Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nghiên cứu hát ru người việt dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian...

Tài liệu Luận văn nghiên cứu hát ru người việt dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian

.PDF
100
123
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -----***----- DƢƠNG THÙY NGA NGHIÊN CỨU HÁT RU NGƢỜI VIỆT DƢỚI GÓC ĐỘ VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC DÂN GIAN Chuyên ngành: Văn học dân gian Mã số: 60220125 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn: PGS. TS Nguyễn Thị Huế Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hà Nội, tháng 2 năm 2014 Tác giả luận văn Dƣơng Thùy Nga LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Thị Huế, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Văn học, khoa Sau đại học, cán bộ phòng Quản lý khoa học trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới bạn bè, đồng nghiệp cùng gia đình và những người thân đã động viên, quan tâm, chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khóa học này. Hà Nội, tháng 2 năm 2014 Tác giả luận văn Dƣơng Thùy Nga MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 4 1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu ..................................................................... 4 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 6 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................... 11 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 12 5. Đóng góp của luận văn............................................................................ 12 6. Cấu trúc luận văn .................................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 14 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÁT RU VÀ HÁT RU NGƢỜI VIỆT ............................................................................................................... 14 1.1.Khái niệm về hát ru và dạng thức của hát ru .................................. 14 1.1.1. Khái niệm về hát ru ....................................................................... 14 1.1.2. Dạng thức của hát ru và hát ru người Việt ................................... 16 1.2. Đặc điểm của hát ru ........................................................................... 16 1.2.1. Hát ru là một loại hình sinh hoạt dân ca vừa có tính phổ biến vừa có tính địa phương .................................................................................. 16 1.2.2. Hát ru là loại hinh sinh hoạt văn hóa có tính điển hình ............... 19 1.3. Môi trƣờng diễn xƣớng, đối tƣợng đƣợc ru và ngƣời thực hành hát ru .... 25 1.3.1. Môi trường diễn xướng của hát ru ................................................ 25 1.3.2. Người thực hành hát ru ................................................................. 32 1.3.3. Đối tượng được ru ......................................................................... 36 Tiểu kết chƣơng 1 ...................................................................................... 39 Chƣơng 2: HÁT RU TRONG ĐỜI SỐNG, NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT PHẢN ÁNH CỦA HÁT RU NGƢỜI VIỆT ................................ 40 2.1. Hát ru trong đời sống dân gian ......................................................... 40 2.2. Nội dung của hát ru ngƣời Việt ........................................................ 41 2.2.1. Hát ru người Việt với nội dung về thiên nhiên, vũ trụ .................. 42 1 2.2.2. Hát ru người Việt với nội dung về đời sống văn hóa, phong tục tập quán, lịch sử đất nước ............................................................................. 49 2.3. Nghệ thuật của hát ru ngƣời Việt ..................................................... 54 2.3.1.Ngôn ngữ, giai điệu và yếu tố âm nhạc của hát ru ........................ 54 2.3.2. Các biện pháp nghệ thuật (thể thơ, ngôn ngữ, gieo vần, so sánh, tượng trưng, nhân hóa...) của hát ru người Việt ..................................... 58 Tiểu kết chƣơng 2 ...................................................................................... 69 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ VÀ BẢO TỒN HÁT RU NGƢỜI VIỆT ................. 70 3.1. Giá trị và ý nghĩa của hát ru ngƣời Việt .......................................... 70 3.1.1 Giá trị về văn hóa, nghệ thuật của hát ru ...................................... 70 3.1.2. Ý nghĩa giáo dục của hát ru .......................................................... 71 3.2. Hiện trạng bảo lƣu câu hát ru của ngƣời Việt ................................ 77 Tiểu kết chƣơng 3 ...................................................................................... 78 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT KHXH: Khoa học xã hội Nxb: Nhà xuất bản GS: Giáo sư PGS: Phó giáo sư TS: Tiến sĩ TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh VHNT: Văn học nghệ thuật 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu Văn hóa Việt Nam là sự tổng hòa phong phú văn hóa của 54 dân tộc anh em. Trong sự đa dạng và phong phú đó có những làn điệu hát ru đang dần đi vào quên lãng từ người Kinh đến các dân tộc thiểu số ở nước ta. Hát ru là những lời hát có chức năng giáo dục, thẩm mỹ cao góp phần hình thành và phát huy nuôi dưỡng tâm hồn trẻ nhỏ. Với người Kinh hát ru như một ký ức tuổi thơ mà không ai có thể quên trong ký ức của mình, qua lời ru của bà, của mẹ hình ảnh vầng trăng, cánh cò, dòng sông, cánh đồng, lũy tre làng nó đã được in sâu vào tâm hồn trẻ thơ. Bằng những lời ru êm ả tha thiết của bà, của mẹ đã gieo vào tâm thức tuổi thơ những ký ức và hình ảnh tốt lành về lòng nhân ái, đạo lý làm người, tình yêu quê hương, đất nước. Nghệ thuật hát ru và những bài hát ru không chỉ mang tính di sản văn hóa mà còn là nguồn mạch quan trọng, có ý nghĩa nhân văn tiêu biểu của gia đình Việt Nam, là mạch nguồn của sự sống nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, giáo dưỡng nhân cách hồn nhiên, trong sáng, trọng lẽ phải, trọng đạo hiếu nghĩa cho trẻ từ khi lọt lòng. Hát ru là một bộ phận nằm trong kho tàng văn học dân gian truyền thống quý giá của dân tộc với rất nhiều ý nghĩa nội dung và giá trị trong đời sống thực tiễn xưa. Hát ru là loại hình văn hóa dân gian phi vật thể có từ lâu đời, được lưu truyền phổ biến trong các dân tộc Việt Nam và thế giới. Với mỗi con người, kí ức sâu đậm về thời thơ ấu chính là lời ru của bà, của mẹ, của chị...gắn với những hình ảnh gần gũi và quen thuộc như cái nôi, cái võng, chiếc địu êm trên lưng mẹ. Lời ru ấy như đưa tâm hồn ta đến một chân trời mới, vừa xa lại vừa gần gũi, vừa nhẹ nhàng mà lại đằm thắm thiết tha ấm áp tình người. 4 Hát ru là một nét văn hóa truyền thống của người Việt và của nhiều tộc Việt Nam. Hát ru góp phần rất lớn trong việc hình thành tính cách và bản lĩnh người, đây là một tài sản văn hóa quý, rất cần được lưu giữ để truyền lại cho đời sau, nhằm góp phần khẳng định tính dân tộc của nền văn hóa. Cùng với ca dao, dân ca, hò vè, hát ru là những hình thái văn hóa, từng khẳng định thế mạnh của cái nôi văn hóa dân gian Việt Nam. Tuy nhiên, để bảo tồn, phát huy kho tàng văn hóa dân gian này trong đời sống hiện nay không dễ! Kho tàng ca dao, dân ca, hò vè trong đó có hát ru, là một bộ phận của nền văn học dân gian Việt Nam. Kho tàng ca dao, dân ca, hò vè đặc biệt là hát ru vẫn còn tiềm ẩn trong dân gian rất phong phú, giàu có cả về chủ đề lẫn số lượng tác phẩm, từng một thời rất phổ biến trong sinh hoạt, nhưng hiện nay trước sự xâm nhập ào ạt của các dòng văn hóa đến từ phương Tây đang có nguy cơ bị mai một nếu chúng ta không nhanh chóng sưu tầm, không có ý thức lưu giữ và phát huy. Là một người theo học ngành sư phạm, hiện là giáo viên giảng dạy về bộ môn văn học, tác giả luận văn muốn thông qua việc tìm hiểu về hát ru, từ đó góp phần bồi dưỡng tâm hồn và ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ, đặc biệt là các em học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường. Thực tế, trong nhiều năm qua đã có nhiều nhà sưu tầm biên soạn, nhiều cơ quan, tổ chức nghiên cứu đã cho ra đời được khá nhiều các cuốn sách, các chuyên luận về ca dao, dân ca, hò vè, nhưng về thể loại hát ru rất ít được đề cập đến, nếu chúng ta không lưu giữ và phát huy chức năng ứng dụng, thực hành của thể loại hát ru sẽ là một thiệt thòi lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà. 5 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Hát ru là bộ phận trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam - một trong những thể loại phong phú và hấp dẫn nhất của văn học dân gian do dân chúng sáng tác, thưởng thức, lưu truyền từ xa xưa đến nay. Trong nhiều cuốn sách trước đây viết về văn học dân gian, thường có quan niệm: “Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao động” hay “Văn học dân gian là một hình thái ý thức xã hội”. Nhiều tác giả cho rằng, văn học dân gian ra đời từ thời kì công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại ngày nay. Vì thế nên ta rất khó có thể khẳng định rằng, hát ru ra đời khi nào, mà ta chỉ có thể nói hát ru ra đời khi có hình thái ý thức xã hội. Đã có nhiều công trình sưu tầm, nghiên cứu về hát ru ở các góc độ khác nhau. 2.1. Các sách sưu tầm, biên soạn về hát ru Năm 1991, cuốn Những bài hát ru (Nxb Văn nghệ TPHCM) của Lê Giang và Lê Anh Trung biên soạn được công bố. Nội dung sách có ba phần: Phần I – Hát ru, được chia theo các nội dung như: Lời của ông bà cha mẹ; Lời ru của chị; Ru cho tình yêu; Lời ru chồng vợ; Ru cho tình đời, tình người. Đi kèm là những làn điệu hát ru ba miền Bắc, Trung, Nam được ký âm trên bản nhạc. Phần II – Nói thơ được chia theo bài: Mẹ dạy con bài 1, Mẹ dạy con bài 2. Phần III – Phụ lục các bài vè… Ngoài ra, cuốn sách còn có hai bài viết về vai trò hát ru của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu và Lư Nhất Vũ. Năm 2001, cuốn Ru em, Em ngủ (Nxb Kim Đồng), nhiều tác giả sưu tầm và dịch, bao gồm lời các bải hát ru của các dân tộc như Dao, Lô Lô, Mông, Tày, Thái (Nghệ An, Thanh Hóa, Tây Bắc), Mường, Chăm, Cơ Ho, Cơtu, Êđê, Giarai, Hrê, Khơme (Nam Bộ) và dân tộc Kinh… Năm 2004, cuốn Lòng mẹ lời ru (Nxb Âm Nhạc) do tác giả Đào Ngọc Dung sưu tầm tuyển chọn, là nhũng bài hát ru có bản nhạc được chia làm ba 6 phần. Phần I là 55 ca khúc sáng tác mới mang chủ đề hát ru hoặc lấy chất liệu của hát ru để sáng tác của rất nhiều nhạc sĩ như: Đất nước lời ru của nhạc sĩ Văn Thành Nho; Mẹ yêu con của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý; Tìm về lời ru của nhạc sĩ Đào Đăng Hoàn; Khúc hát ru của người mẹ trẻ, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Nhạc sĩ Phạm Tuyên; Ru con mùa đông của nhạc sĩ Đặng Hữu Phúc… Phần II của cuốn sách là tập hợp những bài hát ru dân ca của các dân tộc như: Hát ru con dân ca Dao; Ngủ đi con dân ca Thái; Ru con, Ru em dân ca Tày; Hát ru dân ca Phú Thọ, dân ca Bắc Bộ, dân ca Hà Nam; Ru con dân ca Hà Tĩnh, dân ca GiaRai, dân ca Nam Bộ, dân ca Khơ-me… Phần III là những khúc hát ru nước ngoài như: Ru em của nhạc sĩ Lullaby Brahms; Khúc hát ru con của nhạc sĩ Franz Schubert; Lời ru đến muôn đời của nhạc sĩ Felix Mendelssohn. Năm 2006, cuốn Hát ru ba miền (Nxb Phụ nữ) của tác giả Lệ Vân, giới thiệu sưu tầm lời ca các bài hát ru ba miền Bắc – Trung – Nam gồm lời cổ và lời mới. Cuốn sách còn một số ý kiến của các giáo sư như GS Trần Văn Khê, Phan Đăng Nhật, Trần Ngọc Sương về nghệ thuật hát ru của Việt Nam. Năm 2006, cuốn Bảo xích – Giữ gìn con đỏ (Nxb Phụ nữ) của Trần Quốc Thịnh sưu tầm và chú giải, được chia làm hai phần. Phần I là những lời giáo dục con cái, nhũng người vợ, người mẹ, người chị, người em với nội dung khuyến thiện, tính nhân đạo, tính thẩm mỹ của những câu hát ru. Phần II cuốn sách là những sưu tầm tuyển chọn những lời hát ru. Năm 2010, cuốn Mẹ ru bé ngủ à… ơi…(Nxb Phụ nữ) của tác giả Lê Thanh Nga tuyển soạn, gồm hai phần. Phần I: Những lời hát ru đồng dao được chia thành các chủ đề: Những lời hát ru công cha nghĩa mẹ; những lời ru về tình cảm gia đình; những lời hát đồng dao. Phần II; Những bài thơ hay dùng để ru gồm những bài thơ mới viết ở thể lục bát của nhiều tác giả được lựa chọn như “Bầm ơi, Tiếng ru” của nhà thơ Tố Hữu. “Thề non nước” của nhà thơ Tản Đà, “Nghe khúc hát Trương Chi” của Ngô Thụy Miên… 7 Năm 2012, cuốn 999 bài hát ru ba miền (Nxb Văn hóa thông tin) của tác giả Cao Hoàng Long sưu tầm biên soạn, cuốn sách giới thiệu 999 lời hát ru đặc sắc ba miền Nam – Trung – Bắc. Năm 2012, cuốn Hát ru Việt sử thi ( Nxb Tổng hợp TPHCM) của tác gải Phạm Thiên Thư. Cuốn sách gồm 3.277 câu lục bát thuần Việt. Từng sự kiện lịch sử tiêu biểu, từng chiến công hào hùng được chuyển tải đến người đọc bằng những câu thơ giàu hình tượng, nhiều so sánh ẩn dụ, với lối kể chuyện mộc mạc, có duyên, làm đọc giả dễ thuộc, dễ nhớ như: Hát ru Trưng Vương, Hát ru Thăng Long… Các công trình trên là những tư liệu quý, chứa đựng số lượng phong phú các lời ru truyền thống của các dân tộc và các bài hát ru mới sáng tác của các nhạc sĩ trong và ngoài nước. 2.2. Các công trình, bài viết nghiên cứu về hát ru Năm 1986 cuốn Lời ru của mẹ (Nxb TPHCM) của nhà văn Mai Văn Tạo được công bố, gồm những nghiên cứu và ý kiến đánh giá của tác giả, thông qua lời tự bạch của tác giả bằng những câu chuyện kể súc tích và sinh động, những kỷ niệm tuổi thơ và bằng những so sánh, phân tích, nhà văn đã giúp người đọc hiểu được vai trò, giá trị to lớn của tiếng hát ru đối với cuộc đời mỗi con người. Năm 1987, cuốn Mẹ hát ru con của tác giả Nguyễn Hữu Thu (Nxb Phụ nữ) được chia làm hai phần: Phần I của cuốn sách cho ta thấy đặc trưng thể loại và chức năng của hát ru, trong đó nêu rõ vị trí, ý nghĩa xã hội của hát ru, vai trò của hát ru đối với giáo dục trẻ thơ. Phần II của cuốn sách là phần sưu tầm lời hát ru được tập hợp theo từng chủ đề: Những câu hát về nuôi dạy con; những câu hát công cha nghĩa mẹ; những câu hát về thiên nhiên… Năm 1992, cuốn Kỷ yếu hội thảo hát ru toàn quốc lần thứ nhất tại Huế do Viện Âm nhạc và múa, Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam xuất bản, 8 bao gồm các bài tham luận với các góc nhìn bao quát về hát ru, trong đó một số bài tham luận có giá trị về nghiên cứu phục hồi và bảo tồn hát ru. Năm 1996, công trình Hát ru dỗ ngủ người Việt là luận văn Thạc sĩ Âm nhạc học của Bùi Huyền Nga, Học viện âm nhạc Quốc gia Việt Nam nghiên cứu nội dung hình thức và cấu trúc của lời ru, mối quan hệ giữa người ru với đối tượng tiếp nhận và môi trường diễn xướng của hát ru, với ý nghĩa xã hội, sự tác động của hát ru tới hình thành nhân cách trẻ, Năm 2005, cuốn Hát ru Việt Nam (Nxb trẻ, TPHCM) của nhóm tác giả Lư Nhất Vũ và Lệ Giang xuất bản, cho thấy một góc nhìn tương đối thấu đáo về hát ru dưới góc độ nhạc học. Các tác giả đã giới thiệu 152 bài hát ru có ký âm của người Việt ba miền Bắc – Trung – Nam và các dân tộc thiểu số. Nội dung cuốn sách gồm lời giới thiệu của GS nhạc sĩ Tô Vũ, tiểu luận của Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ giới thiệu tổng quan về kiểu cách hát ru của người Việt, nghiên cứu các làn điệu hát ru của dân tộc thiểu số. Ngoài phần ký âm các làn điệu hát ru, cuốn sách còn tập hợp một số bài bình khá sâu sắc của các học giả như: GS Trần Văn Khê, nhà thơ Xuân Diệu, nhà thơ Nga nổi tiếng Rasum Gamzatốp, Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, PGS Ngọc Tú… Phần phụ lục tập hợp 34 ca khúc tiêu biểu lấy hát ru làm đề tài và chất liệu để sáng tác bài hát ru mới. Công trình hát ru “Hát ru Việt Nam” này đã đoạt giải nhất của Hội nhạc sĩ Việt Nam năm 2005 về thể loại tác phẩm nghiên cứu. Cho đến nay đó vẫn là công trình công phu, đầy đủ nhất về hát ru của người Việt. Năm 2006, cuốn Hành trang gia đình trẻ (Nxb Thanh niên) xuất bản, là cuốn sách tập hợp nhiều bài tham dự hội thảo “Giao lưu tiếng hát ru – Hành trang gia đình trẻ” với thành phần các tác giả đang làm việc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như ca sĩ, cán bộ nghiên cứu, quản lý văn hóa, bác sĩ, cô giáo và các nhà chuyên môn như nhạc sĩ Phạm Tuyên, TS Lê Văn Toàn, ... Các bài viết cho cái nhìn tổng quan từ nhiều góc độ về vai trò, giá trị của hát ru trong 9 xã hội, thực trạng hát ru hiện nay, những biện pháp cho việc bảo tồn hát ru, v.v và v.v… Năm 2010, tác giả Bùi Trọng Hiền với bài viết Hát ru, đồng dao in trong tuyển tập 1000 năm âm nhạc Thăng Long Hà Nội (quyển II, Nxb Âm nhạc). Bài viết cho người đọc thấy được cái nhìn tổng thể về hát ru của người Kinh ba miền Bắc – Trung – Nam với các cấu trúc ba làn điệu khác nhau, phù hợp với thanh điệu và thẩm mỹ âm điệu từng nơi. Nhưng cả ba làn điệu đều có cấu trúc đồng dạng với ba phần của một bài hát ru, lời ca, nhịp điệu tiết tấu, cách hát, nội dung các bài hát ru, tính thực hành xã hội… Bài viết là những phân tích đầy đủ và dễ hiểu về hát ru của người Kinh, thêm vào đó là những minh họa một số lời ru thông dụng. Năm 2011, luận văn Văn hóa học về đề tài Hát ru trong đời sống nông thôn Bắc Bộ hiện nay do Thạc sĩ Phạm Thị Thu Hiền thực hiện (Học viện Khoa học xã hội), đã chỉ ra đặc điểm, mối quan hệ của các thành tố của hát ru Bắc Bộ, vai trò, vị trí và ý nghĩa của hát ru trong đời sống nông thôn Bắc Bộ hiện nay (qua khảo sát ở xã Trường Yên – Hoa Lư – Ninh Bình), từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn hát ru. Ngoài ra ở một số sưu tập như cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan (NXB Văn học, tái bản nhiều lần), cuốn Tục ngữ câu đố ca dao dân ca Việt Nam của Mã Giang Lân, Lê Chí Quế (Nxb. Đại học tổng hợp), cuốn Ca dao trữ tình Việt Nam của Vũ Dung, (Nxb. GD, 1994), cuốn Văn học dân gian những công trình nghiên cứu của Bùi Mạnh Nhị (Nxb. GD)…cũng giới thiệu một số đơn vị lời hát ru. Hát ru là vốn quý ngàn đời của dân tộc Việt Nam nhưng số lượng các cuốn sách sưu tập, nghiên cứu về hát ru còn chưa nhiều, nội dung chủ yếu dừng lại ở khía cạnh giới thiệu đôi nét khái quát mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách chuyên biệt. 10 Vì vậy bước đầu đặt vấn đề nghiên cứu về hát ru, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nghiên cứu hát ru người Việt dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Trong nền văn hóa dân gian, hát ru đã xuất hiện từ lâu đời , qua nhiều thời đại, được lưu truyền ở nhiều địa phương. Người ta cất tiếng hát ru là để ru con, ru cháu, ru em và ru chính mình lịm vào dòng suối ngọt ngào của tuổi thơ. Từ đó, trong tâm hồn mỗi người luôn mang nặng hình ảnh quê hương và quãng đời thơ ấu trên võng hoặc bên nôi lặng nhìn vào giọt máu của mình đung đưa với những câu hát ru êm đềm say đắm hồn nhiên mà bất tử hơn bất kỳ loại nhạc nào. Và cũng từ đó, người ta đã mượn hát ru để dạy con, cháu học, làm và sống theo ý nghĩa trong những câu hát giản dị nhưng mang ý nghĩa và tính giáo dục vô cùng sâu sắc. Vì thế, đề tài “Nghiên cứu hát ru người Việt dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian” hướng tới việc tìm hiểu đầy đủ hơn nội dung, giá trị hát ru dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian, để từ đó giúp nâng cao ý thức bảo tồn và phát huy di sản qúy báu này. 3.2. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là phần lời, phần ca từ hát ru của người Việt ba miền Bắc - Trung - Nam. - Xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề khá quan trọng cho việc thành công của đề tài. Ở đề tài này, người nghiên cứu sẽ giới hạn vào việc nghiên cứu hát ru người Việt dưới góc độ văn hóa và văn học dân gian nhằm giữ gìn và phát huy những thành tựu của chúng trong kho tàng văn học dân gian truyền thống quý giá của dân tộc ta. 3.3. Phạm vi nghiên cứu 11 - Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn ở phương diện ca từ, tức là trên góc độ văn học, ngôn ngữ học là chủ yếu còn tìm hiểu hát ru ở các phương diện nhạc lí là rất ít. Đồng thời phạm vi nghiên cứu cũng chỉ áp dụng với các đối tượng các làn điệu hát ru truyền thống của người Việt ở một số vùng miền chứ không áp dụng với các bài hát ru thời hiện đại. - Phạm vi tư liệu nghiên cứu + Các công trình sưu tập về hát ru đã công bố, các bài báo, các tài liệu, thông tin trên internet, kế thừa và phát huy kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước liên quan đến hát ru. + Tham khảo thêm các bộ sưu tập ca dao của người Việt, cụ thể là tập Ca dao (tập 15 và 16) trong bộ Kho tàng văn học dân gian người Việt do Nguyễn Xuân Kính chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003) + Một số câu hát ru, bài ca dao dùng để hát ru khá phổ biến và quen thuộc do tác giả luận văn sưu tầm trong quá trình thực hiện đề tài. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Đề tài chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên cứu văn bản văn học đối với các tác phẩm hát ru. Từ cách tiếp cận những lời hát ru của một số vùng miền sẽ chỉ ra hình thức, nội dung cũng như sự tác động, ảnh hưởng của hát ru đối với đời sống tâm hồn con người. - Bên cạnh đó là các phương pháp văn hóa học, phương pháp thống kê, đối chiếu, phương pháp phân tích, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian. 5. Đóng góp của luận văn - Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cho ta hiểu rõ về khái niệm, chức năng, mục đích và đối tượng phục vụ của hát ru. 12 - Chỉ ra nội dung thể hiện của hát ru người Việt gắn với môi trường sinh hoạt ở ba miền Bắc – Trung – Nam dưới góc độ văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. - Từ thực trạng hát ru của người Việt, chỉ rõ giá tri nghệ thuật và ý nghĩa giáo dục của hát ru của người Việt nói riêng và các dân tộc Việt Nam nói chung để từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy di sản văn học dân gian này. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, cấu trúc của luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1: Khái quát chung về hát ru người Việt Chƣơng 2: Hát ru trong đời sống, nội dung và nghệ thuật phản ánh của hát ru người Việt Chƣơng 3: Giá trị và bảo tồn hát ru người Việt 13 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÁT RU VÀ HÁT RU NGƢỜI VIỆT 1.1.Khái niệm về hát ru và dạng thức của hát ru 1.1.1. Khái niệm về hát ru Xét về lịch sử ra đời, chưa có một nhà nghiên cứu nào khẳng định thời điểm ra đời của hát ru mà họ đều cho rằng hát ru là một trong nhưng thể loại âm nhạc dân gian ra đời từ rất sớm, bốn thiên niên kỷ trước, người Babylon cổ đã bắt đầu sáng tác những bài hát ru như một món quà mà người mẹ dành cho đứa con của mình. Đó là một phương tiện hữu ích đưa em bé vào giấc ngủ, bằng những giai điệu riêng biệt. Người ta đã tìm thấy lời bài hát ru đầu tiên với niên đại khoảng khoảng 2.000 trước Công nguyên được khắc trên một phiến đất sét nhỏ vừa vặn lòng bàn tay. Bài hát được viết dưới dạng chữ hình nêm, bút viết làm bằng cây sậy. Ở Việt Nam, hát ru cũng được nghiên cứu từ nhiều năm trước, song để có một mốc son cụ thể để đánh dấu sự ra đời của hát ru thì chưa một nhà nghiên cứu nào dám khẳng định. Tồn tại song song với lịch sử ra đời của hát ru là khái niệm về thể loại này. Một khái niệm rất ngắn gọn: “Hát ru là điệu hát dân gian dùng để ru trẻ ngủ, âm điệu êm ái, thiết tha, đồng thời biểu lộ tình cảm, tâm sự một cách nhẹ nhàng” [14, tr.405]. Trích: “Từ điển Tiếng Việt’’, NXB Thanh Niên, (Lê Thị Huyền – Minh Trí). Một khái niệm khác của nhạc sĩ Tô Vũ thể hiện rất rõ về chức năng của hát ru: “Hát ru, như tên gọi, đã có nguồn gốc nguyên sơ một chức năng hết sức rõ ràng: hát (để) ru (con ngủ)”. [ 54, tr.42] Nhận thức về đặc trưng của hát ru, Lê Văn Chưởng trong cuốn Dân ca Việt Nam những thành tố của chỉnh thể nguyên hợp đã viết: “ Ru là lối diễn xướng phổ nhạc vào những bài thơ theo âm ngũ cung, chủ yếu là thơ dân gian 14 với những thể lục bát, lục bát biến thể… để đưa trẻ vào giấc ngủ. Ru là một lối hát dân gian, miền Bắc gọi là hát ru, ở Bình Trị Thiên gọi là hò ru, bởi vì nơi đây ru theo làn điệu hò. Thông thường thì mẹ ru con nhưng có khi bà ru cháu, chị ru em… chủ yếu là mẹ ru con, nhưng ru cũng là cách để mẹ giãi bày tâm sự, ru cảnh ngộ của mình.” [4, tr.34] Trong Hát ru Việt Nam, Vũ Ngọc Phan viết: “Hát ru được phổ biến khắp trong nước, mỗi miền hát ru một cách khác nhau, nhưng có chung một phong thái là đều ngân nga, êm dịu. Nội dung của những bài hát ru rất phong phú, có thể là những cảnh vật xinh xinh, những ý nghĩ thơ ngây phù hợp với tuổi nhỏ, nó cũng có thể là tình cảm thắm thiết của người phụ nữ biểu lộ trong bài ca phù hợp với tâm tình người hát, nó cũng có thể là tư tưởng đả kích giai cấp phong kiến. Hát ru em đều là những bài ca dao sẵn có, người hát tự thêm tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi, tùy theo từng điệu hát đưa em ở mỗi miền. Hát ru em thường là lục bát thông thường hay lục bát biến thể”. [34, tr.433] Hoặc theo nhạc sĩ Phạm Phúc Minh trong Tìm hiểu dân ca Việt Nam thì: “Hát ru hay gọi ru con hoặc ru em là một lối hát theo tập quán truyền thống và rất phổ biến ở các vùng, các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước. Tuy mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có điệu hát ru được gọi bằng những tên khác nhau và nét nhạc cũng mang màu sắc riêng, nhưng có những đặc điểm chung như: nét nhạc êm dịu, du dương, trìu mến, tiết tấu êm dịu, nhẹ nhàng, lời ca giàu hình tượng, dạt dào tình yêu thương tha thiết đối với em thơ, tất cả những yếu tố đó đã như đôi cánh nhẹ nhàng đưa em bé vào tổ ấm với giấc ngủ ngon lành. Đối với những người lớn, hoặc những thanh thiếu niên khi nghe hát ru ít nhiều được sưởi ấm, vỗ về bằng những tình cảm trìu mến của thời bé thơ, đều có cảm giác gợi nhớ những kí ức xa xưa, những tình cảm yêu thương thắm thiết cao đẹp của những người thân trong gia đình”. [22, tr.196] 15 Từ những nhận định trên cho thấy, hát ru là những bài hát trước hết dùng cho việc dỗ trẻ ngủ, có tiết tấu nhẹ nhàng, nét nhạc êm dịu du dương. Phần lớn lời ca hát ru được lấy từ tục ngữ, ca dao, đồng dao, hay chính từ những bài dân ca, được sáng tác theo thể thơ lục bát hay lục bát biến thể, nội dung phong phú, giàu hình tượng. Hát ru mang đậm nét đặc trưng văn hóa của mỗi vùng quê, mỗi dân tộc và được lưu truyền qua nhiều thế hệ và thường gắn liền với hình ảnh người phụ nữ. 1.1.2. Dạng thức của hát ru và hát ru người Việt Theo các nhà nghiên cứu đi trước, hát ru là của người Việt được đặt trong loại hình trữ tình và cụ thể hơn hát ru nằm trong mảng dân ca sinh hoạt, hát ru thường có hai dạng cơ bản: - Loại thứ nhất mang tính chất hát nói – ngâm ngợi, ra đời trước. Nội dung lời ca có tính chất ngụ ngôn sử dụng hình ảnh những con vật thân thuộc, gần gũi với cuộc sống của người nông dân như con cò, con vạc, con tôm, con kiến, con mèo… - Loại thứ hai mang tính chất ca xướng (ca khúc dân gian) xuất hiện muộn hơn. Nội dung của những bài hát ru loại này thường diễn đạt trực tiếp tâm tình của người hát. Về âm nhạc, đôi khi là sự cải biên từ các làn điệu dân ca. 1.2. Đặc điểm của hát ru 1.2.1. Hát ru là một loại hình sinh hoạt dân ca vừa có tính phổ biến vừa có tính địa phương Hát ru nằm trong dân ca sinh hoạt, nội dung cũng gần gũi với đồng dao, nhưng hát ru mang âm điệu buồn hơn. Đã từ lâu, những người nuôi trẻ nhỏ khắp trên thế giới đã biết dỗ chúng ngủ bằng cách hát ru con. Hát ru là những bài hát nhẹ nhàng đơn giản giúp trẻ con ngủ. Phần lớn các câu trong bài hát ru con lấy từ ca dao, đồng dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò dân gian được truyền miệng từ bà xuống mẹ, thế hệ trước sang thế hệ sau. Do đó, 16 những bài hát này rất đa dạng, mang tính chất địa phương, gần như mỗi gia đình có một cách hát riêng biệt. Nhịp điệu của bài hát ru thường đem lại cảm giác "an toàn" cho tr ẻ có thể là vì đã làm nhớ lại nhịp điệu tim đập mà trẻ nghe được từ những ngày tháng còn nằm trong lòng mẹ. Giọng nói, tiếng ru của mẹ bên tai cho trẻ biết đang được người bảo bọc, chở che. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy ru bằng những nguyên âm không thành câu dễ làm trẻ ngủ hơn là hát thành bài có câu cú rõ rệt. Dưới góc độ khoa học thì hát ru là những kích thích rất có lợi không những với sự phát triển ngôn ngữ, tâm lí, sinh lí mà còn cả phát triển thể chất nữa. Đó là sự kích thích tiền đình và nhiều người đã xác nhận rằng những trẻ hằng ngày được kích thích bằng hát ru (khoảng 10 phút) thì phản xạ vận động tốt hơn nhiều so với trẻ không được nghe hát ru. Với hát ru, thường chỉ chú ý đến lời (ca từ) còn giai điệu (nhạc lý) thì mỗi bà mẹ có một giọng trữ tình riêng nhưng vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong suốt cả cuộc đời người con. Trong hát ru, lời ca thường lấy từ ca dao, đồng dao, hay trích từ các loại thơ hoặc hò dân gian được truyền miệng qua các thế hệ rất phổ biến trong dân gian. Trên thế giới, hát ru dường như là những thể loại không thể thiếu ở hầu khắp các dân tộc. Xét về ngôn ngữ, mỗi vùng miền lại có những bài hát ru khác nhau, vừa đa dạng nội dung và điệu nhạc vừa mang đặc trưng riêng của từng vùng miền. Đi dọc chiều dài đất nước, ta thấy có rất nhiều làn điệu hát ru ứng với 3 miền Bắc- Trung- Nam, in đậm dấu ấn thổ ngữ mỗi vùng. Hát ru ở Bắc Bộ tiêu biểu ta thấy có những bài như Con cò mà đi ăn đêm À …ơi … à…ơi ... Con cò mày đi ăn đêm Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan