã hội, trong cái hàng ngày, trần tục bụi bặm, đánh khinh đáng ghét” [48, tr.114]. Như vậy, các thủ pháp nghệ thuật tả ngoại hình nhân vật trung đại không còn chỉ đơn giản là vấn đề hình thức mà là vấn đề nội dung, vấn đề văn hóa cần khám phá, đào sâu. Nhìn qua, chuyện tả ngoại hình có vẻ đơn giản những ẩn chứa trong nó nhiều vấn đề quan trọng mà luận văn phải cắt nghĩa. Đối với văn học hiện đại, việc tả ngoại hình nhân vật cũng không chỉ là chuyện hình thức thuần túy mà mang trong nó cả những vấn đề văn hóa và triết học của nền văn học hiện đại tiếp nhận những giá trị văn học phương Tây. Đọc các ý kiến lý giải của nhiều nhà phê bình đương thời với Nam Cao, chúng ta thấy sự lý giải vấn đề tả chân của văn học hiện đại. Hiện nay các loại sách giáo khoa và sách hướng dẫn giảng dạy tác phẩm văn học Việt Nam ở trường phổ thông hầu như không hướng dẫn so sánh tả ngoại nhân vật của văn học trung đại và hiện đại về nhiều phương diện. Vì vậy vẫn thiếu một sự hướng dẫn cần thiết cho giáo viên về việc so sánh nhân vật của văn học trung đại và hiện đại khi giảng dạy cho học sinh phổ thông. Trên nguyên tắc có thể so sánh về thể loại, đề tài, chủ đề, tư tưởng, ngôn ngữ để tìm ra những đặc trưng của các giai đoạn văn học khác nhau. Nhưng với khuôn khổ và thời gian của luận văn nên chúng tôi đã chọn một khía cạnh, một vấn đề nhỏ là cách tả ngoại hình nhân vật của giai đoạn Trung đại và Hiện đại làm đề tài nghiên cứu nhằm mục đích hỏi học và vận dụng phương pháp so sánh phục vụ vào công tác nghiên cứu giảng dạy bộ môn văn học ở phổ thông. 8 2. Một số vấn đề lí luận chung 2.1.Khái niệm nhân vật: Nhân vật văn học là một thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự tồn tại của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật, ngay cả khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể. Nhân vật văn học là một trong những đối tượng trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung về nhân vật văn học có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học như : văn học về “con người thừa” (ở văn học Nga thế kỉ XIX), văn học về “thế hệ bỏ đi”(ở Mĩ thế kỉ XX). 2.2. Ngoại hình nhân vật : như đã nói ở trên, khái niệm “ngoại hình nhân vật” được sử dụng trong luận văn này chỉ phần hữu hình bề ngoài của nhân vật, có thể quan sát, cảm nhận bằng mắt thường. Đó là những yếu tố khuôn mặt, mái tóc, chòm râu, hàng ria, đôi mắt, sống mũi, miệng, hàm răng khi cười…nói chung là những gì gọi bằng khái niệm “sắc tướng”. Mở rộng thêm, ngoại hình còn bao gồm cả thân thể, phục trang, dáng đi. Không phải tất cả các nhân vật của một tác giả đều được miêu tả đầy đủ các yếu tố ngoại hình trên, tùy theo ý đồ nghệ thuật mà một tác giả có thể chọn miêu tả ít hay nhiều yếu tố ngoại hình. Và điều mà luận văn quan tâm là xem xét cách mà 9 một tác giả trung đại miêu tả ngoại hình có gì khác, có gì giống với một tác giả hiện đại. 2.3. Thể loại và vấn đề miêu tả ngoại hình: Các thể loại tự sự và các thể loại trữ tình có những đặc trưng khác nhau trong lĩnh vực mô tả ngoại hình. Trong các thể loại văn xuôi tự sự có cốt truyện thì nhân vật có thể có những điểm khác biệt với nhân vật trong các thể loại trữ tình vốn không có cốt truyện (người ta thường gọi nhân vật trong thơ là nhân vật trữ tình hoặc cái tôi tác giả). Khác biệt dễ nhận thấy nhất là nhân vật văn xuôi có tính tạo hình rõ nét hơn, có hành động, có ngôn ngữ, có tâm lý, có tính cách, và có ngoại hình rõ hơn so với nhân vật trong thơ. Bởi vì sức sống của văn xuôi trước hết chính là ở sự bề bộn của chi tiết. Tuy nhiên, có những trường hợp cần tính đến đặc trưng nguyên hợp của thể loại vốn bao hàm nhiều tính chất của cả các thể loại tự sự và trữ tình như sử thi, truyện thơ, một đặc sắc của văn học Đông Nam Á. Truyện Kiều mà chúng tôi lựa chọn chính là thuộc về trường hợp này. Truyện Kiều thuộc thể loại truyện thơ, duy danh định nghĩa là vừa có chất tự sự (truyện) lại vừa có tính chất trữ tình (thơ), một số nhà nghiên cứu đã gọi rất đúng là tiểu thuyết bằng thơ. Nguyễn Du đã chọn thể thơ lục bát để kể lại Kim Vân Kiều truyện, một tiểu thuyết chương hồi (văn xuôi). Chất trữ tình nồng đậm đúng là một đặc trưng nổi bật của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện-điều này đã được giới nghiên cứu thừa nhận. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chất truyện, chất tự sự, tính chất kể chuyện bị lu mờ. Mặc dù Nguyễn Du rút gọn nhiều chi tiết của nguyên truyện, song ông vẫn viết thiên truyện thơ này theo nguyên lý kết hợp tự sự và trữ tình nhuần nhuyễn. Ngoài ra, trong các thể loại thơ, có khi một bài thơ trữ tình nhưng tính chất tự sự (kể, tả) cũng rất đậm nét. Bài thơ Chợ tết của Đoàn Văn Cừ với bề bộn các chi tiết, màu sắc, hành động là một ví dụ tiêu biểu. Trong văn học 10 trung đại, những bài thơ thể ca, hành rất đậm chất tự sự tuy tự sự vẫn là phục vụ cho trữ tình. Ví dụ như bài Long thành cẩm giả ca của Nguyễn Du thấm đậm nội dung kể chuyện, tuy cảm xúc trữ tình vẫn là nhân tố chi phối. Do đó, về nguyên tắc, có thể so sánh một phương diện nào đó như ngoại hình nhân vật của Truyện Kiều, có tính đến tính đặc trưng thể loại truyện thơ với ngoại hình nhân vật trong tác phẩm văn xuôi nào đó. 2.4. Hai thời kỳ văn học trung đại và hiện đại trong lịch sử văn học Việt Nam Vì mục tiêu so sánh ngoại hình nhân vật sáng tác của Nguyễn Du (tác giả văn học trung đại ) và Nam Cao (tác giả văn học hiện đại ) để làm nổi rõ một nét đặc điểm của hai nền văn học này nên ở đây xin nói qua về hai thời kỳ cũng là hai loại hình văn học khác nhau. 2.4.1 Văn học trung đại Việt Nam Văn học trung đại Việt Nam tồn tại trong giai đoạn X đến thế kỉ XIX. Văn học trung đại Việt Nam nằm trong khu vực văn học Đông Á, chịu ảnh hưởng của văn học dân gian, đồng thời tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Trung Quốc và các nền văn học của các dân tộc láng giềng. Quan niệm về con người và thế giới trong triết học và văn hóa Đông Á có ảnh hưởng quyết định đối với việc tả ngoại hình nhân vật văn học trung đại. Nguyễn Du sống trong bầu không khí đó, tất nhiên chịu ảnh hưởng của quan niệm có tính khu vực về con người. Nhất là chịu ảnh hưởng của văn hóa và văn học Trung Quốc. Truyền thống văn hóa phương Đông không coi trọng con người cá nhân mà coi trọng con người phận vị, con người chức năng. Nói như GS Trần Đình Hượu, đó là con người chức năng trong quan hệ luân thường. Trong tiếng Việt, hệ thống đại từ nhân xưng rất phức tạp, phản ánh các mối quan hệ luân thường đạo lý chằng chịt trong đó, cái cá nhân bị triệt tiêu: đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất có thể là tôi, em cháu, con; ngôi thứ hai có thể là cụ, ông, bác, chú, thím, dì, cô, cậu, mợ…Đứng trước một người đối thoại, 11 người Việt thường phải xác định đúng quan hệ để dùng đúng đại từ, bảo đảm duy trì quan hệ tốt. Trong bối cảnh đó, tác giả văn học trung đại quan tâm đến kiểu loại (type) nhân vật nhiều hơn là con người cá nhân nhân vật. Vì vậy, văn học trung đại Việt Nam ít quan tâm đến sự cá thể hóa nhân vật. Nếu như ngoại hình là một phương diện quan trọng của sự cá thể hóa thì tất nhiên, văn học trung đại ít quan tâm đến các yếu tố riêng, cá thể của ngoại hình. Nhân vật thường được quan tâm ở các kiểu loại hơn là ở nét cá thể. Truyền thống văn hóa phương Đông, nhất là triết học Phật giáo, còn có quan điểm riêng về quan hệ giữa cái hữu hình (hình) và cái bản chất (thần). Phật tính chỉ có một nhưng Phật lại có thể thị hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, khi là thương gia, khi là người đi ăn xin...Vậy thì cái bề ngoài có thể thay đổi mà bản chất không thay đổi. Cái bề ngoài đó chỉ cần thiết để nói lên bản chất bên trong, bản chất bên trong là quan trọng, việc miêu tả tỉ mỉ cái ngoại hình là điều không thực sự cần thiết. Vì vậy, luận văn sẽ nghiên cứu vấn đề miêu tả ngoại hình nhân vật của Nguyễn Du trong tương quan với quan niệm văn hóa về con người thời trung đại. 2.4.2 Văn học hiện đại Việt Nam Từ đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam bắt đầu quá trình hiện đại hóa. Đến nay, giới nghiên cứu đều khẳng định hiện đại hóa văn học tức là Âu hóa, Tây phương hóa, quốc tế hóa, thoát ra khỏi quỹ đạo văn học phương Đông. Trong mấy thập kỷ đầu của thế kỷ XX, đã hình thành kiểu tác giả mới, những người bỏ bút lông viết bút sắt, họ học tiếng Pháp, đọc văn học Pháp, văn học Nga và văn học phương Tây…đọc sách lý luận phê bình của phương Tây. Những ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với văn học hiện đại Việt Nam là rất rõ ràng, hiển nhiên. Nam Cao thuộc về kiểu tác giả như vậy. Trong các hồi 12 ký về Nam Cao của Vũ Bằng, Tô Hoài đều cho hay, thế hệ tác giả như Nam Cao chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nhà văn viết truyện ngắn châu Âu như Mopátxăng, Sêkhốp. Hiện nay xu hướng quốc tế hóa, tiếp nhận ảnh hưởng rất nhiều nền văn học của nước khác trên thế giới của văn học Việt Nam ngày càng thể hiện mạnh. Truyền thống của văn học phương Tây ngay từ thời Platôn, Aristốt đã hướng đến chức năng của văn học mô phỏng, bắt chước hiện thực, trong đó, chi tiết chân thực trong miêu tả con người được chú ý. Ngay cả các sáng tác của nhà văn theo chủ nghĩa lãng mạn thì việc miêu tả chi tiết, cụ thể chân dung của nhân vật vẫn được đề cao. Triết học và văn học phương Tây từ thời Phục hưng có truyền thống đề cao con người cá nhân, đến thế kỷ XX đã tích lũy được nhiều lý luận về con người cá nhân. Khi đề cao con người cá nhân thì dễ hiểu là, tác giả trung đại phải chú ý đến cá thể hóa, đến vai trò của miêu tả ngoại hình đối với việc cá thể hóa, cá tính hóa nhân vật. Sự khác biệt giữa các nhân vật bộc lộ trong nhiều yếu tố, mà trước hết được làm rõ trong các nét biểu hiện cá thể hóa ngoại hình nhân vật. Vì thế, định vị tác giả Nam Cao trong văn học hiện đại tức là lưu ý những ảnh hưởng phương Tây đến quan niệm về con người cũng như thi pháp miêu tả con người của nền văn học này. Tóm lại, để giải thích cắt nghĩa đặc điểm của việc tả ngoại hình nhân vật trong một tác phẩm văn học trung đại, chúng ta không thể không liên hệ đến ảnh hưởng của văn học Trung Quốc. Đồng thời để giải thích cắt nghĩa đặc điểm của việc miêu tả ngoại hình trong văn học hiện đại chúng ta cũng phải liên hệ đến ảnh hưởng của văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp. Nghĩa là nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật của hai tác giả Nguyễn Du (văn học trung đại ) và Nam Cao (văn học hiện đại ) được tìm hiểu trong ngữ cảnh rộng mang tính thời đại, đặc trưng của nghệ thuật này được xem xét trong mối quan hệ giao lưu, tiếp nhận ảnh hưởng văn học thế giới. 13 3. Đối tượng, mục đích, phạm vi, phương pháp nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu so sánh riêng vấn đề tả ngoại hình nhân vật trong Truyện Kiều, một truyện thơ lục bát Việt Nam và trong một số truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao. Thực ra, như đã nói, đây là đề tài tìm hiểu một yếu tố thuộc đặc trưng của nghệ thuật văn học trung đại và hiện đại. Để làm nổi bật những đặc trưng của văn học trung đại và hiện đại, việc lựa chọn đối tượng so sánh phải tiêu biểu, là những trường hợp tác phẩm thành công. Truyện Kiều là truyện thơ vừa có yếu tố trữ tình, lại vừa có yếu tố tự sự. Bản thân Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tác dựa trên cơ sở dựa trên tiểu thuyết “ Kim Vân Kiều truyện‟‟ gồm 20 hồi, một tác phẩm văn xuôi tự sự nên chúng ta có thể lựa chọn so sánh với một tác phẩm văn xuôi hiện đại. Trên thực tế có nhiều nhà nghiên cứu đã bàn về chủ nghĩa hiện thực của Truyện Kiều như Trương Tửu, Đỗ Đức Dục, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Lộc, nghĩa là đã từng ứng xử với tác phẩm truyện thơ này như một tác phẩm nghệ thuật tự sự. Khẳng định chủ nghĩa hiện thực trong Truyện Kiều là việc có thể dẫn đến nhiều nghi ngờ, song ứng xử với nó như một thể loại có tồn tại phương thức tự sự lại có căn cứ khoa học. Sáng tác của Nam Cao thuần túy là văn xuôi (truyện ngắn), được đánh giá là tiêu biểu cho văn học giai đoạn 1900-1945 nên chúng tôi chọn làm đối tượng so sánh tiêu biểu cho văn học hiện đại. Mặt khác, Truyện Kiều cũng như truyện ngắn Nam Cao đều được viết bằng tiếng Việt nên có ưu thế hơn so với chọn một tác phẩm văn xuôi chữ Hán để so sánh với sáng tác Nam Cao. Để đảm bảo cho kết quả của việc so sánh có sức thuyết phục trong quá trình khảo sát chúng tôi sẽ so sánh cách tả ngoại hình của Truyện Kiều, có mở rộng với một số tác phẩm văn xuôi trung đại. Khi trình bày về ngoại hình nhân vật truyện ngắn của Nam Cao, khi cần thiết chúng tôi sẽ mở rộng 14 so sánh với cách tả nhân vật của một số tác giả đương thời với Nam Cao. Việc mở rộng như vậy có mục đích là xác nhận tính phổ biến của một đặc điểm được khái quát từ một trường hợp cụ thể. 3.2. Mục đích nghiên cứu Vận dụng việc khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu tìm tòi phương pháp so sánh trong luận văn này chúng tôi sẽ mô tả hiện tượng tả ngoại hình các nhân vật của tác phẩm tự sự tiêu biểu thời trung đại là Truyện Kiều và tác phẩm hiện đại trong một số truyện ngắn của Nam Cao nhằm hai mục đích chính : a.Chỉ ra sự giống và khác nhau, đặc biệt là khác nhau, của nghệ thuật miêu tả nhân vật ở hai tác giả tiêu biểu cho văn học trung đại và văn học hiện đại. b) Phân tích và lý giải nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau là do quan niệm văn học đã chi phối cách tả ngoại hình của các nhân vật trung đại và hiện đại. Qua việc đào sâu cơ sở thế giới quan và văn hóa xã hội, quan niệm văn học chúng tôi sẽ tìm thấy điểm khác nhau từ hai cách tả ngoại hình nhân vật của hai tác giả tiêu biểu của giai đoạn trung đại và hiện đại là tất yếu. Nhưng vì là phương pháp so sánh nên chúng tôi trong quá trình làm luận văn cố gắng tìm những điểm giống nhau và khác nhau cơ bản. 3.3. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn sẽ khảo sát các tác phẩm sau : - Truyện Kiều của Nguyễn Du - Một số truyện ngắn được coi là tiêu biểu của Nam Cao như: Chí Phèo, Lão Hạc, Đời thừa 3.4. Phương pháp nghiên cứu : Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau -Phương pháp so sánh -Phương pháp xã hội học 15 -Phương pháp tiếp cận văn hóa học 4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 4.1. Lịch sử nghiên cứu việc miêu tả ngoại hình nhân vật Truyện Kiều: Về lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều nói chung, Trần Nho Thìn viết :“Quả thực Truyện Kiều là một kiệt tác mà hầu như mọi cây bút có tầm cỡ của giới nghiên cứu trong thế kỷ XX, kể cả lí luận và văn học đều thi thố tài năng với nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau” [ 48, tr.43]. Những vấn đề mà giới nghiên cứu đề cập qua lịch sử Truyện Kiều là hết sức phong phú, đa dạng, ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua những ý kiến liên quan đến việc tả ngoại hình nhân vật của tác phẩm. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh từ trước cách mạng tháng Tám đã chú ý đến nghệ thuật tả chân dung nhân vật Truyện Kiều. Ông đã nhấn mạnh khả năng diễn tả bản chất nhân vật của những từ ngữ Nguyễn Du sử dụng, ví dụ, ông phân tích hai câu Quá niên trạc ngoại tứ tuần/Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao “hai câu ấy tả rõ một người điếm đàng”. Ông phân tích “hình dung” và “thái độ” của một “mụ trùm” nhà chứa Tú Bà qua mấy câu thơ Thoắt trông nhờn nhợt màu da/Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao? / Trước xe lơi lả hỏi chào…Nhưng điều đáng nói hơn cả là, có lẽ Đào Duy Anh là người đầu tiên nêu lên nhận xét so sánh với cách tả nhân vật của Truyện Kiều với cách tả của văn học phương Tây. Ông viết: “Nếu ta so sánh cách mô tả của Nguyễn Du với cách mô tả của các nhà tiểu thuyết phương Tây thì ta có lẽ tiếc rằng Nguyễn Du tả hơi sơ lược. Nhưng ta phải nhớ rằng Nguyễn Du không phải dụng tâm tả thực, nên không tả tỉ mỉ những hình dáng, dung mạo, thái độ, cử chỉ, ngôn từ, tính tình đặc biệt của một người nhất định. Sự mô tả của ông chỉ cốt cho ta nhận thấy vẻ hợp nhất giữa hình dung, tính tình cùng hành động của một nhân vật , mà nhân vật ấy dẫu là người đặc biệt mà lại có tính chất phổ thông, thực là một người trừu tượng, một người điển hình tiêu biểu cho 16 cả một hạng người trong xã hội. Thúy Kiều tiêu biểu cho hạng con gái đẹp tài tình; Thúy Vân tiêu biểu cho hạng con gái đẹp phúc hậu; Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng đàng điếm ma cô; Tú Bà tiêu biểu cho hạng trùm đĩ; Thúc Sinh tiêu biểu cho hạng công tử mê gái; Từ Hải tiêu biểu cho hạng hào kiệt ngang tàng. Bởi các lẽ trên, ta chỉ thấy Nguyễn Du lựa chọn một cách rất thích đáng những điều đáng chú ý, những đặc điểm tiêu biểu chứ không phô bày tất cả chi tiết” (Văn tả người và tả cảnh trong Đoạn trường tân thanh, Tri Tân, s. 74, ngày 25/11/1942). Nhiều nhận xét về nghệ thuật tả ngoại hình nhân vật Truyện Kiều của các nhà phê bình về sau không vượt qua được những gì mà Đào Duy Anh đã làm, thậm chí lại còn không nêu hay phát triển nhận xét so sánh với tiểu thuyết phương Tây của ông. Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên đưa ra những nhận xét tương tự so với Đào Duy Anh, khi viết: “Thí dụ tác giả tả Tú Bà: hình dong, cử chỉ, ngôn ngữ, mưu mẹo, tất cả như vẽ ra cái cốt cách của một mụ dầu. Mụ dầu ấy đúng thật về đời xưa, và cho đến nay đại khái ta thấy vẫn đúng, tức như một kiểu mẫu tâm lý bất biến trong nhân loại, trong xã hội. Người ta gọi những nhân vật tâm lý được kết hợp như vậy là những nhân vật điển hình” [25, tr. 1048]. Các nhà nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề mà trong lý luận về chủ nghĩa hiện thực gọi là nhân vật điển hình. Nhà thơ Xuân Diệu là người có khả năng thẩm bình Truyện Kiều rất tinh tế. Ông đã tiến thêm một bước khi nêu vấn đề Nguyễn Du vừa là nhà văn hiện thực vừa là nhà văn lãng mạn. Bút pháp của Nguyễn Du là hiện thực đối với nhân vật phản diện mà lại lãng mạn đối với các nhân vật chính diện. Ông viết “Nguyễn Du hiện thực lạ lùng mà cũng lãng mạn kỳ diệu…Nguyễn Du dùng hiện thực phê bình dựng những nhân vật phản phái, vẽ bọn chúng rất xấu, mặc dầu có khi cho chúng một cái hình thù “coi được” 17 như Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”. Nhưng đến khi dựng những nhân vật chính diện thì Nguyễn Du phải dùng ngòi bút hiện thực, vừa lãng mạn” [6,tr.130]. Xuân Diệu đã chỉ rõ, “Những nhân vật Nguyễn Du gửi tâm sự, hoài vọng của mình vào là Thúy Kiều và Từ Hải: Nguyễn Du yêu mến họ như xương thịt mình, đem hết bút lực tài tình mà vẽ họ. Vẽ họ đẹp đến nỗi, phong phú và tổng hợp đến nỗi tất cả những nhân vật khác, ta đều có thể lấy tên mà đặt cho người trong đời thường: mụ ấy là Tú Bà, chàng kia là Kim Trọng, cô nọ là Thúy Vân…nhưng chẳng bao giờ ai có thể gọi ai trong đời thường : cô ấy là Thúy Kiều, hay chàng ấy là Từ Hải !” [6, tr. 130]. Bước tiến của Xuân Diệu chính là ở chỗ ông đã bắt đầu nhận thấy sự khác biệt trong bút pháp nghệ thuật mà Nguyễn Du dành cho việc miêu tả nhân vật chính diện (bút pháp lãng mạn kiêm hiện thực ) và nhân vật phản diện (bút pháp hiện thực). Trong cuốn Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Lê Đình Kỵ đã triển khai phân tích nhân vật theo lý luận điển hình hóa. Chương IV “Điển hình hóa theo hướng hiện thực chủ nghĩa”, ông đã nhận xét về “tính khách quan của sự thể hiện”, chỉ ra nét đặc trưng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở Truyện Kiều. Theo Lê Đình Kỵ, trong tác phẩm này, “không chỉ có hai loại nhân vật đại diện cho chính nghĩa và gian tà, đưa ra từ đầu, theo lối tiên nghiệm chủ nghĩa. Cũng là phản diện, mà Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh lập thành một tuyến nhân vật, song song với một tuyến nhân vật tiêu cực khác là Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến. Thúy Kiều là nhân vật chính diện, nhưng không cùng một tuyến với Kim Trọng và Từ Hải. Điều này không thấy có ở văn học đương thời” [22, tr. 309]. Tuy thiên về nghiên cứu tính cách, tâm lý nhân vật, nhưng Lê Đình Kỵ cũng bàn đến tính chân thực của chi tiết tả ngoại hình nhân vật Truyện Kiều “Nguyễn Du đã biết 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan