Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết tô hoài...

Tài liệu Luận văn nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết tô hoài

.PDF
109
125
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ NGA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội-2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- MAI THỊ NGA NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT TÔ HOÀI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG Hà Nội-2012 2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tà 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Cấu trúc của luận văn NỘI DUNG 2 2 3 5 6 6 7 Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Tô Hoài 1.1. Khái lược về nghệ thuật tự sự 1.1.1. Tự sự 1.1.2. Tự sự học 1.2. Hành trình sáng tác của Tô Hoài 1.2.1. Sơ lược tiểu sử 1.2.2. Hành trình sáng tác 1.2.3. Tiểu thuyết của Tô Hoài 7 7 7 8 10 10 11 14 Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật 2.1. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 2.1.1. Cốt truyện sự kiện trong tiểu thuyết của Tô Hoài 2.1.2. Tổ chức diễn biến cốt truyện trong tiểu thuyết Tô Hoài 2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 2.2.1. Khắc họa nhân vật qua các chi tiết 2.2.2. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình và hành động 2.2.3. Khắc họa nhân vật qua biểu hiện nội tâm và ngôn ngữ 18 18 19 27 37 39 44 56 Chương 3: Người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật 3.1. Người kể chuyện trong tiểu thuyết của Tô Hoài 3.1.1. Người kể chuyện 3.1.2. Điểm nhìn trần thuật 3.1.3. Giọng điệu trần thuật 3.1.3.1. Giọng dửng dưng lạnh lùng, pha chút mỉa mai, châm biếm 3.1.3.2. Giọng điệu trữ tình, ấm áp, tươi vui 3.1.3.3. Giọng điệu dí dỏm, hài hước. 3.2. Ngôn ngữ trần thuật 67 67 67 74 79 80 81 84 86 4 3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính tạo hình 3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính khẩu ngữ 3.2.3. Lớp ngôn từ gợi không khí một thời 87 92 96 101 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trên 60 năm “phiêu lưu” qua hơn 20 quốc gia Dế Mèn phiêu lưu ký vẫn là tác phẩm được yêu thích của bạn đọc. Và thật may mắn khi cha đẻ của nó mặc dù đã qua tuổi 90 vẫn ung dung, hóm hỉnh nụ cười với thế thái nhân tình. Trời cho Tô Hoài vốn sức khỏe và chính ông làm cho vốn ấy ngày càng có lãi. Hơn ai hết Tô Hoài hiểu lao động là hạnh phúc. Mỗi ngày với ông không một chút lãng phí, không một giây nào không có ý nghĩa. Khi tuổi còn đang ở độ hừng hực ông “viết như là chạy thi”; khi đã đủ chín chắn và muốn hiểu thêm về những cuộc đời, những vùng miền ông hăng hái “lên vùng cao đất mới”; rồi khi thấy cần một nơi yên tĩnh để chiêm nghiệm lại mọi thứ ông “trở về với những miền thân thuộc”; trở về là để chuẩn bị cho một cuộc “phiêu lưu” mới và giờ đây khi thế hệ trẻ non nớt đang cần những chú Dế Mèn có tâm hồn để đối trọng với thế giới hiện đại vô cảm thì Tô Hoài lại sẵn sàng cho những điều còn trăn trở, còn bỏ ngỏ khi ông ở tuổi đôi mươi. Cuộc “phiêu lưu” của nhà văn Tô Hoài có lẽ là cuộc phiêu lưu trường kì, ý nghĩa và nhiều kết quả nhất mà nhà văn nào cũng ao ước có được trong cuộc đời cầm bút của mình. Khi nhắc đến Tô Hoài, người ta nhớ đến “một nhà văn có nhiều cái nhất”, một nhà văn là “vinh dự cho Hà Nội, tài sản của Hà Nội” (Hữu Thỉnh). Tác phẩm của Tô Hoài không chỉ là một kho tri thức khổng lồ mà còn là những bài học khiến chúng ta đọc rồi phải suy ngẫm về hôm qua, hôm nay và cả mai sau. Mỗi lần tìm hiểu về những tác phẩm của Tô Hoài là một lần người ta tìm ra những tầng vỉa ẩn sau lớp chữ nghĩa giản dị, đời thường. Do vậy, hết thế hệ này đến thế hệ khác vẫn không nguôi ý định tìm hiểu vẻ đẹp những tác phẩm của Tô Hoài. Chúng tôi cũng muốn góp một phần bé nhỏ trong công việc của người nghiên cứu để hiểu hơn về phong cách của một nhà văn cả đời miệt mài đi tìm con chữ cống hiến cho đời. 6 Việc viết lách của nhà văn trở thành cơm bữa hàng ngày không thể thiếu. Vì thế ở Tô Hoài không chỉ có khối lượng tác phẩm đồ sộ mà còn tập hợp đa dạng các thể loại như một cánh rừng với đủ các loại thảo mộc lớn nhỏ thuộc các chủng loại khác nhau. Ở mỗi thể loại, Tô Hoài thể hiện một “gương mặt”, một dấu ấn riêng không thể nhòe lẫn. Tiểu thuyết có lẽ là thể loại mà ở đó Tô Hoài nếm đủ vị đời của văn chương : có cay đắng, ngọt bùi, vinh quang và cả thờ ơ. Nhưng cũng chính ở thể loại này người ta mới nhận ra sự tích tụ từ những thể loại khác mà nhà văn đã có cả một quá trình vun góp. Nếu các truyện ngắn là những mảnh nhỏ của cảnh đời, những ký họa chân dung con người, thì tiểu thuyết là cả một dòng sông cuộc đời trôi chảy của bao nhiêu sự việc, câu chuyện, đời người. Tìm hiểu về tiểu thuyết của Tô Hoài theo hướng tự sự học sẽ góp phần làm sáng tỏ sự tích tụ, sự thống nhất, sự phát triển của phong cách nhà văn theo dòng thời gian. Nghiên cứu truyện kể dưới góc độ tự sự học đang là xu hướng có nhiều triển vọng trên thế giới và trong nước. Đó không chỉ là cách thức kể chuyện sao cho câu chuyện trở nên hấp dẫn mà còn là cách để nhà văn lý giải sự vật, hiện tượng một cách hiệu quả. Tìm hiểu kĩ thuật viết tiểu thuyết của Tô Hoài, chúng ta sẽ lí giải được sức sống, sự hấp dẫn, mới mẻ của tiểu thuyết Tô Hoài. 2. Lịch sử vấn đề Tính đến nay, Tô Hoài đã có ngót 70 năm cầm bút, dấn thân vào nghiệp văn chương. Kết quả ông gặt hái được là một khối lượng đồ sộ về tác phẩm và một chỗ đứng vững chắc trong làng văn chương Việt Nam. Việc nghiên cứu về Tô Hoài đã bắt đầu từ trước năm 1945 và đến nay vẫn tiếp tục. Trước năm 1945, các truyện ngắn về đề tài nông thôn, dân quê và thiếu nhi được bạn đọc đón nhận và bước đầu ghi nhận một dấu ấn riêng của nhà văn Tô Hoài. Vũ Ngọc Phan đã xếp Tô Hoài vào nhóm “các tác giả tả chân” và đánh giá Tô Hoài là “nhà văn có biệt tài viết về những cảnh nghèo nàn của dân quê” [13; 21]. Sau năm 1945, Tô Hoài viết nhiều hơn, dày hơn, ở nhiều thể loại, ở nhiều mảng đề tài khác nhau nhưng tiêu biểu hơn cả là đề tài miền núi và Hà Nội. Thời điểm này Tô Hoài đã nhận được nhiều lời khen về khả năng bao quát đời sống hiện 7 thực, sự khắc họa công phu đời sống và thiên nhiên miền núi. Tuy vậy cũng có những đánh giá không đồng tình về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật của Tô Hoài ở một số tiểu thuyết. Nhiều tác phẩm vẫn được người đọc đón nhận, nhưng lại ít có bài bàn bạc và bình luận. Sau năm 1975, cùng với các bài phê bình, giới thiệu tác phẩm, các công trình nghiên cứu về Tô Hoài trở nên sôi nổi và có nhiều kết quả. Tiêu biểu là các tiểu luận của Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh,…Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Tô Hoài không chìm đắm trong thiên nhiên, không tìm ở thiên nhiên một lối thoát, một niềm an ủi như các nhà lãng mạn tiêu cực, nhưng bao giờ anh cũng chắt chiu, trân trọng những vẻ đẹp và chất thơ của đời sống” [13; 87 ]. Hà Minh Đức thì cho rằng : “Tác phẩm của Tô Hoài luôn khai thác ở mạch chìm sâu của cuộc đời nơi bóng tối đang còn đè nặng”[13; 119] và “Tô Hoài, một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng” [13; 131]. Vương Trí Nhàn là người có những bài viết sâu sắc, hấp dẫn về Tô Hoài. Nhà phê bình đã không quá lời khi nhận xét Tô Hoài đã “viết là say và viết là tỉnh. Viết để ghi lại những gì đã sống, viết lại chính mình là sự sống nữa”[13; 195], bởi thực tế cuộc đời cầm bút cần mẫn và chuyên nghiệp của Tô Hoài đã chứng minh cho sự sống mãnh liệt, dẻo dai, bền bỉ của ông. Để có cái nhìn đầy đủ hơn về nhà văn, NXB Giáo dục đã cho xuất bản và tái bản nhiều lần cuốn Tô Hoài về tác gia và tác phẩm. Đây thực sự là cuốn sách tổng hợp tương đối đầy đủ và toàn diện các bài nghiên cứu về Tô Hoài từ trước đến nay. Điều này cho thấy vị trí của Tô Hoài trong nền văn học nước nhà – một tác giả lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Trong những thập niên gần đây, có nhiều khóa luận, luận văn, luận án đi sâu vào tìm tòi, phát hiện những sáng tạo độc đáo, chất thẩm mĩ mới trong văn chương Tô Hoài (Tìm hiểu sáng tác miền núi, người kể chuyện trong hồi kí và tự truyện, đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn… ). Như vậy, có thể khẳng định Tô Hoài là một hiện tượng văn học được nghiên cứu nhiều. Các nghiên cứu về Tô Hoài và tác phẩm của ông đều hướng đến đánh giá cao bút lực dồi dào, độc đáo, và giá trị đích thực của văn chương ông. 8 Trong khối lượng tác phẩm đồ sộ của Tô Hoài không thể không nhắc tới tiểu thuyết - con đẻ của thời hiện đại. Tuy số lượng tiểu thuyết so với các thể loại khác không nhiều nhưng thực sự nó rải đều cả quá trình sáng tác của nhà văn, và cũng là thể loại tác giả dồn nhiều tâm huyết nhất. Đã có không ít các bài viết về tiểu thuyết của Tô Hoài. Có thể kể đến: Như Phong với Vấn đề tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài với Miền Tây, Phan Cự Đệ với Tiểu thuyết Đảo hoang của Tô Hoài; Hà Minh Đức với, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, tuổi trẻ kiên cường và bất khuất, Tiểu thuyết Mười năm của Tô Hoài … Đặc biệt là những nghiên cứu dưới góc độ tự sự học, một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng để giải mã nghệ thuật ngôn từ. Đó là các khóa luận, luận văn: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài (Nguyễn Thị Thùy Dương), Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Ba người khác của nhà văn Tô Hoài (Nguyễn Thị Thanh Thủy)… Những nghiên cứu trên đây là kết quả có ý nghĩa để người đọc hiểu biết thêm về Tô Hoài và tác phẩm của ông. Tuy vậy, các nghiên cứu đó một là mới dừng lại tìm hiểu ở từng tiểu thuyết của Tô Hoài, hai là mới nghiên cứu riêng lẻ một số yếu tố thuộc nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Tô Hoài. Chúng tôi lĩnh hội những kết quả của người nghiên cứu trước và thông qua luận văn của mình muốn được nghiên cứu một cách đầy đủ, thấu đáo, đặt các yếu tố thuộc nghệ thuật tự sự liên kết với nhau trong một cấu trúc tự sự chỉnh thể để làm nổi bật “vai trò của chủ thể trần thuật” theo quan niệm của tự sự học. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Luận văn tìm hiểu cách nhà văn trần thuật để từ đó lý giải những vấn đề nhà văn đặt ra trong cuộc sống, đồng thời rút ra được phong cách nghệ thuật độc đáo của Tô Hoài. Luận văn lựa chọn các phương diện của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Tô Hoài làm đối tượng nghiên cứu của mình. Đó là Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật Tô Hoài có 7 tiểu thuyết và một số truyện dài được coi như tiểu thuyết thuộc các giai đoạn sáng tác khác nhau. Tuy nhiên phạm vi khảo sát của luận văn chỉ gồm bốn tiểu thuyết Miền Tây (Nhà xuất bản văn học, 1973), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ 9 (Nhà xuất bản Thanh Niên, 1971), Đảo hoang (Nhà xuất bản văn học, 1969), Ba người khác (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007). 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt mục đích trên, chúng tôi sử dụng các phương pháp: Phương pháp tiếp cận thi pháp học, Phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp v.v… 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Khái lược về nghệ thuật tự sự và hành trình sáng tác của Tô Hoài. Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật. Chương 3: Người kể chuyện và ngôn ngữ trần thuật. 10 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TÔ HOÀI 1.1. Khái lược về nghệ thuật tự sự 1.1.1. Tự sự Roland Barthes nói: "đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự sự" [19; 13]. Và như vậy, bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là quá trình phát ra trong quá trình giao tiếp, văn bản tự sự là cụm thông tin được phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Hội họa, hình thức kí hiệu ghi chép tối sơ của loài người, có thể miêu tả đối tượng săn bắt, chỉ ra bộ phận phải bắn trúng, kế hoạch vây bắt. Điêu khắc, kiến trúc... đều là phương tiện tự sự. Tự sự nằm trong bản chất của con người, bởi con người là một động vật biết tự sự. Muốn hiểu một sự vật nào thì người ta kể câu chuyện về sự vật đó. Nhà giải cấu trúc Mĩ J.H.Miller có nói (1993): "Tự sự là cách để ta đưa các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa [19; 12]. Tự sự là cách tạo nghĩa cho sự kiện, biến cố"; và Jonathan Culler (1998) cũng nói: "Tự sự là phương thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật" [19; 12]. Như vậy, tự sự là một khái niệm được sử dụng rộng rãi và có tính chất liên ngành. Tự sự tồn tại và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực, tuy vậy, trong các hình thức tự sự, chỉ có tự sự văn học là phức tạp nhất, và nó làm thành đối tượng chủ yếu của tự sự học. Với ý nghĩa tự sự như một phương thức tạo nghĩa và truyền thông tin trong văn học, tự sự có trong thơ, trong kịch, chứ không chỉ là trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn... Và đối tượng chủ yếu của tự sự học là nghệ thuật tự sự. 1.1.2. Tự sự học 11 Tự sự học (Narratology) là thuật ngữ do nhà nghiên cứu người Pháp T.Todorov đề xuất năm 1969, và nó là “một bộ phận cấu thành của hệ hình lý luận hiện đại”. Và lý thuyết về tự sự đã bổ sung cho lý thuyết về tiểu thuyết, trở thành một trong những vấn đề chủ yếu của nghiên cứu văn học. Từ thời cổ đại, đã có tự sự học, nhưng tự sự học lúc đó được hiểu trong giới hạn của tu từ học. Ban đầu người ta biết phân biệt các loại tự sự : tự sự lịch sử khác tự sự nghệ thuật. Sau đó phân biệt đến tự sự mô phỏng với tự sự giải thích, tự sự hỗn hợp. Như vậy tự sự học đã được cha ông ta biết đến từ xa xưa, từ thời của Platon và Aristote. Tuy được biết đến từ lâu nhưng từ cuối thế kỉ XIX tự sự học hiện đại mới manh nha hình thành. Những thập niên đầu B.Tomasepxki, V.Shklovski, V.Propp, Bakhtin là những người mở đường cho tự sự học hiện đại. Và sự phát triển của tự sự học theo thời gian, thành tựu có thể chia làm ba thời kì. Thời kì trước chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học chủ yếu nghiên cứu các thành phần và chức năng của tự sự như cốt truyện, nhân vật, ngôn từ trần thuật, điểm nhìn… Có thể kể đến các công trình của B.Tomasepxki nghiên cứu các yếu tố và đơn vị của tự sự (1925), V.Propp nghiên cứu cấu trúc và chức năng tự sự của truyện cổ tích (1928), các vấn đề điểm nhìn, dòng ý thức được quan tâm với Percy Lubbock… Các sáng tác của các nhà tiểu thuyết phương Tây thời kì này đã khơi gợi cho các nhà nghiên cứu những tìm tòi, khám phá về tự sự học gắn với ý thức về kĩ thuật của tiểu thuyết. Giai đoạn tiếp theo của tự sự học là thời kì cấu trúc chủ nghĩa với vấn đề nghiên cứu chủ yếu là bản chất ngôn ngữ và ngữ pháp của tự sự nhằm tìm ra một cách đọc mà không cần đến sự đối chiếu giữa tác phẩm tự sự và hiện thực khách quan. Với mục đích như trên, chủ nghĩa cấu trúc có đặc điểm là lấy ngôn ngữ học làm hình mẫu, xem tự sự học là sự mở rộng của cú pháp học, còn trữ tình là sự mở rộng của ẩn dụ. Tiêu biểu cho giai đoạn nghiên cứu này là G.Genette với tuyên bố “mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu - chủ yếu là vị ngữ động từ” [19; 14]. Thời kì thứ ba của tự sự học là thời kì hậu cấu trúc chủ nghĩa coi tự sự học gắn liền với kí hiệu học và siêu kí hiệu học, lấy văn bản làm cơ sở và ý nghĩa tác phẩm được biểu hiện qua hình thức tự sự. Các đại diện tiêu biểu thời kì này là I.Lotman, 12 B.Uspenski, Pierre Acherey. Họ coi trọng phân tích hình thức như các tác giả thời kì thứ hai nhưng lại không tán thành việc sao phỏng giản đơn các mô hình ngôn ngữ học. Họ coi trọng vai trò tác động của hình thái ý thức, nêu yêu cầu lí thuyết tự sự phải gắn với chức năng nhận thức và giao tiếp. Tự sự học là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được phổ biến, quan tâm trên thế giới và lý thuyết về tự sự học không ngừng được khám phá từ xưa tới nay. Đã có nhiều thành tựu với hệ thống chặt chẽ, kiến thức rộng và sâu, song tự sự học vẫn còn không ngừng mở rộng và phát triển. Mỗi giai đoạn ta nhận thấy sự thay đổi về hệ hình lí thuyết, các tầng bậc và phương pháp nghiên cứu tự sự. Ở giai đoạn đầu tương ứng là hệ hình tự sự học kinh điển tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện, mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện. Bước phát triển thứ hai của tự sự học là theo hướng chủ nghĩa cấu trúc kinh điển, hướng này chủ yếu nghiên cứu lời kể, cách kể, hay còn gọi là nghiên cứu diễn ngôn tự sự. Và ngày nay, hướng thứ ba là mô hình tự sự học có công thức “tự sự học + X”. Quan niệm này thực sự mở rộng phạm vi của tự sự học, tạo ra mối liên kết, liên ngành giữa tự sự học với các lĩnh vực khác có liên quan. Với sự phát triển không ngừng của tự sự học như vậy có thể khẳng định tự sự học có một vai trò rất lớn trong nghiên cứu cấu trúc tự sự. Tự sự học hiện đại cho chúng ta thấy rõ vai trò của chủ thể trong trần thuật khi phân biệt kể cái gì và kể như thế nào. Lần đầu tiên nó làm cho người trần thuật vô hình vốn ít được người ta chú ý phân tích, được hiện ra như là một hệ thống biểu đạt. Lí thuyết tự sự cũng chỉ ra kết cấu của các tầng bậc trần thuật và theo đó xuất hiện các kiểu người trần thuật khác nhau. Lí thuyết tự sự hiện đại đã nêu ra các khái niệm về góc nhìn, điểm nhìn, tiêu cự… điều đó giúp phân tích, nhận dạng hình thức tự sự. Nghiên cứu tự sự học đang là một xu thế có nhiều triển vọng trong lí luận văn học và nó ngày càng có ý nghĩa văn hóa rộng lớn. Nó không chỉ mở ra khả năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền văn học, và nghiên cứu so sánh quốc tế về phương diện tự sự, nghiên cứu loại hình ảnh hưởng, và trở thành một bộ phận của thi pháp học so sánh; mà nó còn giúp hiểu rõ mọi hình thức tự sự, nghệ thuật và 13 phi nghệ thuật. Tìm hiểu về tự sự học sẽ cho ta thấy kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, truyền thống văn hóa và từ đó nhìn nhận các vấn đề văn học sử một cách sâu sắc hơn. Văn học Việt Nam có truyền thống tự sự lâu đời và đó là một lợi thế để chúng ta vận dụng lí thuyết tự sự học vào nghiên cứu văn học dân tộc. Những nghiên cứu, những bài viết dưới góc độ tự sự học ngày càng nhiều và nó chứng tỏ vai trò, ý nghĩa lớn lao của tự sự học trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là những tác phẩm tự sự. 1.2. Hành trình sáng tác của Tô Hoài 1.2.1. Sơ lược tiểu sử Tô Hoài sinh năm 1920, tên thật là Nguyễn Sen. Bút danh Tô Hoài gắn liền với những địa danh quen thuộc của quê hương ông (sông Tô Lịch, phủ Hoài Đức). Bút danh ấy đã theo Tô Hoài suốt cuộc đời cầm bút và trở nên quá đỗi quen thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc. Tô Hoài xuất thân trong một gia đình làm nghề thủ công dệt lụa. Ông học hết bậc Tiểu học, sau đó vừa tự học vừa đi làm để kiểm sống. Trước khi cầm bút viết văn, ông đã từng làm nhiều nghề như thợ thủ công, dạy học tư, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… Có lẽ chính cuộc sống bươn chải trong nhiều ngành nghề khác nhau và gần gũi với nhân dân nên các trang viết của ông sau này mới ẩn chứa một kho kiến thức phong phú, đa dạng và đậm chất thôn quê, dân dã như vậy. Trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã tham gia các phong trào do Mặt trận Dân chủ khởi xướng ngay ở quê hương ông. Cũng thời gian đó ông viết những sáng tác đầu tiên. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia phong trào Nam tiến, lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc, chủ nhiệm Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Sau đó ông về công tác ở hội văn nghệ Việt Nam (1951). Hòa bình lập lại, ông tham gia nhiều chức vụ trong Hội nhà văn Việt Nam: Tổng thư kí (1957), ủy viên Ban chấp hành (1958 – 1980), Phó tổng thư kí. Sau đó những năm từ 1966 đến 1996 ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Ngoài ra Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác từ tổ trưởng dân phố đến đại biểu Quốc hội. 14 Cuộc sống của Tô Hoài vẫn tiếp diễn, ở tuổi ngoài 90 ông vẫn là một nhà văn làm việc hăng say, có nhiều đóng góp cho văn nghệ nước nhà và luôn được đông đảo bạn đọc đón nhận. 1.2.2. Hành trình sáng tác Tô Hoài đã có một quá trình viết bền bỉ, liên tục, không ngừng nghỉ, trên rất nhiều đề tài của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết cho thiếu nhi, viết dã sử, rồi từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi lên miền núi, từ cách mạng đến đời thường, trong chiến tranh rồi trở lại hòa bình, viết về đời sống rộng lớn của các tầng lớp nhân dân rồi trải lòng với những hồi ức riêng tư của mình. Trên hành trình lao động không mệt mỏi, nhà văn đã tạo một chỗ đứng nhất định trong nền văn học nước nhà. Quá trình viết ấy để lại một khối lượng đồ sộ với trên 160 đầu sách, được trải đều theo các chặng của giai đoạn lịch sử nước nhà và cuộc đời cầm bút của nhà văn. 1.2.2.1. Trước Cách mạng tháng Tám Thời kì Tô Hoài bước vào nghề văn cũng là lúc trào lưu lãng mạn đang thịnh hành ở nước ta và ít nhiều ông cũng ảnh hưởng. Ban đầu ông cũng làm thơ lãng mạn nhưng rồi ông sớm nhận ra đó không phải là lĩnh vực ông có duyên. Mặt khác, dù thích đọc truyện của Khái Hưng nhưng ông cũng cho rằng mình không thích hợp để viết về những đôi lứa “lá ngọc cành vàng”. Với ông điều mà ông tâm niệm có lẽ là cuộc sống giản dị xung quanh mình, cuộc sống lam lũ, hiện thực như chính đời nhà văn: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả những sáng tác của tôi, ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết những sự thực xảy ra trong nhà, trong làng, quanh mình”. Chính vì quan niệm như vậy nên từ những tác phẩm đầu tay Tô Hoài đã cho thấy xu hướng “tả chân”, và cùng với Nam Cao ông trở thành một dấu ấn đặc trưng của văn học hiện thực Việt Nam những năm tiền cách mạng. Tô Hoài bắt đầu nghề viết văn với những sáng tác đăng trên báo Hà Nội tân văn Chủ nhật và Tiểu thuyết thứ bảy của ông bà chủ bút Vũ Ngọc Phan và Hằng Phương (Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông, Bệnh già, Trê cóc, Ông Trạng Chuối, Con gà mái ri…). Những sáng tác đó bước đầu đem đến cho nhà văn 15 khoản thù lao để sau đó ông chuyển hẳn sang nghề viết văn; đồng thời nó cũng chứng tỏ sở trường của ông khi viết về nỗi cực khổ của người dân và niềm thích thú của những trẻ thơ trong các truyện cho thiếu nhi. Rời Hà Nội tân văn, Tô Hoài bắt đầu viết cho báo Tân Dân của Vũ Đình Long. Với đề tài dành cho đối tượng thiếu nhi, Tô Hoài đã viết Con dế mèn rồi sau đó là Dế Mèn phiêu lưu ký (1941). Tác phẩm viết cho thiếu nhi nhưng đã gây được ấn tượng mạnh với nhiều đối tượng độc giả và được tái bản nhiều lần cho đến ngày nay. Từ sau tác phẩm đó, Tô Hoài viết đều, viết khỏe, viết thành nếp. Và ông đã tự thổ lộ: “tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế Mèn thì mấy chục truyện…” ( trích theo[13; 24]). Tổng kết thành quả lao động trước Cách mạng tháng Tám của một nhà văn có tuổi đời trên hai mươi và tuổi nghề chưa được 5 năm, ta khẳng định đó là một thành công lớn lao hiếm nhà văn nào có được, và chính xác đó là một cuộc “chạy thi”. Có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu của ông với hai đề tài là viết về thiếu nhi và người dân quê. Viết cho thiếu nhi có Dế Mèn phiêu lưu ký, O chuột, Trê và Cóc, Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới chuột, Chuột thành phố,… Trong những tác phẩm viết về thế giới loài vật, nhà văn đã đưa vào truyện mạch ngầm khát vọng tuổi trẻ, trải nghiệm của cái tuổi bồng bột, sôi nổi, và thế giới đại đồng hòa thuận của con người. Trong đó nổi bật nhất là Dế Mèn phiêu lưu ký, một thiên đồng thoại xuất sắc thể hiện được khát vọng chính đáng của người lao động, mơ ước một cuộc sống hòa bình yên vui. Viết về cảnh và người lao động vùng quê có Nhà nghèo, Nước lên, Giăng thề, Quê người, Đêm mưa, Xóm giềng… Tác giả lấy bối cảnh và con người một vùng ven đô là quê ngoại để miêu tả cảnh vật, kể chuyện đời người thân, kẻ sơ của tác giả. Vùng quê ấy có sự thâm nhập của sự sống thành thị nhưng còn xa cách và biệt lập với thành thị. Tô Hoài đã để lại dấu ấn phong tục trong những tác phẩm của mình, và đằng sau cái bề mặt phong tục ấy là một dòng sống luôn tuôn chảy ở phía sâu – nó là sự phôi pha, sự tàn lụi của những số phận, những kiếp người. 16 Như vậy, trước năm 1945, ngòi bút Tô Hoài đã cùng lúc viết về hai đối tượng. Một là cuộc sống xung quanh mình, cuộc sống của một vùng quê đang ngấm dần và mở rộng sự bần hàn, túng bấn… Hai là sự theo đuổi thế giới riêng của trẻ thơ, của loài vật với những ước mơ, tưởng tượng, khát khao…Tuy viết về hai mảng đề tài khác nhau nhưng thực ra nó cùng thống nhất, hội tụ vào nhau trong một thế giới nghệ thuật chung mang cảm quan, đặc điểm của nghệ thuật Tô Hoài - một kiểu khám phá hiện thực riêng. 1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám Với các nhà văn, Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển biến trong tư tưởng và sáng tác . Tô Hoài cũng vậy nhưng ông sớm bắt nhịp với sự đổi thay để bám vào các vấn đề mới của đời sống và viết. Quãng thời gian này nhà văn đã viết dồi dào, sung sức và đạt được nhiều thành công hơn bao giờ hết. Những năm kháng chiến chống Pháp, Tô Hoài đi vào đời sống các dân tộc Tây Bắc, tìm hiểu và mô tả cuộc sống của họ. Nhà văn đã viết về sự đổi thay của cuộc sống, của con người đặc biệt là về mặt tư tưởng của họ từ khi có cách mạng. Tiêu biểu phải kể đến tập truyện Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Cứu đất cứu mường… Hòa bình lập lại sau năm 1954 ở miền Bắc, và sau đó những năm kháng chiến chống Mỹ và cuộc sống xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, ngòi bút Tô Hoài hướng vào đề tài quen thuộc trước Cách mạng ông đã viết, đó là cuộc sống nơi phố phường Hà Nội với: Mười năm, Người ven thành, Những ngõ phố người đường phố, Quê nhà,…Mặt khác mạch nguồn cảm hứng về miền núi chảy suốt trong các tác phẩm: Vợ chồng A Phủ, Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa,… Viết về Hà Nội ven đô thời kì này nhà văn vừa trải rộng, đào sâu vào thế giới bên ngoài và bên trong của nó để thấy được Hà Nội trong ba chiều quá khứ, hiện tại, tương lai. Viết về đề tài vùng cao, Tô Hoài không những cho ta thấy bức tranh rộng lớn của miền núi trong buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ông còn thành công khi cố gắng xây dựng vẻ đẹp toàn diện về hình ảnh những con người cách mạng miền núi – con người mới xã hội chủ nghĩa. Tất cả đều được đặt trong sự thay đổi giữa hai chế độ. 17 Trong thời gian dài sau Cách mạng, gặt hái được nhiều thành công về những đề tài trên, Tô Hoài vẫn không quên sáng tác cho thiếu nhi – mảng đề tài thuở đầu làm nên vóc dáng Tô Hoài. Nhà văn đã viết đủ các thể loại từ truyện, kịch, kịch phim, hoạt họa, đồng thoại… Số lượng đạt trên ba mươi tác phẩm nhưng thành công vẫn là ở truyện. Tiêu biểu có Chiến sĩ Hà Nội, Chiếc xe bí mật, Con gà lờ đờ, Chim hải âu, Vừ A Dính, Đàn chim gáy, Kim Đồng, Đảo hoang, Chiếc nỏ thần… 1.2.2.3. Thời kì đổi mới Thời gian cứ trôi chảy, cuộc sống luôn biến chuyển, xoay vần đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái tinh tường, cái kiên trì, dẻo dai để nắm bắt mạch nguồn ấy, viết thành những dòng chữ cho bạn đọc cùng suy ngẫm. Bước sang thời kì đổi mới, xã hội có nhiều thay đổi và văn học cũng vậy. Tô Hoài ghi lại những đổi thay, quan sát xung quanh và khám phá ra mạch ngầm của dòng chảy cuộc sống. Ông không đi tới những miền xa xôi của Tổ quốc mà trở về với những gì thân thuộc đã từng gắn bó với mình từ nhỏ, trở về với lòng mình để trải nghiệm, để suy ngẫm. Chính vì thế trong thời kì này chủ yếu là các sáng tác thuộc thể loại kí và tiểu thuyết. Tiêu biểu có: Cát bụi chân ai (1992), Chuyện cũ Hà Nội I, II (1998, 2000), Chiều chiều (1999), Ba người khác (2006) Ở độ tuổi có thể nói là điều gì cũng đã từng trải qua, Tô Hoài mạnh dạn thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm, hồi ức riêng tư về cuộc đời, về con người, về thời kỳ lịch sử đã qua. Mỗi trang viết của ông trong các tác phẩm này có khi đưa người đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, cũng có khi khiến người ta phải lặng mình suy nghĩ. Đó là sự thống nhất, là cái cốt văn phong mà Tô Hoài đã rèn dũa trong hành trình văn chương mấy chục năm của mình. Giờ đây nó không những vẫn đọng lại trong các trang sách của ông mà nó còn sâu sắc, còn đạt tới độ chín muồi. “Dao có mài mới sắc”, “Gừng càng già càng cay”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không ngừng học hỏi, tích lũy, tự vượt mình để sáng tạo, Tô Hoài đã tạo dựng một chỗ đứng vững chãi trên nền văn học dân tộc. 1.2.3. Tiểu thuyết của Tô Hoài 18 Tô Hoài là một nhà văn lớn của dân tộc, có rất nhiều phương diện làm nên tầm vóc đó của tác giả. Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của Dế Mèn phiêu lưu ký và những sáng tác cho thiếu nhi, Tô Hoài của hồi ký tự truyện... Ở phương diện nào, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn. Trong thế giới nghệ thuật hết sức đa dạng ấy, về mặt thể loại, không thể không nói đến tiểu thuyết, bên cạnh truyện ngắn, hồi ký, bút ký, chân dung văn học. Nếu tính về số lượng thì trong hơn 150 đầu sách của Tô Hoài, tiểu thuyết chỉ chiếm khoảng chục cuốn, đó là một con số nhỏ bé so với toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông. Và hành trình viết tiểu thuyết của Tô Hoài cũng trải đều qua các thời kì sáng tác từ khi ông mới khăn gói vào nghề cho đến khi lên “lão làng” trong nền văn chương nước nhà. Hành trình ấy kéo dài suốt nửa thế kỉ từ tiểu thuyết Mười năm (1958), đến gần đây nhất là cuốn Ba người khác (2006). Thời gian viết các cuốn tiểu thuyết cách nhau rất đều, nếu để ý sẽ thấy nhà văn luôn viết truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài trước, rồi sau đó cho ra đời tiểu thuyết. Rất đều đặn, nhịp nhàng như là có kế hoạch trước. Và có lẽ đó là một cách tích tụ tâm huyết, một bước đi “tích tiểu thành đại” của nhà văn trên chặng đường viết tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết là thể loại mà Tô Hoài được đánh giá một cách đa chiều hơn. Có khen, có chê, có giải thưởng và có cả sự trầm lặng bình thản không buông lời. Vinh quang và cay đắng trong cuộc đời cầm bút của một nhà văn, Tô Hoài đều nếm trải. Tiểu thuyết Miền Tây đem đến cho Tô Hoài giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á - Phi, nhưng Mười năm lại từng bị chỉ trích gay gắt của một số cây bút phê bình và giới lãnh đạo văn nghệ đương thời, còn một số tiểu thuyết được tác giả viết với nhiều tâm huyết, công phu và vốn sống thì lại gặp sự thờ ơ của dư luận. Nhìn đề tài, tiểu thuyết Tô Hoài có ba mảng lớn: về Hà Nội (chủ yếu vùng quê ven thành) về miền núi (Tây Bắc, Việt Bắc), về thời huyền sử xa xưa của đất nước (khai thác các truyền thuyết, cổ tích), ngoài ra còn có mảng đề tài khác viết về thời cải cách như Ba người khác. Tô Hoài - nhà văn của Hà Nội, không chỉ ở tập ký đặc sắc Chuyện cũ Hà Nội và những tập truyện ngắn Nhà nghèo, Giăng thề, Người 19 ven thành..., mà còn phần quan trọng là ở tiểu thuyết, trong đó phải kể đến Mười năm (1958), Quê nhà (1980). Ở đề tài miền núi, Tô Hoài không chỉ xuất sắc trong các truyện ngắn, các tập truyện ký, bút ký mà còn ở các tiểu thuyết Miền Tây, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Nhớ Mai Châu. Ở đề tài huyền sử xa xưa có thể kể đến Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử. Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó vốn thế: có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Tô Hoài vẫn được coi là nhà văn của những “chuyện thường, người thường, đời thường”. Nhưng cũng không vì thế mà lại không thấy ở tác phẩm của ông, nhất là tiểu thuyết, sự phản ánh những vấn đề xã hội và lịch sử, theo một cách riêng, xã hội và lịch sử được nhìn nhận, được tái hiện trong những sự việc, chi tiết của đời sống sinh hoạt, thế sự, gắn kết tự nhiên với đời sống thường nhật, với công việc làm ăn, những buồn vui, đổi thay của số phận con người. Sự xen lẫn đan dệt một cách tự nhiên giữa những hoạt động cách mạng với những chuyện làm ăn, mưu sinh, yêu đương, mọi tập tục quen thuộc trong đời sống một làng quê. Nhãn quan phong tục đem lại cho tiểu thuyết (và cả những thể loại khác) của Tô Hoài sức hấp dẫn riêng biệt và độc đáo. Đọc Tô Hoài, người đọc được tiếp xúc với vô số phong tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ma chay, cưới hỏi..., ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành, vùng đồng bằng Bắc Bộ đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cả ở những xứ sở xa xôi ngoài biên giới. Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học nào cũng mong có được một vốn hiểu biết cực kỳ phong phú, sinh động như của nhà văn Tô Hoài. Trong những tác phẩm viết về thời dựng nước xa xưa, Tô Hoài tạo dựng được không khí và màu sắc huyền sử bằng những bức tranh chi tiết cụ thể sống động về phong tục, sinh hoạt, lao động của thời xưa cùng với những bức tranh thiên nhiên, trong thời kỳ mà bước chân và bàn tay khai phá của con người đang lấn dần từ vùng đồi núi xuống vùng châu thổ còn hoang sơ, rậm rạp, mênh mông, đến cả những hòn đảo ngoài biển. Có thể nói 20 tiểu thuyết là thể loại tập hợp hầu hết cá tính văn chương của nhà văn. Như vậy, khi chọn thể loại tiểu thuyết để nghiên cứu dưới góc độ tự sự học thực sự sẽ giúp cho người nghiên cứu cũng như độc giả hiểu một cách sâu sắc, nhất quán về phong cách một nhà văn lớn của dân tộc. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan