Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn phương thức ứng xử với chữ nôm và văn học nôm thời lý trần...

Tài liệu Luận văn phương thức ứng xử với chữ nôm và văn học nôm thời lý trần

.PDF
130
132
102

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TR TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- HOÀNG THỊ TUYẾT MAI PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ - TRẦN (Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC Hà Nội - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------- HOÀNG THỊ TUYẾT MAI PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ - TRẦN (Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60. 22. 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN NGỌC VƢƠNG Hà Nội – 2011 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành tại Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến PGS. TS Trần Ngọc Vương, người đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này bằng một tinh thần khoa học nhiệt thành và nghiêm túc. Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới các thày cô Khoa Văn học – trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi về mặt lý luận và phương pháp nghiên cứu trong suốt quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn. Và xin cảm ơn sự động viên chia sẻ của gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp trong suốt thời gian qua! Với trình độ và kiến văn có giới hạn, luận văn chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Tác giả luận văn mong muốn sẽ nhận được những nhận xét, góp ý của các thầy cô, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm về vấn đề được thực hiện trong luận văn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 06 năm 2011 Tác giả luận văn Hoàng Thị Tuyết Mai Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 CHƢƠNG MỘT LƢỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN 1.1. Chất nền của văn học thời Lý Trần ................................................................................... 16 1.2. Sự ra đời của chữ Nôm là một tất yếu lịch sử ................................................................... 18 1.3. Văn học chữ Nôm trong mối liên hệ với văn học chữ Hán .............................................. 22 CHƢƠNG HAI NHỮNG DẤU ẤN TIÊU BIỂU CỦA VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN (Qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng) 2.1 Các dữ liệu tiêu biểu về chữ Nôm và văn học Nôm trong chính sử. ................................ 33 2.2. Văn học Nôm đời Trần – nơi hội tụ cao nhất “phương thức ứng xử” với chữ Nôm ..... 58 2.3. Những hạn chế mang tính cách thời đại. ........................................................................... 79 2.4. Tiểu kết ................................................................................................................................. 81 CHƢƠNG 3 NGẢ ĐƢỜNG HOÀN THIỆN CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ TRẦN 3.1. Nôm hóa giáo lí Phật giáo qua hiện tƣợng Tuệ Tĩnh dịch Khóa hư lục .......................... 82 3.2. Nôm hóa giáo lí Nho giáo qua hiện tƣợng Hồ Quý Ly ..................................................... 85 3.3.…Và ngả đƣờng tất yếu phải đi .......................................................................................... 87 3.4. Tiểu kết. ................................................................................................................................ 92 PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................................99 PHỤ LỤC....................................................................................................................................108 MỘT SỐ QUI ƢỚC VỀ VIẾT TẮT VSL: Việt sử lược ĐVSKTT: Đại Việt sử kí toàn thư KĐVSTGCM: Khâm định Việt sử thông giám cương mục Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ - TRẦN (Khảo sát qua thƣ tịch lịch sử và sáng tác văn chƣơng) PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giai đoạn Lý – Trần1, giai đoạn khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt Nam, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất, giai đoạn rực rỡ trong lịch sử đất nước, đánh dấu những bước khởi đầu vô cùng quan trọng của một dân tộc mới dành được quyền tự chủ. Từ đây, người Việt Nam đã xây dựng được khối đại đoàn kết, lòng tự hào dân tộc, dần dần khẳng định vị trí của nhà nước Đại Việt. Văn học Lý – Trần là giai đoạn có ý nghĩa nền tảng đối với văn hiến dân tộc. Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt , rực rỡ và đe ̣p đẽ nhấ t trong lịch sử Việt Nam . Đây cũng là giai đoạn manh nha, hình thành chữ Nôm và bắt đầu có thành tựu văn học Nôm - Một thứ văn tự có ý nghĩa quan trọng đối với văn hiến dân tộc. Chữ Nôm trở thành một hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh vào khoảng giữa thế kỷ XIII. Ðiều chắc chắn là từ cuối thế kỷ XIII, chữ Nôm đã được dùng để ghi lại một số thi văn bằng tiếng Việt như sáng tác của Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Mạc Đĩnh Chi…. Nhưng vì chữ Nôm không được điển chế hóa nên chưa bao giờ nó được hệ thống hoá một cách chính xác. Do vậy, ngay cả một bậc túc nho như Phạm Ðình Hổ (1769-1839) cũng đã phải thú nhận trong bài "Tự thuật" mở đầu Vũ trung tuỳ bút: "Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết" [37, 9]. Ngoại trừ các cải cách ngắn ngủi của Hồ Quý Ly (1336-1407) và Nguyễn Huệ (1753-1792), chữ 1 Khái niệm giai đoạn Lý - Trần được chúng tôi sử dụng bao gồm 5 thế kỷ đầu tiên của nền độc lập tự chủ dưới thời Trung đại, bao gồm trong nó 6 triều đại: Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ. Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 1 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai Nôm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam chính thức công nhận. Mới xét đến, tình hình đó dường như là một nghịch lý, nhưng ta có thể cắt nghĩa nó bằng tầm quan trọng chiến lược của chữ Hán đối với trật tự phong kiến. Có một đòi hỏi khách quan rằng khi đất nước đã dần ổn định, việc dùng mãi một thứ ngôn ngữ vốn không ghi âm ngôn ngữ của đời sống là một điều ngày càng bộc lộ những hạn chế. Thời gian trôi đi, chữ Nôm dần dần có mặt trong đầy đủ những hoạt động thường ngày của người Việt. Từ những tập quán sinh hoạt cho tới những kinh nghiệm trong lao động để lại từ xa xưa đều được ghi chép lại bằng những văn bản chữ Nôm….Chữ Nôm ra đời có ý nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước phát triển của nền văn hoá dân tộc, ý thức tự cường và khẳng định vai trò địa vị của tiếng Việt. Lâu nay, trong giới nghiên cứu văn học Việt Nam tồn tại một nhận thức: các triều đại quan phương cho rằng Nôm Na là “cha mách qué”, văn học Nôm là thứ văn học của “bố cu mẹ đĩ”, ít được coi trọng và đánh giá cao. Thông thường có một tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hoặc ít được sử dụng trong môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là văn tự chính thức của quốc gia. Chúng tôi có thể liệt kê một số nhận định của một số nhà nghiên cứu về chữ Nôm và văn học Nôm như sau: “Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm đoán của vua chúa phong kiến cho nên chữ Nôm chưa bào giờ được đưa vào nhà trường. Chưa bao giờ được coi là công cụ văn hóa của nhà nước và do đó chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa hưởng một cố gắng điển chế nào” [8, 17]. “Văn học chữ Nôm thường bị giai cấp thống trị coi nhẹ” [10, 17] “Văn học chữ Nôm được coi là văn học cấp thấp, là “nôm na mách qué”, là vui chơi giải trí nên gần đời sống thực hơn, đời thường hơn [92, 15] Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 2 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai “Thời phong kiến, Văn học chữ Nôm bị coi là văn học cấp thấp, là quê mùa, dân dã, cũng có thể ngôn chí, tự thuật, nhưng chủ yếu là vui chơi, giải trí” [57, 85] “Do thái độ khinh rẻ, cấm đoán của vua chú phong kiến nên chữ Nôm chưa bao giờ được đưa vào nhà trường, chưa được điển chế hóa nên trong cấu tạo chữ Nôm mang nhiều dấu ấn của cá nhân tạo chữ….” [45, 128] “…..cho dù đã sáng tạo nên chữ Nôm, nhưng cho đến đầu thế kỉ XX này chữ Hán vẫn được coi là quốc tự dùng trong văn bản nhà nước và chữ Nôm chỉ là “nôm na mánh qué” chưa bao giờ được xem là văn tự quốc gia” [50, 175] Thái độ trọng Hán khinh Nôm đã từng bị nhà thơ Phạm Đình Toái, tác giả Đại Nam quốc sử diễn ca chỉ trích: "Uống nước quên nguồn, người xưa chê trách. Trái thầy mà học, người hiền vốn tránh. Nước ta ở thiên về phương Nam, tiếng nói khác với Trung Quốc. Những học sĩ nho sinh, tuy tập theo văn tự Trung Hoa, song hát vịnh nói năng đều chẳng lìa bỏ thanh âm của bản quốc. Lẽ nào lại có thể chỉ một điều cho chữ Hán là thanh cao mà lại chối bỏ tiếng ta, chê là thô bỉ” 2 Đào Duy Anh cho rằng “Đến như Việt ngữ thì các nhà nho thường khinh là “nôm na mách qué” nên chỉ khi nào làm văn chơi đùa tiêu khiển thì mới dùng đến, cho nên Việt văn không thịnh đạt cũng không lạ gì”.[3, 279] Nguyễn Tài Cẩn cũng có ý kiến: “Chính vì thái độ khinh rẻ, thái độ cấm đoán của vua chúa phong kiến cho nên chữ Nôm chưa bao giờ được đưa vào nhà trường, chưa bao giờ được coi là công cụ văn hóa của nhà nước, và do dó cũng chưa bao giờ được tiếp nhận, thừa hưởng một cố gắng điển chế nào” [35, 484] Khi đề cập đến thái độ ứng xử của các triều đại Lý Trần với chữ Nôm Nguyễn Danh Phiệt cho rằng: “Dù sao, chúng ta cũng đứng trước một sự thật 2 Trích Quốc âm từ điệu, Phạm Đình Toái Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 3 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai lịch sử: Trong khi chọn lọc đi đến chỗ chấp nhận nội dung giáo dục Nho giáo, các vua Lý Trần đã loại trừ chữ Nôm, một di sản văn hóa của dân tộc được hình thành do sự đóng góp của nhiều thế hệ” [35, 459] Chữ Nôm chưa bao giờ được nhà nước phong kiến điển chế hóa, đó là sự thực. Có một sự thực nữa là chữ Nôm vẫn tồn tại bên cạnh chữ Hán, bổ khuyết cho những mảng đời sống mà chữ Hán và văn học chữ Hán không quan tâm hoặc không cho là quan trọng. Chữ Nôm có vai trò quan trọng trong hình thành, phát triển và bảo lưu văn hoá; đồng thời thúc đẩy quá trình thuần thục văn hoá trong biến chuyển kinh tế từng giai kì và diễn dịch văn học Việt Nam. Vậy, các triều đại quan phương trong thời kì đầu độc lập nhận thức như thế nào về vai trò của chữ Nôm. Họ có coi thường thứ “tục tự” này hay không? Thái độ ứng xử của các triều đại với văn học Nôm như thế nào? Họ có “loại trừ” chữ Nôm hay không? Tâm lý coi nhẹ thứ văn tự không hoặc ít được sử dụng trong môi trường hành chính sự nghiệp, chưa được xác nhận là văn tự chính thức của quốc gia có phải là sự thực? Trên thực tế có loại văn bản chính thống nào của nhà nước chuyên chế khẳng định tính chất “thấp kém”, “nhảm nhí” của chữ Nôm và văn học Nôm3? Đó là câu hỏi trăn trở đối với chúng tôi và truy tìm căn nguyên trả cho câu hỏi ấy là một trong những lí do cho sự tồn tại của luận văn này. Với hi vọng bước đầu khảo sát toàn bộ các cứ liệu lịch sử liên quan và văn chương giai 3 Dường như đã có sự hiểu lầm một cách rộng rãi tinh thần các huấn điều của chúa Trịnh đối với việc in ấn và lưu hành các “thi tập”, “ca khúc” chữ Nôm, những lời lẽ bị suy diễn khái quát hóa thành sự phủ định hay chí ít là coi thường chữ Nôm và văn chương Nôm nói chung. Những huấn điều như: Cũng là truyện cũ nôm na Hết thơ tập ấy lại ca khúc này Tiếng dâm dễ tiếng người say, Chớ cho in bán, hại ngay thói thuần Thực ra các huấn điều này bài xích một số phương diện nội dung của những “thi tập”, “ca khúc” hơn là coi thường, phủ định văn tự chữ Nôm và văn học sáng tác bằng chữ Nôm. Cùng với việc ban hành 47 điều giáo hóa, Trịnh Tạc cho sưu tầm nhiều sách Nôm “có hại cho giáo hóa” đem đốt đi. Vấn đề là Trịnh Tạc chỉ sai đốt những sách Nôm có hại chứ không phải tất cả các sách Nôm nói chung. Thái độ coi thường ở đây là coi thường phương diện dâm tục của một số sách (chứ không phải toàn bộ những sáng tác bằng chữ Nôm). Như thế chúa Trịnh có thực sự coi thường văn tự chữ Nôm không? Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này và khảo sát một cách kĩ lưỡng vào dịp khác. Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 4 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai đoạn Lý – Trần (tính đến đời Hồ, còn từ giai đoạn Lê sơ về sau chúng tôi sẽ khảo sát ở một công trình khác, dài hơi hơn), chúng tôi mong muốn có những dữ liệu toàn diện và đầy đủ về giai đoạn đầu của lịch sử hình thành, phát triển chữ Nôm và văn học Nôm nhằm cung cấp một cái nhìn khách quan về một mảng văn tự và văn học dân tộc. Từ đó có cơ sở cụ thể cho những kết luận ban đầu về qui luật hình thành, vận động và phát triển của văn hóa, văn học dân tộc trong những thế kỉ đầu độc lập. Trên cơ sở những khảo sát ban đầu chúng tôi tiếp tục hình dung công việc cho chặng tiếp theo, dài hơi và quan trọng hơn sau này. Thêm nữa, chúng tôi đồng ý với nhận thức rằng: việc nghiên cứu chữ Nôm với tư cách là hiện tượng khởi đầu của truyền thống văn hiến Việt Nam tuy đã và đang được chú ý song vẫn là công việc lâu dài, chúng tôi chỉ mong đóng góp chút sức lực bé nhỏ của mình để tiếp sức cho chặng đường chung gian nan ấy. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Chữ Nôm và văn học chữ Nôm là một hiện tượng nổi bật trong lịch sử phát triển của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Đi sâu nghiên cứu về chữ Nôm và văn học chữ Nôm là công việc quan trọng đã và đang đặt ra đối với các học giả trong nước và cả ngoài nước, xuất phát từ những nhu cầu của thực tiễn đời sống xã hội nước ta cũng như từ những nhu cầu của nhận thức khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do nhận thức được vị thế của chữ Nôm đối với văn hiến dân tộc nên việc nghiên cứu chữ Nôm có lịch sử tương đối sớm4. Ngay từ thời phong kiến đã có một số ý kiến xung quanh các cuốn tự điển, sách giáo khoa, trực tiếp hay gián tiếp bàn về nguồn gốc, cách cấu tạo, cách viết ….của chữ Nôm. Đến thời thuộc Pháp, tình hình nghiên cứu chữ 4 Cũng cần nhấn mạnh rằng: Lịch sử nghiên cứu chữ Nôm khác với lịch sử nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng…..của chữ Nôm và văn học Nôm. Về mảng này, các nhà nghiên cứu đã quan tâm nhưng chưa có nhiều công trình đi sâu. Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 5 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai Nôm đã được chú ý hơn. Có nhiều học giả và nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về chữ Nôm của Việt Nam, trong đó có không ít tác giả đã để lại những ấn tượng sâu sắc như: J. L. Taberd, H. Maspéro, Hoàng Xuân Hãn, Pual Schneider, Văn Hựu, Vương Lực, Yonosuke Takeuchi, Kawamoto Kuniye, v.v… Xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu sưu tầm thư tịch cổ, năm 1970 Ban Hán Nôm thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam được thành lập, quy tụ nhiều nhà hoạt động cách mạng lão thành, kiến thức Hán Nôm uyên bác để nghiên cứu di sản của cha ông một cách hệ thống. Năm 1979, Viện Nghiên cứu Hán Nôm chính thức được thành lập trên cơ sở Ban Hán Nôm đã góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu chữ Nôm và văn học Nôm của dân tộc và tổng hợp những kết quả nghiên cứu trước đó thành hệ thống. Căn cứ vào kết quả tổng hợp của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chúng tôi hệ thống lại lịch sử nghiên cứu chữ Nôm như sau: Về sự ra đời của chữ Nôm có nhiều học giả trong và ngoài nước đã đi sâu tìm hiểu về sự ra đời của chữ Nôm và có nhiều ý kiến khác nhau. Trịnh Khắc Mạnh đã tổng kết lại các ý kiến đó như sau: “Lê Dư và Nguyễn Đổng Chi đã căn cứ vào ý “Sĩ Vương bắt đầu lấy chữ Hán để dịch ra tiếng ta” của Nguyễn Văn San trong Đại Nam quốc ngữ, để đưa ra nhận định cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II). Nguyễn Văn Tố thì dựa vào chữ “Bố Cái” mà nhân dân suy tôn Phùng Hưng là “Bố Cái đại vương” để cho rằng chữ Nôm có từ cuối thế kỷ thứ VIII. Học giả Trần Văn Giáp đã căn cứ vào chữ “Cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, để cho rằng chữ Nôm có từ thời nhà Đinh. Trần Huy Bá dựa vào chữ “Ông Hà” khắc trên quả chuông Vân Bản tự chung minh tìm được ở Đồ Sơn có niên đại năm 1076, để cho rằng chữ Nôm có từ thời nhà Lý. Hai nhà nghiên cứu là GS. Nguyễn Tài Cẩn và GS. Lê Văn Quán đã căn cứ vào mặt thanh mẫu, vận mẫu để chứng minh chữ Nôm không thể có từ thời Sĩ Nhiếp mà xuất hiện sau thời Đường Tống” [45]. Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 6 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai GS. Đào Duy Anh cho rằng: “do yêu cầu mới của xã hội từ sau cuộc giải phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh, Lê và đầu Lý, chữ Nôm đã xuất hiện” [1, 81]. Cũng theo Trịnh Khắc Mạnh, bắt đầu từ thời nhà Lý, chúng ta thấy trong các văn bia hiện còn lưu giữ được, xuất hiện những chữ Nôm ghi tên đất và tên người, như: Phụng Thánh phu nhân Lê thị mộ chí (niên đại 1173) có các chữ:: “Bà Cảm, đầu đình, cửa ngõ, bến sông”; Chúc Thánh Báo Ân tự bi (niên đại 1185-1214) có các chữ: “Bà Đỗ, đồng Mộc”; Báo Ân thiền tự bi ký (niên đại 1210) có các chữ” “đồng Hấp, đồng Chài, đồng Nhe”. Những chữ Nôm khắc trên các văn bia thời Lý là sản phẩm của giai đoạn đầu trong quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm trong các văn bản và làm tiền đề tạo nên văn học chữ Nôm ở Việt Nam sau này. Về nghiên cứu chữ Nôm có: Chữ Nôm với chữ Quốc ngữ (Lê Dư), Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến (Đào Duy Anh), Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm (Trần Văn Giáp), Một số vấn đề về chữ Nôm (Nguyễn Tài Cẩn), Nghiên cứu về chữ Nôm (Lê Văn Quán), Nghiên cứu chữ Nôm Tày (Hoàng Triều Ân và Cung Văn Lược), Các phương thức biểu âm trong cấu trúc chữ Nôm Việt (Nguyễn Tá Nhí), Cấu trúc nghĩa trong chữ Nôm Việt (Lã Minh Hằng), Mối tương quan giữa âm Hán Việt và âm Nôm trong cách đọc chữ Nôm (Trương Đức Quả), Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (Hoàng Thị Ngọ), Chữ Nôm và tiếng Việt qua văn bản Thiên Nam ngữ lục (Nguyễn Thị Lâm), Truyền kì mạn lục Nghiên cứu văn bản và vấn đề dịch Nôm (Hoàng Hồng Cẩm), Nghiên cứu chữ Nôm (Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam; Hội bảo tồn di sản chữ Nôm Hoa Kì) v.v...Về phần nghiên cứu chữ Nôm, đặc biệt đóng vai trò quan trọng là nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Hồng. Có thể khẳng định Khái luận văn tự học chữ Nôm là một chuyên luận nghiên cứu nhiều mặt về chữ Nôm, tác giả Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 7 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai đã xây dựng một hệ thống thuật ngữ cùng hệ thống phương pháp tiếp cận đối tượng, tạo thành một bộ khung lý thuyết, gợi mở cho sự phát triển của bộ môn văn tự học ở nước ta. Cuốn sách chứa đựng một khối lượng tư liệu, dẫn liệu phong phú, được lựa chọn công phu, có giá trị tiêu biểu. Đặc biệt, tác giả đã dùng nhiều bảng biểu, nhiều hình ảnh minh họa, giúp cho bạn đọc phổ thông có thể nhìn thấy tận mắt những tư liệu vốn không dễ tìm. Với Khái luận văn tự học chữ Nôm tác giả đã nghiên cứu tỉ mỉ sự diễn biến của chữ Nôm trên cấp độ “đơn vị văn tự” và cả trên cấp độ “hệ thống văn tự”, dựa trên những cứ liệu khảo sát các văn bản tiêu biểu qua nhiều thời kỳ, tác giả Nguyễn Quang Hồng đi đến xác định những đặc điểm chính của chữ Nôm Việt theo cách nhìn lịch đại cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khá toàn diện và thuyết phục Về việc phiên âm các văn bản Nôm, có: Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan Trần, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Lục súc tranh công, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Lâm tuyền kỳ ngộ, Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi, Chỉ nam ngọc âm, Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Tân biên Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Ngọc Kiều Lê, Thơ ca trù, Thiên Nam minh giám, Thiên Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, Đại Nam quốc sử diễn ca, Lục Vân Tiên, thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thơ Nôm Nguyễn Khuyến và nhiều tác gia khác v.v... Về biên soạn những bộ sách công cụ, nhằm góp phần tạo nên những phương tiện tra cứu khi tiếp cận di sản chữ Nôm, có thể kể như: Bảng tra chữ Nôm (Viện Ngôn ngữ học), Đại từ điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính), Từ điển chữ Nôm Tày (Hoàng Triều Ân chủ biên), Từ điển chữ Nôm Việt (Nguyễn Quang Hồng chủ biên), Từ ngữ văn Nôm (Nguyễn Thạch Giang) v.v.. Về nghiên cứu khai thác và biên dịch những bộ tùng thư theo chuyên đề, nhằm xã hội hóa ngày càng nhiều các tư liệu Nôm, giúp cho các thế hệ Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 8 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai người Việt Nam hôm nay hiểu được giá trị đích thực của văn hóa truyền thống trong lịch sử, có thể kể như: Thư mục sách Nôm, Thơ Nôm Hàn luật, Văn Nôm biền ngẫu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang triển khai xuất bản bộ Tổng tập văn học chữ Nôm - một sưu tập văn học chữ Nôm đầy đủ lần đầu tiên được giới thiệu rộng rãi v.v... Đặc biệt, để bảo tồn và phát huy chữ Nôm, dưới sự chủ trì của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các chuyên gia nghiên cứu Hán Nôm cùng các chuyên gia tin học trong và ngoài nước đã xây dựng bảng mã chữ Nôm và đưa chữ Nôm vào bảng mã chuẩn quốc tế IRG/ISO, tổng số chữ Nôm đã đưa vào kho chữ chung quốc tế là 9.299 chữ, trong đó số chữ Nôm không trùng hình với chữ của các nước trong khu vực khoảng 4.200 chữ. Hiện nay, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang tiếp tục sưu tầm và vẽ chữ Nôm để đưa vào bảng mã chuẩn quốc tế (gồm chữ Nôm Kinh và chữ Nôm Tày), kế hoạch sẽ đưa thêm khoảng hơn 2.000 chữ mới. Khi chữ Nôm được khẳng định trong bảng mã chuẩn quốc tế, như vậy chủ quyền đã được khẳng định, điều này rất có ý nghĩa về quốc tế, cũng như phát huy giá trị khoa học của chữ Nôm trong quá trình giao lưu và hội nhập văn hóa Việt Nam. Mặc dù vậy các công trình đó đều tập trung vào một số vấn đề của chữ Nôm: Sự hình thành, nguồn gốc, cách cấu tạo, diễn biến, cách lưu giữ và bảo tồn… của chữ Nôm qua các thời kì lịch sử nhưng chưa có công trình nào bàn nghiêm túc về thái độ của các triều đại đối với chữ Nôm và văn học Nôm. Trước đây, trong bài viết Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại thư tịch của Lê Quí Đôn và Phan Huy Chú nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn có viết: “ Quan niệm phong kiến chính thống chưa bao giờ bài xích chữ Nôm Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 9 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai với tính cách là một thứ văn tự, mặc dù không phải triều đại phong kiến nào cũng có thái độ như nhau về chữ Nôm”5 Và “vậy rõ ràng là thời xưa, không có cái nhìn hạ thấp, khinh miệt chữ Nôm nói chung. Chúng ta chú ý một điều: mặc cảm tự ti chỉ có ở các tác giả viết truyện Nôm – một thứ tiểu thuyết bằng thơ – chứ không phải của tất cả những ai viết thơ văn Nôm.”[93, 18]. Trong một bài viết của mình nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương đã khẳng định một cách cụ thể và chi tiết hơn:“Ta vẫn quen có định kiến là các triều đại vua chúa trước kia coi thường văn học Nôm nên không tạo điều kiện cho bộ phận đó phát triển. Thực ra thì rất nhiều vị vua chúa chuộng Nôm thành chính sách và đã thực sự sáng tác bằng chữ Nôm, từ Lê Thánh Tông qua Trịnh Sâm tới Tự Ðức và thành tựu sáng tác bằng chữ Nôm ở họ không phải không đáng kể. Cũng không phải trong các tác giả văn học ai “đi với nhân dân” thì mới ưu ái văn Nôm – Cao Bá Quát là một tác giả lớn, là lãnh tụ của một cuộc khởi nghĩa nông dân nhưng sáng tác chủ yếu là bằng chữ Hán, Nguyễn Công Trứ lại để lại “rặt” văn thơ Nôm chỉ có một bài thơ chữ Hán mà thôi. Cả hai đều có những đóng góp quan trọng không thể chối cãi trong lịch sử văn học. Việc Cao Bá Quát nói mình không dám dùng quốc ngữ làm văn chương là điều đáng cắt nghĩa. Thực tế nghiên cứu hơn nửa thế kỷ qua gây cho chúng tôi một ấn tượng rằng trừ những giai đoạn có quá ít tác phẩm văn học Nôm thì giới nghiên cứu buộc phải xử lý bộ phận văn học chữ Hán là chính, còn từ lúc văn học Nôm đã phát triển thì bộ phận văn học chữ Hán dễ bị lờ đi hay xếp xuống hàng thứ yếu. Chúng tôi không dám chắc, nhưng nếu ấn tượng ấy đúng, nghĩa là giới nghiên cứu cần phải sớm điều chỉnh, bởi trong thực tế là nhiều tác giả quan trọng trước tác chủ yếu bằng chữ Hán cho đến đầu thế kỷ XX, trong đó có Nguyễn Thượng Hiền và Phan Bội Châu. 5 Tạp chí văn học, số 4, 1981, trang 18 Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 10 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai Trong sự tiếp nhận đại chúng, nói đến Nguyễn Du trước hết và chủ yếu là nói tới Truyện Kiều, nhưng đối với một bộ phận nào đó, trong đó có chúng tôi, khó lòng nói là thơ chữ Hán của ông kém hay với Truyện Kiều bất hủ”. [97] Và “Thi tập bằng chữ Nôm ở những nhà cầm quyền tối cao là chuyện không hiếm. Dẫu bị chi phối bởi nhiều lí do khác nhau, chữ Nôm chưa trở thành ngôn ngữ “mang tính nhà nước”, nhưng lời khẳng định rằng giai cáp thống trị Việt Nam thời trung đại coi thường chữ Nôm xem ra chỉ là một thiên kiến” [65, 39] Những ý kiến trên là cái nhìn nghiêm túc thận trọng trước một vấn đề quan trọng của văn học và văn hiến dân tộc. Tuy nhiên cả hai tác giả vẫn chưa đi sâu khảo sát kĩ một cách hệ thống với những cứ liệu cụ thể. Tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn và Trần Ngọc Vương, chúng tôi chọn đề tài : Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý Trần với hi vọng sẽ khảo sát lại các dữ kiện liên quan đến chữ Nôm và văn học Nôm trong chính sử và trong các tài liệu văn học. Mô tả diễn trình Nôm hóa trên phương diện ngôn ngữ và văn học dân tộc. Nhiệm vụ quan trọng nhất là khảo sát những ý kiến mang tính chất “lập trường quan điểm” từ đó nêu lên những mục đích, yêu cầu mới nhằm cung cấp cái nhìn tổng thể về vấn đề thái độ ứng xử với văn học Nôm của các triều đại quan phương thời kì đầu độc lập. Chúng tôi cũng khoanh vùng dữ kiện liên quan đến luận văn là sáu triều đại độc lập từ triều Đinh – Lê – Lí – Trần – Hồ với hi vọng khảo kĩ lưỡng những dữ kiện liên quan để tạo cơ sở cho những kết luận quan trọng bước đầu, có ý nghĩa như những phần nền tảng của một vấn đề khá nghiêm túc mà giới nghiên cứu lâu nay chưa quan tâm thỏa đáng. Vả lại, những dữ kiện ở giai đoạn này dẫu ít nhưng không quá nghèo nàn so với cái nhìn bề rộng bao hàm cả ngôn ngữ và văn học. Chúng tôi khẳng định luận văn này đề Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 11 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai cập đến một vấn đề hoàn toàn mới mẻ, không trùng lặp với bất cứ đề tài nào trong phạm vi và qui mô tương tự. Hơn nữa, trên cơ sở khảo lại toàn bộ dữ liệu về chữ Nôm và văn học chữ Nôm ở giai đoạn mới hình thành và bước đầu có những thành tựu luận văn sẽ góp phần định hướng một cách tiếp cận mang tính hệ thống và là tiền đề quan trọng cho những bước tiếp theo. Chúng tôi coi luận văn là một bước của một quá trình dài hơi trong việc nghiên cứu một vấn đề thú vị của văn học sử trung đại Việt Nam. Chính vì vậy, chúng tôi rất mong sẽ nhận được sự chia sẻ và góp ý của tất cả những người quan tâm đến mảng văn học Nôm của nước nhà. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng của luận văn là toàn bộ phần dữ liệu xung quanh vấn đề chữ Nôm, văn học Nôm sáu triều đại độc lập đầu tiên của lịch sử dân tộc bao gồm các tài liệu chính sử, các tài liệu hành chính quan phương, các tài liệu chữ Nôm và văn học Nôm. Nghiên cứu phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm của các triều đại hành chính quan phương là một công việc đòi hỏi sự phong phú của phạm vi tư liệu bởi vì các tài liệu chính sử hầu như ghi chép lại các sự kiện liên quan đến chữ Nôm và văn học Nôm rất vắn tắt. Trong chừng mực có thể, chúng tôi cố gắng tập dụng mọi nguồn dữ liệu với hi vọng cung cấp một cái nhìn mang tính tổng thể và khách quan. Mặc dù đối tượng khá rộng và phạm vi bao quát dàn trải song khi thực hiện chúng tôi sẽ lựa chọn những cứ liệu tiêu biểu và ưu tiên cho các dữ liệu văn học hơn những dữ liệu lịch sử. Dẫu biết rằng giai đọan đầu tiên của nền văn học viết này hiện tượng “văn sử triết” bất phân đòi hỏi phải nhìn nhận vấn đề trong tính tổng thể của nó. Hơn nữa, khi bắt tay khảo sát lại các dữ liệu trong văn và sử chúng tôi sẽ tham khảo những khảo sát (nếu có) của các tác giả trước đó kết hợp với những đối Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 12 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai chiếu và tổng hợp của mình để có thể nhìn nhận đối tượng một cách khách quan và công bằng nhất. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn nhằm khảo luận những dữ kiện liên quan đến chữ Nôm và văn học Nôm một cách có hệ thống, từ đó có cái nhìn khách quan về thái độ của các chính thể hành chính quan phương với chữ Nôm và văn học Nôm trong giai đoạn đầu tiên khi nó mới manh nha hình thành và bước đầu có thành tựu, giai đoạn thời Lý – Trần. Cũng qua luận văn chúng tôi muốn nhìn nhận lại vấn đề ứng xử với văn học Nôm của các triều đại chính thống quan phương. Ứng xử ở đây không chỉ là chuyện đánh giá, coi nhẹ hay coi nặng mà là vấn đề định hướng nhằm tìm cơ sở cho sự tồn tại của những kết luận thận trọng và nghiêm túc hơn (so với nhận định đang tồn tại mặc nhiêu: Các triều đại coi thường văn học Nôm). Chúng tôi hi vọng trình bày được những tiêu chí đặc định để hình thành nên gen (nội gen) bên trong của nó: quốc gia dân tộc hóa văn học Việt Nam là một nhu cầu mang tính lịch sử và không phải triều đại quan phương nào cũng có phản ứng đi ngược với tất yếu lịch sử ấy. Tính qui luật của sự phát sinh, phát triển trong thời kì cổ trung đại gắn với tiêu chí quốc gia dân tộc ở các khu vực khác nhau lại khác nhau. Văn học Nôm ở Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên nguyên cớ của nó. Nguyên cớ ấy khác với sự ra đời và tồn tại của ngôn ngữ và văn học các nước Phương Tây khác, hoặc các nước Phương Đông hay Đông Á khác. Nghĩa là, tìm ra qui luật riêng của văn học Việt Nam trên dòng chảy chung của các trong khu vực văn minh phương Đông mà Trung Quốc là cái nôi kiến tạo. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 13 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai Nghiên cứu văn học luôn phải đặt văn học trong mối quan hệ của các ngành Khoa học xã hội khác: sử học, triết học, chính trị, tôn giáo…Hơn nữa, nghiên cứu văn học cổ - một phần văn học ra đời khi chưa có sự phân định rạch ròi giữa các hình thái ý thức xã hội càng phải đặt nó trong tổng thể nguyên vẹn. Cho nên, bắt đầu bằng việc nghiên cứu văn học từ hướng tiếp cận liên ngành (tư tưởng triết học, văn hóa, văn học, lịch sử, tôn giáo, dân tộc, v.v…) là hướng đi của chúng tôi. Chúng tôi mong muốn rằng cũng với những cứ liệu xác thực của lịch sử, luận văn sẽ thực hiện được nhiệm vụ khó khăn và thiết thực của mình. Luận văn sẽ trình bày một cách khái quát nhất diện mạo cũng như những vấn đề tiêu biểu của sự xuất hiện chữ Nôm và văn học Nôm trong giai đoạn đầu tiên khi đất nước tự chủ. Chúng tôi cho rằng, đây là thao tác cần có để giúp có cái nhìn bao quát về một thời kì manh nha và kết tinh mang tính cơ sở nền tảng cho những chuyển mình của ý thức dân tộc. Trên cơ sở đó, luận văn làm rõ thêm phương thức ứng xử của các triều đại chính thể với sự manh nha của ý thức dân tộc biểu hiện ở khía cạnh ngôn ngữ này. Đương nhiên, luận văn sẽ tập trung nhiều nhất vào những cứ liệu có tính chất văn học. Từ đó chúng tôi hi vọng rút ra được những kết luận ban đầu liên quan đến vấn đề mà luận văn đề cập. Vì là một công trình thuộc chuyên ngành lịch sử văn học dân tộc nên những khảo sát của chúng tôi cũng ưu tiên hơn cho việc làm sáng tỏ thực trạng của văn học Nôm trong tiến trình lịch sử văn học. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Chúng tôi sử dụng một số phương pháp có tính chất tổng hợp Phương pháp hệ thống hóa: Chúng tôi tiến hành khảo sát lại lịch sử và thống kê các cứ liệu tiêu biểu liên quan đến vấn đề mà luận văn quan tâm, trong đó chủ yếu là chữ Nôm và văn học Nôm Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 14 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai Phương pháp nghiên cứu lịch đại: Chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu trong cái nhìn lịch sử. Từ lịch sử đưa ra những vấn đề để luận giải, tìm ra nguồn gốc, căn nguyên của các hiện tượng, vấn đề. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Trên cơ sở phân tích các dữ kiện lịch sử, các sự kiện văn hóa văn học, các tác giả và tác phẩm … chúng tôi tổng hợp các vấn đề từ đó khái quát và đưa ra những kết luận Phương pháp loại hình học được sử dụng xuyên suốt như một phương pháp cơ bản, có ý nghĩa như phương pháp quan trọng nhất, định hướng toàn bộ luận văn Trong toàn bộ luận văn, các phương pháp này đươc sử dụng đồng thời, kết hợp thường xuyên để tìm ra các điểm nhìn toàn diện và đảm bảo được tính chính xác cho các nhận định đưa ra 6. Kết cấu của luận văn Phần mở đầu Chương 1: Lược thuật quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý – Trần Chương 2: Những dấu ấn tiêu biểu của văn học Nôm thời Lý – Trần (Qua thư tịch lịch sử và sáng tác văn chương) Chương 3 : Ngả đường hoàn thiện chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý – Trần Phần kết luận Thư mục tài liệu tham khảo Phụ lục Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 15 Luận văn Thạc sĩ Hoàng Thị Tuyết Mai PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 LƢỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỮ NÔM VÀ VĂN HỌC NÔM THỜI LÝ – TRẦN 1.1. Chất nền của văn học thời Lý – Trần Như đa số nền văn học khác trên thế giới văn học Việt Nam không có may mắn ra đời trên chính cái nôi văn hóa vùng mà đóng vai trò như là nền văn học thứ sinh. Ra đời muộn trên cái nền vững chãi và rực rỡ của văn hóa văn học Trung Quốc, văn học Việt Nam vừa kế thừa những gì có sẵn vừa trăn trở kiếm tìm phương thức tồn tại riêng trong tâm thế mong manh của nền độc lập mới xác lập và sức nặng nghìn năm văn hóa phương Bắc đè nặng trên vai. Việc một nền văn học đóng vai trò kiến tạo vùng cung cấp ngôn ngữ văn học và hệ thống thể loại cho các nền văn học được tích hợp từ lâu đã là một thực tế được giới nghiên cứu văn học trên toàn thế giới đi sâu tìm hiểu [97]. Văn học Việt Nam cũng nằm trong qui luật ấy. Dù giành được độc lập vào năm 938 sau hơn 11 thế kỷ bị Trung Quốc đô hộ, nhưng Việt Nam chẳng bao giờ thoát khỏi sự chi phối của ngôn ngữ cũng như chữ viết của người Hán: chúng vẫn tiếp tục chiếm vị trí chính thức trong gần một nghìn năm. Chỉ có thể giải thích bằng sức hấp dẫn chính đáng và tất yếu của nền văn hóa, văn học kiến tạo vùng quá lớn khiến người Việt không dễ dàng phủ nhận và khó lòng bứt phá. Vả chăng thừa hưởng những thành tựu văn hóa của nền văn minh Trung Quốc trong bối cảnh lịch sử ấy là một lựa chọn khôn ngoan và là tất yếu khách quan, dẫu không muốn thừa nhận cũng khó lòng phủ định. GS Chu Hữu Quang6– nhà văn tự học lão thành của Trung Quốc cho rằng: Văn hóa 6 Gs Chu Hữu Quang là Ủy viên Ban Công tác ngôn ngữ văn tự Quốc gia Trung Quốc. Ông sinh năm1906 tại tỉnh Giang Tô. Ông là nhà văn tự học hiện đại hàng đầu Trung Quốc, với những đóng góp nổi trội ở các lĩnh vực: Hán tự học, cải cách văn tự Hán, văn tự học đại cương, lịch sử văn tự thế giới, quy luật phát triển văn tự thế giới, văn tự học so sánh Phương thức ứng xử với chữ Nôm và văn học Nôm thời Lý - Trần 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan