Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nhận diện ca dao người việt từ 1945 đến nay...

Tài liệu Luận văn nhận diện ca dao người việt từ 1945 đến nay

.PDF
151
95
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢU THỊ LAN ANH NHẬN DIỆN CA DAO NGƢỜI VIỆT TỪ 1945 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢU THỊ LAN ANH NHẬN DIỆN CA DAO NGƢỜI VIỆT TỪ 1945 ĐẾN NAY CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phƣơng Thái Nguyên - 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong các công trình khác. Thái Nguyên, ngày 12 tháng 04 năm 2013 Tác giả luận văn Lưu Thị Lan Anh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tôi muốn gửi tới PGS.TS Nguyễn Hằng Phương - Khoa Ngữ Văn - Đại học Sư phạm Đại học Thái Nguyên đã định hướng và dẫn dắt tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ Văn, Ban chủ nhiệm khoa Sau đai học, trường Đại học Sư Phạm Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn này. Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới nh ững người thân trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong thời gian qua. Thái Nguyên, ngày 12 tháng 04 năm 2013 Tác giả Lưu Thị Lan Anh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục .......................................................................................................................... i MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4 5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................. 5 7. Bố cục của luận văn ....................................................................................... 5 NỘI DUNG ................................................................................................................... 6 Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI..................... 6 1.1. Bối cảnh lịch sử nước ta từ 1945 đến nay .................................................. 6 1.2. Khái niệm ca dao cổ truyền và vấn đề ca dao hiện đại ............................ 10 1.2.1. Khái niệm ca dao cổ truyền ................................................................... 11 1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại .......................................................................... 12 1.3. Đời sống và sinh mệnh của ca dao hiện đại qua các thời kì lịch sử ......... 16 1.3.1. Ca dao người Việt từ 1945 đến 1975 .................................................... 18 1.3.2. Ca dao người Việt từ 1975 đến nay....................................................... 22 Chƣơng 2. CA DAO NGƢỜI VIỆT TỪ 1945 ĐẾN 1975 ....................................... 29 2.1. Đề tài trung tâm ........................................................................................ 29 2.1.1. Đề tài đấu tranh cách mạng ................................................................... 31 2.1.2. Đề tài lãnh tụ ......................................................................................... 38 i 2.1.3. Đề tài sản xuất xây dựng ....................................................................... 40 2.2. Cảm hứng chủ đạo .................................................................................... 41 2.3. Đặc điểm thi pháp.................................................................................... 44 2.3.1. Thể thơ ................................................................................................... 44 2.3.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 49 2.3.3. Thời gian nghệ thuật .............................................................................. 54 2.3.4. Các biện pháp tu từ ................................................................................ 55 Chƣơng 3. CA DAO NGƢỜI VIỆT TỪ 1975 ĐẾN NAY ...................................... 64 3.1. Đề tài trung tâm ........................................................................................ 64 3.1.1. Đề tài xã hội........................................................................................... 64 3.1.2. Đề tài tình yêu ....................................................................................... 69 3.1.3. Đề tài gia đình ....................................................................................... 72 3.2. Cảm hứng chủ đạo ................................................................................... 75 3.3. Đặc điểm thi pháp ..................................................................................... 77 3.3.1. Thời gian nghệ thuật .............................................................................. 77 3.3.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 79 3.3.3. Các phương thức nghệ thuật.................................................................. 82 3.4. Những điểm dị biệt giữa ca dao cổ truyền và ca dao từ 1945 đến nay ... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 102 PHỤ LỤC.................................................................................................................. - 1 PHỤ LỤC 1.................................................................................................... - 1 PHỤ LỤC 2.................................................................................................. - 36 - ii MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong kho tàng văn học dân gian của người Việt, ca dao là phần phong phú và có giá trị nhất về mặt trí tuệ, tình cảm cũng như nghệ thuật biểu hiện. Nếu như tục ngữ thiên về nhận thức lý tính, đúc kết kinh nghiệm từ thực tế cuộc sống thì ca dao lại mang nội dung trữ tình, là tấm gương trung thực phản ánh cuộc sống tình cảm muôn màu, muôn vẻ của nhân dân. Cũng như văn học viết và các thể loại văn học dân gian khác, ca dao người Việt luôn có sự vận động qua các giai đoạn. Trong đó đáng chú ý là mảng ca dao người Việt từ 1945 đến nay. Mặc dù mới xuất hiện trong hơn nửa thế kỉ khoảng thời gian không dài so với tiến trình lịch sử - song đã có rất nhiều công trình lấy ca dao người Việt từ 1945 đến nay làm đối tượng nghiên cứu. Trong những công trình ấy, các nhà khoa học chủ yếu nghiên cứu sự vận động của ca dao về phương diện đề tài, cảm hứng sáng tác, nhân vật trữ tình, ngôn ngữ, thể thơ không gian – thời gian nghệ thuật, hình thức diễn xướng, thi pháp... mà chưa có nghiên cứu nào đề cập đến việc nhận diện ca dao người Việt từ 1945 đến nay. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu nêu trên, chúng tôi chọn Nhận diện ca dao người Việt từ 1945 đến nay làm đề tài nghiên cứu của luận văn. Ở luận văn này, chúng tôi bước đầu nghiên cứu những tác phẩm đã được sưu tầm và biên soạn với mục đích chỉ ra được những đặc điểm của ca dao người Việt trong sự tồn tại, vận động của thể loại. Từ đó thấy được sự kế thừa, tiếp thu cũng như sự sáng tạo các yếu tố thuộc thể loại của ca dao người Việt từ 1945 đến nay so với ca dao người Việt truyền thống. Thấy được ý nghĩa của ca dao người Việt từ 1945 đến nay trong tiến trình tồn tại, vận động của thể loại. Qua đó, chúng tôi có thể khám phá được những giá trị đặc sắc về mặt nội dung, nghệ thuật cũng như nhận diện được ca dao người Việt từ 1945 đến nay. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ca dao nói chung và ca dao người Việt từ sau 1945 đến nay nói riêng đã thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu. Đã có nhiều công trình sưu tầm, tìm hiểu về ca dao cũng như ca dao người Việt từ 1945 đến nay: Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn [29] đã đưa ra hệ thống các hình thức sinh hoạt ca hát dân gian và vấn đề phân loại ca dao, dân ca Việt Nam; nội dung cũng như cấu tứ trong thơ trữ tình dân gian và những truyền thống nghệ thuật của ca dao, dân ca Việt Nam. Công trình này cũng giúp chúng tôi thấy được bên cạnh bộ phận ca dao cổ truyền còn có sự xuất hiện của bộ phận ca dao mới từ 1945 đến nay. Bài viết Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại của tác giả Chu Xuân Diên [22] đi vào những nội dung như bản chất thẩm mĩ, đặc trưng loại biệt của văn học dân gian; thành phần văn học dân gian hiện đại và mối quan hệ của văn học dân gian hiện đại với văn học quần chúng, văn học thành văn. Tác giả cũng cho rằng phải đứng trên quan điểm lịch sử thì mới có thể nhìn nhận và đánh giá đúng về bộ phận ca dao hiện đại. Trong bài “Một số suy nghĩ về văn học dân gian hiện đại” tác giả Trần Tiến [52] đã đề cập đến tình hình văn học dân gian từ Cách mạng tháng Tám đến nay. Kết thúc bài viết, tác giả đã đưa ra kết luận văn học dân gian hiện đại trong đó có thể loại ca dao vẫn cứ tồn tại khách quan như chính bản thân cuộc sống. Bài viết này giúp tác giả luận văn có thể khẳng định được một lần nữa rằng văn học dân gian hiện đại mà ca dao hiện đại là một bộ phận của nó vẫn luôn tồn tại, vận động và phát triển. Trong cuốn Ca dao Việt Nam 1945 – 1975 [20] tác giả Nguyễn Nghĩa Dân đã nêu ra đặc điểm của ca dao thời kì chống Pháp và chống Mỹ, đó là sự kế thừa và phát huy những phần ưu tú nhất của nghệ thuật ca dao cổ truyền. Tác giả cũng chú ý đến cách cấu tứ phú, tỷ, hứng và một số truyền thống nghệ thuật khác được sử dụng phổ biến ở ca dao cũ như lối mở đầu bằng motip có sẵn, xu 2 hướng ưu tiên sử dụng thể thơ lục bát. Với những phân tích bước đầu về nghệ thuật và khối lượng lời ca dao đáng kể, cuốn sách này là một trong những cơ sở đáng tin cậy để nghiên cứu ca dao hiện đại trong tiến trình tồn tại, vận động của thể loại. Chuyên luận Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại [32] của tác giả Nguyễn Hằng Phương đã đặt ra vấn đề nghiên cứu các yếu tố thuộc thi pháp trong trạng thái động và đưa ra những phân tích, lý giải quy luật cơ bản chi phối sự chuyển đổi thi pháp ca dao trong tiến trình lịch sử. Đây thực sự là những đóng góp khoa học quý báu giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn đối tượng nghiên cứu. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài - Một số bài ca dao người Việt từ 1945 đến nay được biên soạn, xuất bản dưới dạng văn bản viết và những lời ca dao do chúng tôi sưu tầm từ trong đời sống dân gian. - Những đối tượng khác được nhắc đến trong luận văn chỉ nhằm mục đích liên hệ, so sánh làm nổi bật lên đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Một số cuốn sách về ca dao có ghi rõ nguồn gốc, cách thức sưu tầm biên soạn. Cụ thể: - Kho tàng ca dao người Việt (11825 lời) (Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.) - Ca dao Việt Nam 1945 -1975 (745 lời) (Nguyễn Nghĩa Dân, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997 - Ca dao sưu tầm (từ 1945 đến nay) (400 lời) (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.) - Ca dao chống Mỹ cứu nước, tập ba (100 lời) (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.) - Cụ Hồ ở giữa lòng dân (200 lời) (Lê Tiến Dũng, Trần Hoàng sưu tầm, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.) 3 - Ngoài ra, chúng tôi cũng chọn sử dụng 594 lời ca dao từ 1945 đến nay do tác giả luận văn sưu tầm. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Chúng tôi thực hiện đề tài Nhận diện ca dao người Việt từ 1945 đến nay nhằm mục đích: - Tìm hiểu một số đặc điểm của ca dao người Việt trong tiến trình tồn tại, vận động của thể loại. - Chỉ ra những điểm kế thừa và phát triển của ca dao người Việt từ 1945 đến nay so với ca dao người Việt cổ truyền. - Trên cơ sở đó, bước đầu nhận diện ca dao người Việt từ 1945 đến nay trên một số phương diện nội dung, thi pháp. Để đạt được những mục đích nêu trên, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu những vấn đề lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu. - Dựa trên cơ sở lí luận của đề tài, người nghiên cứu tiến hành khảo sát, thống kê các bài ca dao hiện đại đã được sưu tầm và biên soạn; phân tích, so sánh, đối chiếu để rút ra được một số yếu tố thuộc thể loại của ca dao người Việt truyền thống và ca dao người Việt hiện đại, từ đó thấy được đặc điểm và bước đầu nhận diện ca dao người Việt thời kỳ hiện đại. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Căn cứ vào mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thống kê: Với phương pháp này, chúng tôi sử dụng để tiến hành khảo sát các bài ca dao người Việt từ 1945 đến nay đã được sưu tầm và biên soạn. Sau đó lập bảng thống kê số lời, tỉ lệ % làm cơ sở nghiên cứu đề tài. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: Với phương pháp này, chúng tôi tiến hành phân tích những tài liệu lí thuyết về thể loại, thể loại văn học, vấn đề ca dao hiện đại và những lời ca dao hiện đại… trên cơ sở phân tích đó, chúng tôi 4 có thể tổng hợp lại những đặc điểm cơ bản thành hệ thống. Qua đó, giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn những vấn đề có liên quan đến đề tài và bản thân đối tượng nghiên cứu. - Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sử dụng phương pháp này, chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu các đặc điểm thuộc thể loại của ca dao từ 1945 đến nay với ca dao trước đó từ đó làm nổi bật lên ý nghĩa, vai trò của ca dao từ 1945 đến nay trong tiến trình tồn tại, vận động của thể loại. - Phương pháp điền dã văn học: Bằng việc tìm hiểu thực tế, trao đổi trực tiếp với người dân trong những lần điền dã ở một số địa phương, chúng tôi đã sưu tầm được những lời ca dao hiện đại đang được lưu truyền trong đời sống nhân dân chưa được sưu tầm và biên soạn thành sách. Phương pháp này giúp cho người thực hiện luận văn thấy được sự tồn tại, phát triển của ca dao người Việt trong cuộc sống đương đại và có thêm tư liệu mới để triển khai vấn đề nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn - Nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ, hệ thống về nội dung và thi pháp của ca dao người Việt từ 1945 đến nay. - Bước đầu chỉ ra sự vận động của đề tài, cảm hứng chủ đạo cũng như một số đặc điểm thuộc thi pháp của bộ phận ca dao truyền thống so với bộ phận ca dao từ 1945 đến nay. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được thể hiện trong 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung liên quan đến đề tài Chương 2: Ca dao người Việt từ 1945 đến 1975 Chương 3: Ca dao người Việt từ 1975 đến nay 5 NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Có thể khẳng định rằng trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao là thể loại tiêu biểu và mang nhiều giá trị. Điều đó được thể hiện trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam từ xưa đến nay, ca dao luôn giữ một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành tiếng nói của dân tộc. Bên cạnh đó, ca dao còn phản ánh các sinh hoạt, biểu hiện những nhận xét, những ý nghĩ của nhân dân về mọi lĩnh vực của cuộc sống thông qua hệ thống những phương thức, biện pháp, phương tiện nghệ thuật truyền thống đặc thù. Vì vậy, nghiên cứu ca dao là tiếp cận một vấn đề khoa học thực sự có giá trị và thú vị. Để tiến hành nghiên cứu khoa học cũng như nghiên cứu khoa học văn học một cách thuận tiện và đạt hiệu quả tốt cần dựa trên cơ sở lý luận và thực tế của chuyên ngành. Thực hiện đề tài Nhận diện ca dao người Việt từ 1945 đến nay chúng tôi cũng cần phải quan tâm tới những vấn đề trên. Trong chương này, chúng tôi xin nêu ra bối cảnh lịch sử, các khái niệm đã được thống nhất và một số vấn đề có liên quan đến đối tượng nghiên cứu. 1.1. Bối cảnh lịch sử nƣớc ta từ 1945 đến nay Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, ngay sau khi giành được độc lập và trong năm năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, đất nước ta lâm vào hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” với muôn vàn khó khăn thử thách: Nhân dân ta vừa xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, giải quyết nạn đói, nạn dốt và giải quyết những khó khăn về tài chính, vừa tiến hành đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Từ cuối năm 1946, toàn dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp trên phạm vi cả nước. Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) được tiến hành trong điều kiện chúng ta đã giành được độc lập và chính quyền. Vì vậy, 6 vừa kháng chiến vừa kiến quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong thời kì này. Đến năm 1950, Đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp cuộc chiến tranh giữa nhân dân ta với thực dân Pháp. Bằng những chủ trương đúng đắn của Đảng cùng với tinh thần đoàn kết của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi to lớn như: Chiến thắng Việt Bắc thu - đông năm 1947, chiến thắng Biên giới thu - đông năm 1950, chiến thắng Đông - Xuân 1953-1954. Trong đó, Điện Biên Phủ là trận thắng quyết định và vang dội nhất “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” dẫn tới việc Thực dân Pháp buộc phải ký kết hiệp định Giơnevơ về Đông Dương năm 1954, kết thúc chiến tranh. Mặc dù trên mặt trận quân sự không ngừng nổ tiếng súng nhưng suốt từ sau thành công của Cách mạng tháng Tám, công cuộc kiến quốc nhằm xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo xây dựng. Điều đó cũng tạo tiền đề quan trọng để đất nước ta tiến lên Chủ nghĩa xã hội sau khi chiến tranh kết thúc. Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền và mỗi miền lại tiến hành những nhiệm vụ khác nhau: miền Bắc tiến lên Chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Xuất phát từ tình hình đó, Đảng đề ra nhiệm vụ cho cách mạng từng miền với hai chiến lược khác nhau, đưa ra nhiệm vụ chung cho cách mạng hai miền là “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, đồng thời Đảng cũng xác định mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, xác định vị trí và vai trò của cách mạng từng miền. Nhân dân miền Bắc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội là thực hiện các đợt cải cách ruộng đất, các kế hoạch nhà nước tức là vừa sản xuất vừa lao động xây dựng. Khi Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân trong cả hai đợt 7 (đợt 1 từ năm 1965 đến năm 1968, đợt 2 từ năm 1972 đến năm1973) thì miền Bắc kết hợp chiến đấu với sản xuất. Không những thế, miền Bắc còn làm nhiệm vụ to lớn là hậu phương chi viện cả về sức người lẫn sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ngoài ra miền Bắc còn thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Lào và Campuchia. Kết quả là miền Bắc đã giành được thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ trong cả hai đợt. Với những thành quả đó của miền Bắc cùng với những thắng lợi trên chiến trường miền Nam đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán trong hội nghị Paris. Nhân dân miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh chính trị phát triển lên khởi nghĩa (từ năm 1959-1960) rồi chiến tranh giải phóng (từ giữa năm 1961), kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh trải qua năm giai đoạn, lần lượt đánh bại chiến lược thống trị và xâm lược thực dân mới của Đế quốc Mỹ. Từ năm 1954 đến năm 1960, nhân dân miền Nam đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Aixenhao, từ năm 1965 đến năm 1968 đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Giônxơn, từ năm 1969 đến năm 1973 đánh bại về cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Níchxơn khiến “ Mỹ cút”; từ năm 1973 đến năm 1975 đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Níchxơn và Pho làm cho “Ngụy nhào”. Mùa xuân năm 1975 đất nước ta đã đánh đuổi được Đế quốc Mỹ và các thế lực tay sai, giành được những thắng lợi to lớn. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất. Đến đây cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kì mới – thời kì Cách mạng Xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Trong mười năm đầu tiên (1976-1986), nhân dân ta thực hiện hai kế hoạch nhà nước 5 năm từ 1976 đến năm1980 và từ năm 1981 đến năm 1985 do đại hội IV (12/1976) và đại hội V (3/1982) của Đảng đề ra. Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, ta gặp không ít khó khăn, khuyết điểm. Khó khăn của ta ngày 8 càng lớn, sai lầm chậm được sửa chữa đã đưa đất nước đến khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng Xã hội chủ nghĩa tiến lên, Đảng và nhân dân ta phải tiến hành đổi mới. Bên cạnh đó những đổi thay của tình hình thế giới do tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật, cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải tiến hành đổi mới. Như vậy đổi mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội nước ta và đường lối đổi mới của Đảng đã được đề ra từ đại hội VI (1986). Đến năm 2000, năm cuối của thập kỷ XX, nhân dân ta đã thực hiên thắng lợi ba kế hoạch nhà nước năm năm do đại hội VI (12/1986), đại hội VII (6/1991) và đại hội VIII (6/1996) của Đảng đề ra. Từ năm 2000 đến nay nước ta vẫn đang trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nhân dân ta đã và đang đạt được những thành tựu rất quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, quốc phòng an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Mặc dù trong mỗi lĩnh vực còn tồn tại những mặt yếu kém, hạn chế tuy nhiên những gì nhân dân ta đạt được trong thời gian qua đã khẳng định đường lối của Đảng là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới là phù hợp. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, vững bước tiến lên Chủ nghĩa xã hội mang đậm bản sắc Việt Nam. Văn học là tấm gương phản ánh thời đại. Từ 1945 đến nay, đất nước ta có nhiều bước chuyển mình mạnh mẽ, tác động sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc trong đó có văn học nghệ thuật. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, ý thức được vai trò quan trọng của văn hóa, văn nghệ đối với đời sống nhân dân nên trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Đảng và nhà nước đã đưa ra những đường lối văn nghệ với những 9 chủ trương đúng đắn như “văn hóa hóa kháng chiến”, “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt”… góp phần khơi nguồn cảm hứng sáng tạo của nhà văn cũng như của nhân dân và tạo nên những thành tựu đặc sắc của văn nghệ kháng chiến. Sau khi giành được nền độc lập, tự do và thống nhất nước nhà, đất nước ta lại gặp những khó khăn, thử thách mới nhất là khó khăn về kinh tế - hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt ba mươi năm. Tình hình đó đòi hỏi đất nước ta phải đổi mới. Từ năm 1986, với công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa cũng có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với văn hóa nhiều nước trên thế giới. Đất nước bước vào công cuộc đổi mới thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới phù hợp với nguyện vọng của nhân dân cũng như quy luật phát triển khách quan của văn học. Văn học viết nói chung, văn học dân gian nói riêng trong đó có thể loại ca dao luôn bám sát những sự kiện lịch sử dân tộc. Trong ba mươi năm đất nước có chiến tranh (1945 - 1975), ca dao đã hoàn thành nhiệm vụ của nó bằng việc cổ vũ, ngợi ca cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân, ngợi ca công ơn của Đảng và Bác đối với sự nghiệp giải phóng nước nhà… Ngày nay, khi đất nước đã giành lại được hòa bình, văn học nghệ thuật chuyên nghiệp có điều kiện phát triển mạnh mẽ, ca dao vẫn tiếp tục tồn tại và thực hiện nhiệm vụ phản ánh đời sống của mình theo một cách riêng. 1.2. Khái niệm ca dao cổ truyền và vấn đề ca dao hiện đại Cho đến thời điểm hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu đều đã đi đến thống nhất lấy mốc lịch sử tháng Tám 1945 để phân chia văn học dân gian nói riêng và ca dao người Việt nói chung thành hai bộ phận: ca dao người Việt từ 1945 trở về trước (còn gọi là ca dao truyền thống, ca dao cổ truyền) và ca dao người Việt từ 1945 đến nay (hay ca dao mới, ca dao hiện đại). Trong khuôn khổ của luận văn, xin độc giả lưu ý khi tác giả nhắc tới thuật ngữ ca dao đồng nghĩa với thuật ngữ ca dao người Việt. 10 1.2.1. Khái niệm ca dao cổ truyền Về cơ bản mọi vấn đề liên quan đến ca dao cổ truyền đều đã được minh định. Cũng như các sự vật hiện tượng khác, cách hiểu thế nào là ca dao cũng đã có sự vận động, biến đổi trong tiến trình lịch sử. Theo nghĩa gốc thì “ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu” [50. 26], cũng có thời gian người ta đồng nhất ca dao với dân ca khi cho rằng “ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu” [50. 26] Trải qua tiến trình vận động của lịch sử, ca dao ngày càng xa rời với nghĩa gốc ban đầu và ngày nay, nội hàm khái niệm ca dao dần dần đã có sự thu hẹp. Ca dao được hiểu chủ yếu là phần lời của những tác phẩm dân ca và như vậy là ca dao đã tách ra môi trường sáng tạo ra nó một cách độc lập tương đối. Thí dụ: Ba quan một chiếc thuyền nan, Có về với hội gái ngoan tầm chồng. Ba quan một chiếc thuyền rồng, Có về với hội có công đi tìm. Lời ca dao trên được xem là rút từ bài quan họ Bắc Ninh “Mời trầu” với những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi như sau: Ba quan(i) một chiếc (là chiếc) thuyền nan (i), có về (là về) với hội có gái ngoan (gái ngoan); Ba quan (i) một chiếc (là chiếc) thuyền rồng, có về (là về) với hội có cái công (cái công) đi tìm. Như vậy, ca dao cổ truyền (hay ca dao cổ) là khái niệm chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) được sáng tác và sưu tầm chủ yếu từ Cách mạng tháng Tám trở về trước. Chúng tôi tán đồng với ý kiến của nhà nghiên cứu văn học dân gian Hoàng Tiến Tựu khi ông đưa ra một định nghĩa về ca dao một cách khá đầy đủ và cập nhật: “Ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian, là loại thơ dân gian truyền thống có phong cách riêng, được hình 11 thành và phát triển trên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca trữ tình ngắn và tương đối ngắn (đoản ca) của người Việt.” [50. 139-140] 1.2.2. Vấn đề ca dao hiện đại Văn học dân gian hiện đại đã từng là vấn đề gây nhiều tranh luận trong giới nghiên cứu nước ta cũng như giới nghiên cứu ở nhiều nước khác trên thế giới. Bên cạnh một số ý kiến phân vân, thậm chí phủ nhận sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại còn có nhiều ý kiến khẳng định sự tồn tại tự nhiên và vai trò quan trọng của nó trong đời sống xã hội hiện đại. Nhiều năm đã trôi qua kể từ khi vấn đề văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao hiện đại được chính thức nêu ra tranh luận với tư cách là một thông tin khoa học mang tính thời sự, ca dao hiện đại vẫn tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó. Điều đó đã được chứng minh trong thực tế bằng sự xuất hiện một số cuốn sách sưu tầm, nghiên cứu và những bài viết quan tâm tới thể thơ dân gian này. Như vậy, những ý kiến khẳng định sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao hiện đại đã được thử thách qua thời gian. Một điểm đáng lưu ý là vấn đề ranh giới giữa một số thể loại văn học dân gian cổ truyền và văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại nhiều khi chưa có sự phân định rõ ràng. Bởi, mặc dù chúng ta đã thống nhất lấy mốc lịch sử là Cách mạng tháng Tám 1945 để phân biêt hai bộ phận ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại nhưng nếu chúng ta quan niệm những lời ca dao cổ truyền đã sưu tầm ở dạng tĩnh, những lời ca dao cổ truyền vẫn được lưu truyền trong đời sống nhân dân ở dạng động thì sẽ xảy ra hai tình trạng. Thứ nhất là chúng vận động trong môi trường sinh hoạt và những đặc điểm của truyền thống nghệ thuật cũ đã được cải biên. Thứ hai là chúng vận động trong môi trường sinh hoạt nhưng không có sự biến đổi. Vì bộ phận ca dao ở tình trạng thứ hai mặc dù vẫn phát huy sức sống của nó trong môi trường sinh hoạt dân gian đương đại nhưng vẫn giữ nguyên toàn bộ đặc điểm nội dung, hình thức nghệ thuật như nó vốn có trước Cách mạng tháng Tám nên chúng ta không xếp nó vào ca dao hiện đại. 12 Như vậy, những lời ca dao cổ truyền mang những truyền thống nghệ thuật cũ, những lời ca dao hiện đại mang những truyền thống nghệ thuật cũ nhưng đã được cải biên và những truyền thống nghệ thuật mới được định hình trong thời hiện đại. Bên cạnh vấn đề ranh giới giữa ca dao cổ truyền – ca dao hiện đại, ranh giới giữa ca dao hiện đại với thơ của các tác giả chuyên nghiệp và thơ ca trong các phong trào sáng tác văn nghệ quần chúng cũng là một vấn đề đáng lưu ý. Khác với thơ ca của các tác giả chuyên nghiệp, thơ ca nảy sinh trong các phong trào quần chúng thường mang phong cách nghệ thuật riêng, ca dao hiện đại với tư cách là một bộ phận của thể loại sáng tác dân gian nên nó sẽ vận động theo quy luật riêng, mang những truyền thống nghệ thuật của thể loại trữ tình này. Với tư cách là sáng tác dân gian, những lời ca dao hiện đại sẽ mang đặc trưng tập thể. Với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ, những lời ca dao hiện đại sẽ mang những đặc điểm nghệ thuật dân gian truyền thống và vận động theo quy luật của sáng tác dân gian như quy luật kế thừa truyền thống, quy luật chọn lọc tập thể, hay những quy luật vận động biến đổi của lịch sử xã hội. Những lời thơ sau đây mặc dù chưa mang đầy đủ các đặc trưng của sáng tác dân gian truyền thống, nhưng người ta có thể xác định nó là tác phẩm ca dao hiện đại bởi nó mang tâm lý sáng tác tập thể, mang dấu ấn nghệ thuật dân gian truyền thống: Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ em mảnh đất giá ba tỉ đồng. [6] Lời hứa chẳng mất tiền mua Thôi thì cứ hứa cho vừa lòng nhau. [6] Ca dao hiện đại cho tới nay vẫn duy trì một số đặc điểm nghệ thuật của ca dao truyền thống như thể thơ lục bát, cách diễn đạt giản dị, mộc mạc… Tuy nhiên giữa ca dao hiện đại và ca dao cổ truyền cũng tồn tại một điểm khác đó là 13 nội dung phản ánh. Ở bộ phận ca dao cổ truyền, hiện thực đời sống được phản ánh trong các tác phẩm chủ yếu là những vấn đề riêng tư trong cuộc sống lứa đôi. Còn ở bộ phận ca dao hiện đại, tác giả dân gian lại tập trung nhiều hơn vào các vấn đề liên quan tới xã hội, đất nước như vận mệnh dân tộc, xây dựng, Tổ Quốc, các hiện tượng tiêu cực, những thói hư tật xấu trong đại bộ phận quan chức cũng như trong nhân dân. Chúng tôi tán đồng với ý kiến của tác giả cuốn chuyên luận Sự chuyển đổi thi pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại khi tác giả đưa ra một số “dấu hiệu” để trên cơ sở đó, chúng ta có thể nhận diện ca dao hiện đại: “Thứ nhất, ca dao hiện đại là những lời thơ mang đặc điểm nghệ thuật dân gian truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời sống của nhân dân ta trong thời kì hiện đại. Thứ hai, ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang tâm lý sáng tác tập thể. Đối tượng được phản ánh trong các tác phẩm là những hiện tượng đời sống gây tác động vào một tập thể nhất định chứ không chỉ ảnh hưởng vào từng cá nhân. Thứ ba là ca dao hiện đại có thể ra đời từ nhiều nguồn khác nhau như: từ những lời thơ mô phỏng các sáng tác của các tác giả chuyên nghiệp, của các phong trào văn hóa văn nghệ nghiệp dư, trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Điều quan trọng là những lời thơ ấy phải được lưu truyền rộng rãi trong dân gian bằng các phương thức truyền miệng, mang ý nghĩa thẩm mỹ của tính truyền miệng, thích hợp với nghệ thuật diễn xướng dân gian.” [32. 87-88] Ba “dấu hiệu” trên cũng chính là những tiêu chí chúng tôi sử dụng khi sưu tầm và phân loại ca dao hiện đại. Như ở trên chúng tôi đã đề cập, ca dao hiện đại là ca dao ra đời sau 1945 – năm đánh dấu bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử nước nhà và cũng là năm đánh dấu sự thay đổi lớn lao của văn học viết, văn học dân gian nói chung 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan