Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn những cảm hứng chính trong thơ thanh thảo...

Tài liệu Luận văn những cảm hứng chính trong thơ thanh thảo

.PDF
91
70
103

Mô tả:

z ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN __________ HOÀNG THỊ THẢO NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ THANH THẢO Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Văn Lân HÀ NỘI – 2013 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................5 1 Lí do chọn đề tài ..................................................................................5 2 Lịch sử vấn đề ......................................................................................6 3 Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .....................................................11 3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................11 3.2 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................11 4 Phương pháp nghiên cứu ...................................................................11 5 Cấu trúc luận văn ...............................................................................12 NỘI DUNG ...........................................................................................13 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THANH THẢO .....................13 1.1 Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay ..................................13 1.1.1 Thơ Việt Nam thời hậu chiến 1975 – 1985 .................................13 1.1.1.1 Những chuyển biến của thơ từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ sang thời kỳ hậu chiến ..........................................................................13 1.1.1.2 Những cảm hứng chính trong thơ thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985 ......................................................................................................15 1.1.2 Thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) ..........................18 1.1.2.1 Những đổi mới trên phương diện nội dung ..............................19 1.1.2.2 Những đổi mới trên phương diện nghệ thuật ...........................21 1.2 Hành trình sáng tác của Thanh Thảo ..............................................23 2 1.3 Quan niệm về nghệ thuật của Thanh Thảo .....................................26 Chương 2: SỰ BIỂU HIỆN NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ THANH THẢO ...........................................................................32 2.1 Khái niệm cảm hứng ......................................................................32 2.2 Cảm hứng sử thi..............................................................................33 2.2.1 Khái quát hiện thực khốc liệt của chiến tranh .............................33 2.2.2 Xây dựng hình tượng sử thi điển hình.........................................36 2.3 Cảm hứng thế sự .............................................................................44 2.3.1 Chiến tranh và người lính ............................................................45 2.3.2 Bức tranh hiện thực cuộc sống ....................................................55 2.3 Cảm hứng đời tư .............................................................................59 2.3.1 Cuộc hành trình tìm về kí ức .......................................................60 2.3.2 Khát vọng tình yêu hạnh phúc.....................................................64 Chương 3 : Nghệ thuật thể hiện những cảm hứng trong thơ Thanh Thảo ......................................................................................................67 3.1 Thể thơ ............................................................................................67 3.1.1 Thơ tự do .....................................................................................67 3.1.2 Thơ văn xuôi ................................................................................69 3.2 Biểu tượng thơ ................................................................................70 3.2.1 Biểu tượng cỏ ..............................................................................71 3.2.2 Biểu tượng ngọn lửa ....................................................................74 3.3 Ngôn ngữ ........................................................................................78 3 3.3.1 Ngôn ngữ đậm chất đời thường ...................................................79 3.3.2 Ngôn ngữ thơ nhiều khoảng trống...............................................81 KẾT LUẬN ..........................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................88 4 MỞ ĐẦU 1 Lí do chọn đề tài Thanh Thảo là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ trẻ vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi trước ông và bên cạnh ông là rất nhiều nhà thơ đã thành danh, đã khẳng định tên tuổi mình bằng những tác phẩm bất hủ về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Nhưng Thanh Thảo đã tạo được một tiếng thơ mới mẻ cho nền thơ ca dân tộc bằng một loạt các tác phẩm thơ và trường ca có giọng điệu rất riêng. Ngay từ những sáng tác đầu tay cho đến những bài thơ được ông viết ở độ tuổi ngoài 60 đều toát lên một hồn thơ đầy sức sống, một hồn thơ Thanh Thảo ham cách tân và dám cách tân cho nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ ca cách mạng nói chung và thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói riêng đều mang đậm cảm hứng sử thi, thơ ngợi ca con người đại diện cho phẩm chất, trí tuệ cộng đồng với lòng dũng cảm, xả thân vì sự nghiệp cách mạng hơn là nói về con người cá nhân hay con người nhỏ bé trong xã hội. Thơ ít nói đến mặt trái, đau thương mà thường cổ vũ, thường tuyệt đối hoá cái đẹp, cái cao cả thuộc về người anh hùng. Vượt ra khỏi khuynh hướng chung đó, thơ Thanh Thảo nặng về kí ức, kí ức về một thuở “mang gươm đi mở nước”, kí ức về những ngày đầu kháng chiến chống Pháp của những nghĩa binh áo vải cho đến sau này là những chiêm nghiệm, những kí ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy hào hùng – nơi nuôi dưỡng hồn thơ Thanh Thảo. Bên cạnh đó, thơ Thanh Thảo đã mang lại muôn mặt đời thường, ở đó hội tụ cả cái đẹp, cái ác, cái cao thượng, thấp hèn, niềm vui chiến thắng cùng với nỗi đau của sự mất mát của hi sinh… Nhà thơ quan niệm thơ bao giờ cũng là chuyện rút gan rút ruột mình ra nên không chỉ có 5 thơ viết về chiến tranh mà cả những bài thơ về thể tài cuộc sống đời thường của ông cũng luôn chất chứa nhiều ưu tư về thế sự, những day dở về cuộc sống của một nhà thơ giàu tình yêu thương với cuộc đời này. Thơ Thanh Thảo dù viết với cảm hứng sử thi hay cảm hứng đời tư thế sự thì vẫn luôn hấp dẫn người đọc. Đóng góp của Thanh Thảo cho nền văn học dân tộc là không nhỏ. Nghiên cứu về thơ Thanh Thảo cũng chính là một lần nữa khẳng định vị trí của nhà thơ trong làng thơ ca Việt Nam. Vì vậy, trong luận văn này chúng tôi chọn đề tài Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo để nghiên cứu. 2 Lịch sử vấn đề Sau năm 1975, khi cuộc chiến vệ quốc đã kết thúc, những bộn bề của thời chiến được xếp lại người ta mới thực sự có thời gian và hoàn toàn chủ tâm vào công việc nghiên cứu. Khi nghiên cứu về thơ và trường ca sau năm 1975, hầu hết các nhà nghiên cứu không thể thoát ra khỏi sự ám ảnh của thơ (bao gồm cả trường ca) của Thanh Thảo. Những bài viết về thơ và Trường ca sau 1975 đều nhắc đến ông với tư cách là một trong những nhà thơ tiêu biểu và là người mở đầu cho sự xuất hiện rầm rộ của trường ca sau 1975. Dành nhiều tâm huyết nhất, đồng thời cũng là người có nhiều phát hiện và nhiều thành tựu nhất trong lĩnh vực nghiên cứu về thơ nói chung và trường ca nói riêng sau năm 1975 là Nguyễn Trọng Tạo, Trần Mạnh Hảo, Bích Thu... Các công trình nghiên cứu của họ không bao giờ vắng mặt Thanh Thảo: “người đóng vai trò mở đầu cho trường ca viết về chiến tranh sau chiến tranh, với một giọng điệu riêng, đưa thơ trẻ chống Mỹ lên đỉnh cao đáng tin cậy”. “Có thể nói trường ca của Thanh Thảo đậm dấu vết cá nhân. Các sáng tác của anh thường mang một vẻ đẹp trong chính thể, có một hơi trường ca không dễ lẫn. Tác phẩm hấp dẫn người 6 đọc ở ý tứ sâu xa và ở cấu trúc trữ tình – triết lý rất mực tâm trạng” [37, tr. 9798] Từ lúc mới xuất hiện trên thi đàn đến nay, đời thơ Thanh Thảo đã trải qua không ít những biến cố thăng trầm. Quá trình sáng tạo đối với ông là một hành trình không thôi kiếm tìm những ngả đường mới cho thi ca. Đồng hành với ông, không ít những bài báo, bài nghiên cứu, phê bình về thơ ông đã ra đời như những hồi đáp từ quá trình tiếp nhận. Đó hầu hết đều là những bài viết giá trị và rất đáng chú ý. Những gợi mở từ đó đã giúp cho người viết đề tài có một nền tảng hỗ trợ vững chắc khi tiếp cận vấn đề. Thật ra, thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo là một mảng đề tài còn khá mới, từ trước đến nay vốn chưa có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, cũng đã có một số bài viết với nhiều góc nhìn khác nhau, cách tiếp cận khác nhau chạm đến được những độc đáo trong thế giới thơ Thanh Thảo. Những bài nghiên cứu đó tuy chỉ mới khai thác những góc nhìn hẹp về một khía cạnh nào đó trong thơ Thanh Thảo, nhưng cũng đã gợi ý rất nhiều cho quá trình tiếp nhận và nghiên cứu. Tiêu biểu cho cách tiếp cận từ góc độ đề tài, bài viết “Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh Thảo” của Lại Nguyên Ân đã chú ý tìm hiểu chân dung người lính được phác họa trong thơ Thanh Thảo như “một quan tâm xuyên suốt, một ý tứ chủ đạo” [3, tr. 45-52]. Trong đó hình ảnh người lính nổi bật nhất ở những điểm: vẻ đẹp bình thường và vô danh, chất trẻ, sự tự ý thức về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và cá nhân với lịch sử. Lại Nguyên Ân cho rằng thơ Thanh Thảo là sự đan xen nhuần nhị giữa cái cụ thể và cái khái quát, là cảm quan chân thật về thực tại được trình bày bằng chất giọng trầm, dồn nén. Với 7 phạm vi khảo sát chủ yếu qua tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và trường ca Những người đi tới biển, bài viết của Lại Nguyên Ân liên tục soi chiếu hình tượng người lính trong thơ Thanh Thảo trong tương quan với dòng cảm hứng chung đương thời. Góc nhìn này đã đóng góp một cách nhận chân giá trị và chất riêng của thơ Thanh Thảo trong số rất nhiều những tác phẩm cùng viết về mảng đề tài này. Cùng cách tiếp cận như Lại Nguyên Ân nhưng lại có cách lý giải khác, Boey Kim Cheng trong bài viết “Thơ Thanh Thảo chống lại ngày quên lãng” đã khám phá và phân tích xuyên suốt một “tứ” quan trọng trong thơ Thanh Thảo: đó là nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh ám ảnh quá khứ, sự tổn thương của con người hậu chiến và khát khao phục dựng một ký ức vô tư, hồn nhiên nằm ngoài những hệ lụy của chiến tranh. Boey Kim Cheng đã có những nhận định rất sâu sắc về vấn đề: “Ký ức, việc thực hiện lời hứa với quá khứ đang trở nên đặc biệt khẩn thiết tại nước Việt Nam mới, nơi sự phát triển nóng đang làm rạn nứt đức tin mà những cựu chiến binh như Thanh Thảo đã vì nó mà chiến đấu. Thơ ông là bằng chứng, cung cấp bằng chứng cho nỗi đau của những người không thể lên tiếng thể hiện nỗi đau của họ. Đó còn là thi ca về sự tồn tại, thứ thi ca có thể giành ý thức về cái đẹp trong những trải nghiêm hoang sơ và khủng khiếp nhất” [6]. Bài viết mở ra những góc nhìn tinh tế, đưa ra những kiến giải thuyết phục cho mảng thơ viết về quá khứ của Thanh Thảo, nhất là nỗ lực tái tạo ký ức, hàn gắn mất mát của nhà thơ. Một đoạn Boey Kim Cheng viết: “Bằng việc đặt cá nhân vào trong lịch sử và lịch sử vào trong cá nhân, và đưa quá khứ, dù khó khăn và khủng khiếp đến đâu chăng nữa, vào mối quan hệ bao quát nào đó với hiện tại, nhà thơ đã hoàn tất một viễn cảnh đem lại khả năng phục hồi và hàn gắn” [6]. Nhìn từ khía cạnh biểu tượng trong thơ 8 Thanh Thảo, Chu Văn Sơn trong bài “Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân” đã tập trung nghiên cứu cặp biểu tượng cốt lõi: lửa và nước. Ông cho rằng chính cặp đối cực này đã tạo nên vẻ đẹp của thơ Thanh Thảo: “Thô sơ mà hực sáng chính là cái đẹp Thanh Thảo. Nó sẽ âm thầm dẫn dắt anh tìm đến với những vẻ đẹp sáng tiềm ẩn ngay trong những gì thô sơ, giản phác, bình dị, mộc mạc” [30, tr. 17-32]. Cùng nghiên cứu về biểu tượng, Mai Bá Ấn cũng phần nào có sự đồng tình với Chu Văn Sơn khi cho rằng thơ Thanh Thảo có một sự kết hợp đến mức nhuần nhuyễn giữa hai đối lập: cỏ xanh và lửa đỏ. Toàn bài Cỏ xanh và lửa đỏ - một đối lập logic của thơ Thanh Thảo, Mai Bá Ấn đã tập trung khai thác ý nghĩa của hai hình tượng đặc biệt này. “Cỏ đã được Thanh Thảo chú tâm khai thác để nhằm qua những h́nh ảnh đơn sơ , bình thường, nâng lên thành những biểu tượng thơ đầy nghệ thuật nhằm bộc lộ những suy ngẫm tầng sâu về triết lý cuộc sống… Lửa đỏ trong thơ Thanh Thảo không chỉ là lửa thực hay ngọn lửa tinh thần ta thường gặp mà anh còn sáng tạo ra những biểu tượng lửa rất lạ như “nước rực cháy”, “trái tim dòng sông bốc cháy”, rồi “mặt trời như trái dừa lửa kỳ lạ/ treo trên đầu tất cả chúng ta” [4, tr. 53]. Mặt khác, khi nghiên cứu về tư tưởng thơ Thanh Thảo, Chu Văn Sơn trong bài “Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân” cho rằng “chất người chính là nỗi trăn trở, niềm day dứt cả đời Thanh Thảo”, hơn nữa đó phải là chất người nghĩa khí, vì “viết về nghĩa khí và viết bằng nghĩa khí là một mãnh lực của ngòi bút Thanh Thảo” [30, tr. 17-32]. Quan trọng hơn, theo Chu Văn Sơn, một trong những đóng góp lớn nhất của Thanh Thảo trong hành trình cách tân thơ là ở bình diện cấu trúc: “Rubic – đó là cấu trúc của thơ”. Sáng tạo theo cấu trúc rubic chính là “hành vi mà sự cố ý ẩn sâu trong tiềm thức, đẩy những màu sắc ngẫu nhiên nổi lên như rubic xoay quanh cái trục bí mật của nó” [30, tr. 17-32]. Qua chuyên luận này, tác giả Chu Văn Sơn đã khám phá thế giới thơ Thanh Thảo một cách trực diện, lý giải những luận điểm của mình dựa trên 9 chính văn bản thơ với những trích dẫn cụ thể, xác đáng. Nghiên cứu về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo, nổi bật nhất có thể kể đến là không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong trường ca Thanh Thảo của Mai Bá Ấn. Trong đó, ông đã gọi tên ba cặp không gian - thời gian xuất hiện thường xuyên trong thế giới thơ Thanh Thảo: không gian mở rộng - thời gian cô đặc, không gian chuyển hóa – thời gian đa tuyến, không gian hồi tưởng thời gian quá khứ. Trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh: “không gian mở rộng và thời gian cô đặc là quan niệm nghệ thuật quán xuyến trong toàn bộ Trường ca Thanh Thảo. Trong đó, ta có thể dễ dàng nhận ra, trong thời gian cô đặc ấy, không gian nghệ thuật mở rộng khá phổ biến và có tần suất xuất hiện cao nhất trong Trường ca Thanh Thảo chính là không gian trời xanh - nơi phát ra những tia chớp đỏ, không gian rừng núi - nơi phát ra những đám cháy, không gian đồng bằng với những dấu chân, lối mòn, con đường - nơi tồn tại vĩnh cửu của cỏ xanh, và không gian biển - nơi của những ngọn sóng, của gió và cát. Tất cả đó đã làm nên một phong cách Thanh Thảo khá rõ nét qua Trường ca” [4, tr. 98]. Đây là những đúc kết khá công phu và sâu sắc của Mai Bá Ấn về những phương diện nghệ thuật đặc sắc trong thơ Thanh Thảo. Thanh Thảo là một nhà thơ có bề dày sáng tác và hiện vẫn tiếp tục dấn thân trên con đường thơ ca. Bản thân ông hoàn toàn không xa lạ với độc giả hiện đại. Song song với điều đó, chúng ta cần một sự phân tích, nghiên cứu tương xứng với sự nghiệp của ông cũng như những đóng góp không thể phủ nhận của ông trong quá trình cách tân thơ Việt Nam hiện đại. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài “Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo” sẽ đi sâu vào phân tích thế giới nghệ thuật của nhà thơ, làm nổi bật cái tôi trữ tình của nhà thơ và sáng tỏ thế 10 giới quan, nhân sinh quan sâu sắc của nhà thơ thông qua những biểu tượng nghệ thuật đặc sắc và những phương tiện hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu tác phẩm. 3 Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1 Nhiệm vụ nghiên cứu Chỉ rõ và phân tích những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo: cảm hứng sử thi, cảm hứng thế sự, cảm hứng đời tư. Và nghệ thuật biểu hiện những cảm hứng này trong thơ Thanh Thảo. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Thơ Thanh Thảo qua một số tập thơ tiêu biểu: Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Khối vuông ru bic (1984), Từ một đến trăm (1987), 1 2 3 (2007). Khi cần thiết, chúng tôi tham khảo thêm một số tập thơ và trường ca khác của Thanh Thảo. 4 Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành thực hiện luận văn này, chúng tôi dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác – Ăng ghen để lý giải những vấn đề thực tiễn văn học và các vấn đề lý thuyết tư duy. Cùng với đó, chúng tôi vận dụng một cách tổng hợp những kiến thức về lý luận văn học, văn học sử và một số phương pháp chủ yếu sau đây: Phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp thống kê. 11 Phương pháp so sánh. 5 Cấu trúc luận văn Với đề tài nghiên cứu “Những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay và hành trình sáng tác của Thanh Thảo Chương 2: Sự biểu hiện những cảm hứng chính trong thơ Thanh Thảo Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện những cảm hứng trong thơ Thanh Thảo 12 NỘI DUNG Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƠ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA THANH THẢO 1.1 Khái quát về thơ Việt Nam từ 1975 đến nay Sau chiến tranh, thơ Việt Nam chuyển biến khá phức tạp và hình thành nhiều xu hướng khác nhau. Theo cách hình dung mà giới nghiên cứu văn học đang chấp nhận, chúng tôi tạm chia sự phát triển của thơ đương đại làm hai giai đoạn: từ 1975 đến 1985 và từ 1986 đến nay. Thực tế sự phân chia này chỉ mang tính qui ước. 1.1.1 Thơ Việt Nam thời hậu chiến 1975 – 1985 Đại thắng mùa xuân 1975 có ý nghĩa đặc biệt với nhân dân ta: đất nước thống nhất, non sông liền một dải, một kỷ nguyên mới mở ra cho dân tộc. Sự kiện lịch sử này đã tác động đến mọi mặt của đất nước, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống văn học ở cả khía cạnh thuận chiều và không thuận chiều. Thơ ca giai đoạn này có những dấu hiệu của sự phân nhánh với những màu sắc thẩm mỹ khác nhau. 1.1.1.1 Những chuyển biến của thơ từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ sang thời kỳ hậu chiến Sau chiến tranh, thơ việt Nam vẫn tiếp tục viết theo cảm hứng cũ, hình thức cũ như một thói quen, một quán tính của thơ ca thời kỳ Cách mạng. Cảm hứng ngợi ca là cảm hứng chủ yếu. Phải ít lâu sau, sang đầu những năm 80, trong thơ mới có những chuyển biến rõ rệt, được thể hiện qua một số tập thơ và bài thơ tiêu biểu như: Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo 1978, Đường đến thành phố của 13 Hữu Thỉnh 1980, Bài thơ không năm tháng của Lâm thị Mỹ Dạ 1983, Những điều cùng đến của Vũ Quần Phương 1983, Ánh trăng của Nguyễn Duy 1984, Người đàn bà ngồi đan của Ý Nhi 1985… Mười năm sau chiến tranh là chặng đường quán tính của thơ ca cách mạng. Đời sống nhân dân, thân phận nhà thơ không khỏi xót xa trước tình cảnh chung của đất nước, nhưng thơ vẫn hát theo cảm hứng vui tươi. Nhà thơ và thơ, thân xác và tâm hồn cứ có những nghịch âm trong một hợp xướng… Thế nhưng ở chiều sâu của một quá trình chuyển động, thực tế thơ đang có những phương thức biểu hiện mới. Do tự thân phát triển của thơ, do nhu cầu đổi mới của nhà thơ, thơ hướng về cá nhân chiêm nghiệm và đối thoại với chính mình, với cuộc sống. Từ những nhận thức ấy, các tập thơ tiêu biểu của thời kỳ này đã có sự thay đổi: đề tài chiến tranh, đất nước nhân dân anh hung chuyển dần sang cuộc sống đời thường, thơ bớt tả mà đi sâu biểu hiện tâm trạng cá nhân, cái tôi trở thành trung tâm của cảm hứng sáng tạo, hình thức thể hiện phong phú, nhiều tìm tòi. So với thời kỳ trước, thơ sau 1975 xuất hiện một tư duy nghệ thuật mới: cảm hứng nghệ thuật bắt nguồn từ chính số phận và kinh nghiệm cá nhân nhà thơ. Thơ đã có một cái nhìn mới. Các mặt, các khía cạnh khác nhau của hiện thực được soi rọi bằng một nhận thức mới. nhận thức trong thơ đa dạng đa chiều cả về nội dung và nghệ thuật. Nguyễn Đức Mậu cho rằng: “Sau chiến tranh và những năm gần đây, thơ bắt nhịp cuộc sống mới đa chiều hơn, phức tạp hơn. Cảm hứng ngợi ca trong thơ hôm nay dường như lắng lại, thay vào đó là dòng thơ mang chính nội tâm tác giả, trước sự bề bộn, lo toan đời thường. Nhà thơ hướng vào nội tâm lấy cái tôi làm chủ đạo. Sử đổi mới trong thơ hôm nay là trở về với bản chất vốn có của thơ, tạo ra giọng điệu thích hợp với thời đại mình sống” (Sự đổi mới trong thơ – Nhân dân chủ nhật, 1989). Ta có thể thấy sự cảm nhận cuộc sống đa chiều thể 14 hiện ở nhiều tập thơ như: Tự hát 1984 của Xuân Quỳnh, Ánh ttrăng 1984 của Nguyễn Duy, Khối vuông rubic 1985 của Thanh Thảo, Người đàn bà ngồi đan 1985 của Ý Nhi, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm 1986 của Nguyễn Khoa Điềm… Có nhiều bài thơ đã nói lên những suy nghĩ thấm thía về con người, cuộc đời. Cũng chính thời kỳ hậu chiến này, nhiều nhà thơ đã dồn sức cho việc hoàn thành trường ca, qua đó nói được nhiều hơn, bao quát hơn hiện thực của đất nước và nhân dân. Hàng loạt trường ca ra đời đã ghi lại dấu ấn khó quên của một thời đại lịch sử: Những người đi đến biển1977, Những ngọn sóng mặt trời 1982 của Thanh Thảo, Ngọn giáo búp đa 1977 của Ngô Văn Phú, Thông điệp mùa xuân 1985 của Thu Bồn, Đường đến thành phố 1979 của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn 1980 của Nguyễn Đức Mậu, Đất nước hình tia chớp 1981 của Trần Mạnh Hảo… Tất cả đã đánh dấu sự cố gắng và trình độ nghệ thuật của các tác giả. Có thể nói phong trào sáng tác thơ dần trở lại gắn bó hơn với cuộc sống hiện tại. Khoảng cách giữa thơ và nhà thơ đang dần được rút ngắn lại và khỏa lấp. Những vấn đề mà trong chiến tranh thơ không đụng đến, hoặc có gợi lên thì vẫn nhằm tới lợi ích cộng đồng, bây giờ đã được khơi sâu nhấn mạnh, khẳng định: nỗi buồn riêng, thân phận cá nhân, những phía chìm, mặt khuất của thế giới nội tâm, vấn đề muôn thuở của con người… Thơ lúc này không phải chỉ là tả, là kể, là trình bày mà là biểu hiện hiện thực bằng những tâm trạng, những cá tính sáng tạo độc đáo, nhờ vậy vừa phản ánh cuộc sống, thơ vừa đi vào tầng sâu, vùng xa của tình cảm con người. Và có những mảng hiện thực đến bây giờ chủ thể sáng tạo mới đủ bản lĩnh, đứng ở một tư thế mới và yêu cầu mới để biểu hiện một cách trung thực và tạo nên chất lượng thẩm mỹ mới cho thơ. 1.1.1.2 Những cảm hứng chính trong thơ thời kỳ hậu chiến 1975 – 1985 15 Những năm trước đây, nhà thơ với tư cách là công dân, là chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ đã làm tốt phần việc của mình. Giờ đây tiếp tục nhận thức về trách nhiệm đó, nhà thơ vẫn đóng vai trò là người cổ vũ động viên quần chúng. Với thế hệ các nhà thơ chống Mỹ, trữ tình công dân vẫn là mạch nguồn quan trọng. Cảm hứng ngợi ca trước hết là một thái độ, một rung động chân thành trước thực tế đất nước đang phải đối mặt với cuộc chiến tranh mới. Tình cảm công dân, tinh thần yêu nước lại một lần nữa bùng lên ở mỗi người, nhất là ở nhà thơ có phần nhạy cảm. Mặt khác những giá trị tinh thần cộng đồng được tồn tại bền vững qua nhiều thời gian, trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, càng được khẳng định chói sáng, không dễ dàng bị phai nhạt. Hơn nữa chính các nhà thơ đã từng nếm trải gian lao thử thách, hi sinh và tự nguyện, tự giác hoà chung một giọng điệu, cất cao lời thơ ca ngợi đất nước do những yêu cầu tất yếu của lịch sử. Vì vậy, hậu chiến, hoàn cảnh còn những tương đồng, tâm trạng nghệ sỹ vẫn chưa thôi xúc động về Tổ quốc nhân dân. Có điều nhân dân trong thơ lúc này hiện lên với những cảm nhận cụ thể sinh động, sâu sắc hơn: chiến công và cái giá phải trả, chiến thắng và những mất mát hi sinh. Trong các trường ca, nhân dân là hệ qui chiếu, là điểm tựa cho mọi tư tưởng, cảm hứng. Nhân dân hiện lên qua hệ thống hình tượng người chiến sĩ, bà mẹ, người vợ…, hình tượng tập thể với sức mạnh kỳ vĩ. Xét tới cùng, cảm hứng ngợi ca trong thơ những năm thời kỳ hậu chiến được quy định bởi không khí xã hội, thái độ của nhà thơ lúc đó. Xã hội cần ổn định phát triển, cần khẳng định những việc đã qua là đúng, là chân lý đáng tự hào. Và hiện tại là đẹp đáng sống dù hiện tại còn bộn bề vất vả, nhưng đất nước sẽ tươi đẹp, giàu mạnh. Tố Hữu đã tin tưởng thật nhiều: 16 “Ta sống thật đây, gian khổ đêm ngày Mà cứ tưởng bay trong mơ ước Bữa cơm khoai, ít cá nhiều rau Mà ngăn sông làm điện, khoan biển làm dầu Chân dép lốp Mà lên tàu vũ trụ”. ( Một nhành xuân ) Các thế hệ nhà thơ cùng đứng vào dàn đồng ca, ca ngợi để giữ niềm tin, để định hướng cuộc sống. Nhưng cũng chính từ dàn đồng ca lãng mạn ấy đã bắt đầu xuất hiện những giọng trầm có dư vang. Cùng với cảm hứng ca ngợi, thơ bắt đầu chuyển sang cảm hứng đời tư thế sự. Thơ chuyển từ hiện thực mô tả cách mạng sang biểu hiện hiện thực riêng tư hàng ngày, thường xuất hiện qua những mô típ: tôi một mình, tôi suy tư triết lý về thân phận cá nhân, về cuộc đời. Thực ra cảm hứng đời tư, hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa lúc này vẫn còn ngượng ngập nhưng cảm hứng thế sự đã tìm được hướng đi và cũng phải đến đầu những năm 80, trước khi sự nghiệp đổi mới diễn ra trên qui mô cả nước, mới phát triển. Cái tôi suy tư đích thực xuất hiện trong thơ Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ… và trở lại ở những nhà thơ lớn trụ cột của nền thơ cách mạng. Chế Lan Viên đã sớm nhận ra trong thơ có sự thay đổi cảm hứng, thay đổi đối tượng mà cất lên: “Những nhà thơ bỏ các đề tài khoáng đạt Về trong phòng con ngột ngạt Như con hổ đại ngàn Hoá chú mèo con” (Đề tài ) 17 Nếu như ở các bài thơ mang cảm hứng ngợi ca, con người được nhìn nhận nghiêng bề nổi, phía hành vi cuộc sống quan hệ với vận mệnh cộng đồng dân tộc thì ở cảm hứng thế sự thơ chú ý phân tích lý giải con người ở nhiều bình diện, cả bề nổi lẫn bề chìm, cả mặt ổn định lẫn dao động, cả phần ý thức lẫn vô thức. Nguyễn Duy trong Đánh thức tiềm lực 1982, Bằng Việt trong Khoảng cách giữa lời 1983, Lâm Thị Mỹ Dạ trong Bài thơ không năm tháng 1983, Xuân Quỳnh trong Tự hát 1984, Ý Nhi trong Người đàn bà ngồi đan 1985… khao khát tìm lại mình, tìm lại những giá trị đích thực trong cuộc đời, tình yêu bằng những rung động chân thành, thông cảm, sẻ chia cùng những lo toan trách nhiệm. Bằng những khảo sát trên mặt bằng thơ mười năm thời hậu chiến, cảm hứng ngợi ca vẫn nổi trội và tâm lý thị hiếu người đọc, người làm thơ vẫn hướng về vẻ đẹp, kỉ niệm bi tráng cùng hiện tại nhiều dự cảm lãng mạn. Cảm hứng thế sự còn là mạch ngầm, khởi động nhưng đó chắc chắn là sự chuẩn bị cho những bứt phá mạnh mẽ sau 1985. 1.1.2 Thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 đến nay) Năm 1986, sự nghiệp đổi mới đã diễn ra ở mọi cấp độ đã làm thay đổi diện mạo đất nước, ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng tình cảm và tư duy sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ cũng như các văn nghệ sĩ nói chung. “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - Đảng cộng sản Việt Nam) là định hướng quan trọng cho mọi suy nghĩ và hành động. Trước đây, con người cá nhân nhà thơ đôi khi phải sống trong ngụy tạo, chưa có sự thống nhất giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong. Thậm chí, ngay những năm đầu hoà bình, đời sống văn học nghệ thuật có nhiều chuyển biến, một số nhà thơ vẫn còn ở 18 trạng thái phân đôi: thực tại khó khăn mà thơ cứ ca hát, lãng mạn. Từ sau 1985, thơ vẫn tiếp tục những cố gắng của thời kỳ tiền Đổi mới: cái tôi nhà thơ được khẳng định, cá tính sáng tạo được tôn trọng, con người cá nhân được đặt ở vị trí ưu tiên. Bên cạnh giọng điệu ngợi ca, thơ mở ra và chấp nhận nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái tâm lý: nỗi buồn, cô đơn, tâm trạng xao xuyến không yên… của thời mở cửa, kinh tế thị trường phát triển. Trên cái mặt bằng thơ ấy, chúng ta có thể nhận chân được giá trị đích thực và những bài học cho phong trào sáng tác thơ. 1.1.2.1 Những đổi mới trên phương diện nội dung Từ sau 1985, cái tôi cá nhân trong thơ được nhận thức và đề cao một cách rõ rệt. Nét nổi bật của thơ từ giai đoạn này là khẳng định con người cá tính. Được thể hiện ở ngay tên gọi của nhiều tập thơ, bài thơ: Tôi vẽ mặt tôi của Lê Minh Quốc, Tôi gọi tôi của Đinh Thị Thu Vân, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng… Thơ trở về với đời tư, cái tôi được biểu hiện và trở thành một khát vọng vừa âm thầm vừa mãnh liệt: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em Là máu thịt đời thường ai chả có Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi” (Tự hát – Xuân Quỳnh) Đó còn là cái tôi không giấu diếm, tìm mọi cách khẳng định mình, thể hiện mình; cái tôi trải nghiệm, đau khổ xót xa, triết lý về một thời phải biến dạng, ẩn hình; cái tôi giờ đây nhận ra sự nhỏ bé hữu hạn của mình; cũng có khi là cái tôi tự tin, hi vọng nhưng rất tội nghiệp… Thơ đã cố gắng và đã thành công trong việc 19 phản ánh cái tôi bản ngã đích thực chứ không phải là con người của lý trí bỏ quên cái riêng cá nhân. Cùng với khẳng định cái tôi cá nhân, thơ Việt Nam từ sau đổi mới còn thể hiện những quan niệm về con người, sự sống và cái chết. Chiến tranh đã đi vào quá khứ, cuộc sống đặt ra nhiều so sánh, đối nghịch, những trải nghiệm trong đời sống, những mất mát đã qua và những thiệt thòi không bao giờ bù đắp được… đều tạo nên những cảm hứng cho thơ. Nhà thơ Phùng Khắc Bắc suy nghĩ và chiêm nghiệm: “Chết là hết Mọi cái đều không Vì ta không chết trên chiến địa Vì vết thương này không chứng minh được ta là liệt sĩ” (Ta chết đây) Và khác với thơ kháng chiến, thơ bây giờ không tồn tại những phạm trù khái quát, những biểu tượng cao vời mà hiện hình trong những đường nét cụ thể, những con người, những mái đình, ngày hội quê hương… Thơ viết nhiều về người mẹ, người bà, người thân với những cảm xúc chân thành biết ơn xen lẫn chút gì đó ăn năn của kẻ đã một thời lãng quên, vô tình với những gì thân yêu nhất: “Hai mươi năm xa cách quê hương Tóc sắp bạc lần đầu về giỗ mẹ” (Xuân Tùng) “Thương cha tóc bạc như mây trắng Cỡi gió đồng hanh gánh lúa về 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan