Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của nguyên hồng trước...

Tài liệu Luận văn nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của nguyên hồng trước cách mạng tháng tám

.PDF
107
95
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- NGUYỄN THỊ YẾN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Văn Đức Hà Nội - 2013 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1 I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI ..................................... 1 II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ ...................................................... 2 III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN .................................................. 8 IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ...................................... 9 V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 9 VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ........................................................... 9 CHƢƠNG 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................................ 10 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN ......................................................................... 10 2. ĐiÓm nh×n trÇn thuËt vµ ng-êi trÇn thuËt .................. 10 2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật ............................................................ 10 2.2. Ng-êi trÇn thuËt ................................................................................. 12 2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn .................................................................. 12 2.2.2 Ngƣời trần thuật tƣờng minh ........................................................... 13 3. Ng-êi trÇn thuËt trong v¨n xu«i Nguyªn Hång ..................................... 14 3.1. Ng-êi kÓ chuyÖn hµm Èn ................................................................... 14 3.2 Ng-êi kÓ chuyÖn t-êng minh ............................................................. 22 CHƢƠNG 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ................................... 27 1. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU ................................................ 27 1.1. KÕt cÊu ®¬n tuyÕn: ............................................................................. 28 1.2. KÕt cÊu theo m¹ch ph¸t triÓn t©m lÝ ................................................... 33 1.3. KÕt cÊu ®¶o lén trËt tù trÇn thuËt ........................................................ 35 1.4. KÕt cÊu l¾p ghÐp: ............................................................................... 37 3 2.NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC Cèt truyÖn ......................................... 41 2.1.Cốt truyện: ......................................................................................... 41 2.2 Cèt truyÖn trong s¸ng t¸c cña Nguyªn Hång ....................................... 43 2.2.1 Cốt truyện đơn giản ........................................................................ 43 2.2.2. Cốt truyện đan xen nhiều mạch truyện ........................................... 56 CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ......................................................................................... 61 1. Ngôn ngữ trần thuật . ............................................................................ 62 1.1. Ngôn ngữ đời sống giàu giá trị biểu cảm ........................................... 62 1.2. Ngôn ngữ trần thuật giàu cảm xúc. .................................................... 64 1.3. Ng«n ng÷ b×nh dÞ, sö dông c¸c thµnh ng÷, tôc ng÷, ca dao ................. 69 1.4. Ng«n ng÷ ®Æc biÖt ............................................................................. 74 1.5. Tõ ng÷ t«n gi¸o ................................................................................. 77 2. Giọng điệu trần thuật cña Nguyªn Hång ............................................... 81 2.1 Giäng ®iÖu c¶m th-¬ng thèng thiÕt ..................................................... 83 2.2 CÊu tróc tÇng tÇng líp líp theo m¹ch c¶m xóc cña lêi v¨n nghÖ thuËt.... 90 2.3. C¸c ®o¹n v¨n tr÷ t×nh ngo¹i ®Ò ........................................................... 91 KẾT LUẬN ............................................................................................. 98 Danh môc vµ tµi liÖu tham kh¶o. ..................................... 101 4 MỞ ĐẦU I. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH LỰA CHỌN ĐỀ TÀI Trong tiến trình phát triển lịch sử văn học Việt Nam, một trong những trào lƣu văn học đã làm thay đổi diện mạo của nền văn học dân tộc, đó là dòng văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945. Những tác giả đã có công lớn trong việc đổi mới này là: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Nguyên Hồng là một trong những nhà văn tiêu biểu, xuất sắc nhất đã đóng góp một thành tựu lớn trong sự phát triển này. Tác phẩm của Nguyên Hồng phản ánh sâu sắc cuộc sống cùng khổ của con ngƣời – tầng lớp đáy xã hội thành thị. Ông bƣớc vào nghề văn là để nói lên nỗi thống khổ khôn cùng của con ngƣời, mà trƣớc hết là những ngƣời lao động, những dân nghèo thành thị khi ông đƣợc chứng kiến và trải nghiệm để từ đó lên tiếng bảo vệ và bênh vực họ. Hiện thực cuộc sống và số phận những con ngƣời cùng khổ đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác của ông, góp phần hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Điều này đã đƣợc minh chứng qua các trang viết ngập tràn tâm huyết, cuốn hút niềm mê say và phong phú qua các thể tài đầy sáng tạo. Với Nguyên Hồng sáng tác văn chƣơng là niềm đam mê lớn nhất của cuộc đời. Viết về cuộc đời của chính mình, cho tầng lớp mình đó là mục đích trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Ông đã hoà nhập vào cuộc sống của những con ngƣời cùng khổ, vào những cảnh đời cực nhục để phân tích, lý giải, thẩm bình và hơn nữa để bênh vực, bảo vệ xót thƣơng. Tác phẩm của ông bao giờ cũng toát lên giá trị nhân văn sâu sắc. Có lẽ cũng vì những lý do này, sáng tác của Nguyên Hồng luôn tạo đƣợc ấn tƣợng trong lòng ngƣời đọc, luôn đánh thức tính bản thiện, tình ngƣời trong mỗi con ngƣời. Với ông “...viết còn để tìm cho mình một đời sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách nồng nàn với những mối tình thắm thiết mênh mông”[16, 34]. 1 Sự khẳng định tên tuổi, tài năng của Nguyên Hồng chính là lĩnh vực văn xuôi trƣớc Cách mạng. Trong cuộc đời viết văn của mình, Nguyên Hồng tập trung nhiều nhất cho tiểu thuyết. Từ tác phẩm đầu tay Bỉ Vỏ đến Cửa biển, một tác phẩm mà ông dành nhiều tâm huyết và tác phẩm cuối đời Núi rừng Yên Thế đều là những sáng tác để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng độc giả. Nhƣng có lẽ điều giúp mọi ngƣời đánh giá, nhìn nhận về con ngƣời ông một cách chân xác lại là thiên tự truyện Những ngày thơ ấu và để khẳng định cho tài năng, vị trí của Nguyên Hồng trên văn đàn là các truyện ngắn đặc sắc. Những tác phẩm này đã đƣa tên tuổi của Nguyên Hồng lên đỉnh cao của văn học hiện đại Việt Nam. Việc nghiên cứu về Nguyên Hồng đã đƣợc rất nhiều các nhà khoa học, các độc giả yêu quý văn chƣơng của ông quan tâm. Các bài phê bình, tiểu luận, tham luận, luận văn...về thân thế, sự nghiệp, phong cách; về thể loại, nhân vật, đặc điểm nghệ thuật...mà nhà văn lựa chọn đã đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu, đề cập đến. Những thành tựu của ông đã đƣợc đánh giá một cách đầy đủ, trọn vẹn, ngƣời viết với mong muốn khẳng định thêm một khía cạnh quan trọng trong sự sáng tạo của Nguyên Hồng. Việc lựa chọn đề tài: “Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám”, chúng tôi muốn đƣa ra một cách nhìn nhận, đánh giá về việc sáng tạo nghệ thuật của nhà văn dƣới góc độ tìm hiểu nghệ thuật trần thuật, nhằm góp thêm một ý kiến khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyên Hồng trên nhiều lĩnh vực. Hiện tại, tác phẩm của Nguyên Hồng đang đƣợc giảng dạy trong chƣơng trình của các nhà trƣờng; với mong muốn kết quả việc nghiên cứu của cá nhân sẽ góp phần mở rộng sự quan tâm, tìm hiểu cho bạn đọc và là tài liệu tham khảo, học tập trong các nhà trƣờng về các sáng tác của Nguyên Hồng. II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Sơ lƣợc một số nghiên cứu về sáng tác văn xuôi của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám. 2 Tác phẩm đầu tay là truyện ngắn Linh hồn in trên Tiểu thuyết thứ bảy năm 1936, tiểu thuyết Bỉ vỏ gây ấn tƣợng mạnh. Nhà văn Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, trong cuốn Nhà văn hiện đại (1942) đã nhận xét: “Tập văn của ông là tập Bỉ vỏ...Nhưng cái tư tưởng thâm trầm nó bao quát cả cuốn tiểu thuyết Nguyên Hồng là cái tư tưởng: Tuy đã sa chân vào chốn truỵ lạc, người ta vẫn có thể mang một tâm hồn trong sạch được”. “ Bỉ vỏ của Nguyên Hồng là một cuốn tiểu thuyết chứa chan nhân đạo, nó làm cho ta thương xót đến cả những kẻ đầy tội lỗi, nhưng Bỉ vỏ lại xây một khuôn luân lý rất cao, nên dù ta thương xót họ mà ta vẫn không thể nào không ghê tởm về hành vi của họ” [31, 25]. Đó là về những phƣơng diện tâm lý và luân lý. Ông viết xong Bỉ vỏ nhƣ trút đƣợc gánh nặng của đôi vai, ông tâm sự qua lời tựa trong Bỉ vỏ: “Bỉ vỏ đã viết xong trên một cái bàn kê bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; Bỉ vỏ đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; Bỉ vỏ đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dạt dào trong những bụi mưa thấm thía” [18, 3]. Bỉ vỏ ra đời và đạt giải thƣởng của Tự lực văn đoàn năm 1937. Cùng thời điểm Những ngày thơ ấu trở thành tác phẩm gây đƣợc sự chú ý. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã đánh giá rất cao tác phẩm này “Mới đọc tập tự truyện của Nguyên Hồng, tôi đã tưởng có dưới mắt một quyển sách của một nhà văn Anh hay một nhà văn Nga. Không những thế, càng đọc những trang sau, ta càng thấy Nguyên Hồng kể cho ta nghe hết cả những cái cay đắng, những cái truỵ lạc của mình và những người thân mình” [31, 35]. Cuốn tự truyện là những trang viết thấm đẫm nƣớc mắt về chính cuộc đời nhà văn. Đó là một “cái tôi chân thật” (Vũ Ngọc Phan). . Thạch Lam đã từng nhận xét“Những rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại lạc loài trong những lề lối khắc nghiệt của một gia đình sắp 3 tàn” [22, 15]. và “Phải sống trong cảnh nghèo, phải luôn luôn gần gũi với xã hội người nghèo mới có thể viết được những dòng thành thật và cảm động như vậy” [31. 19] (Vũ Ngọc Phan). Năm 1941, tập truyện ngắn Bảy Hựu tiếp tục ra mắt bạn đọc. Đây là tác phẩm xây dựng đƣợc những nhân vật mang dáng vẻ phi thƣờng của ngƣời anh hùng. Đánh giá về Bảy Hựu nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét: “ Chỉ khi nào lòng yêu nhân loại lên đến cực điểm, là người ta mới thiết tha đến những người bị xã hội ruồng bỏ”. Tác phẩm Đây bóng tối thể hiện cái nhìn xót thƣơng giữa những con ngƣời nghèo khổ bất hạnh nhƣng có tấm lòng độ lƣơng, nhân ái. Trong Nhà sƣ nữ chùa âm hồn, Nguyên Hồng lại xây dựng nội dung truyện nhƣ một truyện trinh thám với trí tƣởng tƣợng vô cùng phong phú, thể hiện mối tình thống thiết của đôi vợ chồng hủi. Bên cạnh đó là những cuộc đời cơ cực, lầm than trong cảnh khốn cùng nhƣ trong tác phẩm Sông máu, Linh hồn, Quán nải, Hàng cơm đêm... của những nhân vật nhƣ Mũn, Nhân, chị Năng, Hai mƣơi hai...những con ngƣời cơ cực nhƣng có tấm lòng thuỷ chung son sắt. Tấm lòng nhân hậu của họ đều đạt tới mức “kỳ lạ”, “phi thường” hiếm có trong cuộc đời thực. Qua việc tìm hiểu, khảo sát tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu phê bình đều đánh giá cao và khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyên Hồng, ông là nhà văn của hiện thực, của tinh thần nhân đạo cao cả với những nhận xét của Vũ Ngọc Phan về các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng rất tinh tế“ở tập văn nào của Nguyên Hồng tư tưởng nhân từ, bác ái của tác giả bao giờ cũng tràn lan” [31, 27]. Các bài nghiên cứu, phê bình thƣờng tập trung nhiều vào mặt nội dung tƣ tƣởng, thế giới nhân vật, đặc điểm nghệ thuật của các sáng tác văn xuôi trƣớc cách mạng tháng Tám của ông (nghĩa là chú ý đến vấn đề nhân sinh quan) mà ít đề cập đến vấn đề thế giới quan của nhà văn, điểm nhìn trần thuật của một tài năng vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu trong giai đoạn này. 4 Tình hình nghiên cứu Nguyên Hồng từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Công cuộc Cách mạng tháng Tám mở ra một kỉ nguyên mới và những nhận thức mới về chính trị đã nâng cao chất lƣợng nhiều truyện ngắn của Nguyên Hồng. Đây cũng là thời điểm Nguyên Hồng cho ra đời nhiều tác phẩm với quy mô đồ sộ, dung lƣợng lớn. Từ cái nhìn nhân đạo đối với lớp ngƣời thị dân cùng khổ nói chung Nguyên Hồng đã dần chuyển sang một cái nhìn ít nhiều mang tính giai cấp bằng một bút pháp rất gần với bút pháp của các nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Các nhà nghiên cứu phê bình đã nhận thấy trong đó nhiều cái mới tiến bộ và càng đƣợc củng cố mạnh mẽ hơn khi nhà văn tiếp nhận lý tƣởng Cách mạng của giai cấp vô sản. Phan Cự Đệ đã đƣa ra ý kiến xác đáng, những nhận định khái quát nhất về sự nghiệp sáng tác của Nguyên Hồng trong bài viết “ Những bƣớc tiến mới về tiểu thuyết Nguyên Hồng sau Cách mạng tháng Tám” “Lò lửa và Địa ngục là một cái mốc trên con đường sáng tạo của Nguyên Hồng. Tuy về căn bản nó vẫn là những tác phẩm hiện thực phê phán nhưng cái ánh sáng chiếu rọi vào thì lại là của một thế giới quan đã bắt đầu đổi mới”. “Bỉ vỏ và Sóng gầm là hai mốc về tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Hai tác phẩm cách nhau một phần tư thế kỷ và cũng là hai thời kì khác nhau trên con đường nghệ thuật của Nguyên Hồng. Bỉ vỏ là những tình cảm yêu thương dào dạt, là khát vọng ngây thơ, trong trắng hồn nhiên của buổi ban đầu. Sóng gầm, Cơn bão đã đến...ra đời lúc cây bút Nguyên Hồng đã trưởng thành, luôn luôn day dứt suy nghĩ về những vấn đề nghệ thuật và đời sống”[7, 17]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh tiếp tục viết về “yếu tố trữ tình”; “tình cảm lạc quan say sưa bồng bột” và trên hết vẫn là “tinh thần nhân đạo chủ nghĩa thiết tha” (1973). 5 Chu Nga thì nhận thấy Nguyên Hồng đã đem đến tiếng nói mới, tiếng nói riêng biệt góp phần vào dòng văn học hiện thực phê phán. Về căn bản ông nhận thấy đó là tiếng nói yêu thƣơng, nhân đạo “sôi nổi lạc quan, tràn đầy một niềm tin ở một ngày mai tươi sáng” vì nhìn thấy đƣợc những phẩm chất đẹp đẽ ở những con ngƣời nghèo khổ hôm nay (1977). Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu về Nguyên Hồng đã có nhiều đổi mới. Các tác phẩm của ông đã đƣợc các nhà phê bình, giới nghiên cứu, các bạn đọc quan tâm đƣa ra những nhận định, ý kiến đánh giá khách quan. Nếu nhƣ trong thời kì đầu cầm bút, Nguyên Hồng hay viết về những ngƣời dân nghèo lƣu manh hoá thì đến những năm 40 tƣ tƣởng nghệ thuật của ông đã có sự biến chuyển, ánh sáng cách mạng và giai cấp đã soi sáng cho những nhân vật lao động nghèo của Nguyên Hồng. Phan Diễm Phƣơng trong bài viết Cảm hứng cần lao trong sáng tác của Nguyên Hồng đã đƣa ra nhận định: “Từ đầu những năm bốn mươi, Nguyên Hồng đã viết một số truyện ngắn, truyện dài có sắc thái hơi khác với những truyện ngắn trước đó của ông: Cái bào thai, Hai dòng sữa, Một trƣa nắng, Hơi thở tàn...Có thể xem đây là những cuộc tranh luận công khai về nghệ thuật, cũng là sự bộc lộ công khai quan điểm nghệ thuật của tác giả, bằng hình tượng nghệ thuật bằng những lời tuyên bố thẳng thắn, dứt khoát”. GS. Phan Cự Đệ là một trong những ngƣời dành nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu và đƣa tác phẩm của Nguyên Hồng đến với ngƣời đọc. Trong lời giới thiệu cho cuốn Nguyên Hồng toàn tập (2000) ông đã đƣa ra nhiều ý kiến đánh giá về truyện ngắn Nguyên Hồng trên các phƣơng diện nhân vật, kết cấu, bút pháp nghệ thuật và khẳng định vị trí truyện ngắn của Nguyên Hồng: “ Chúng ta có thể nói đến Nguyên Hồng như một phong cách truyện ngắn trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sưu tầm và tuyển chọn những tác phẩm trước và sau Cách mạng tháng Tám, chúng ta sẽ có một 6 tập truyện ngắn giá trị với nhiều màu sắc độc đáo” [8, 21]. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu khai thác nội dung cũng nhƣ hình thức nghệ thuật mà nhà văn xây dựng, thấy rõ đƣợc vai trò của Nguyên Hồng trong văn học giai đoạn sau Cách mạng. Từ khi nhà văn qua đời đến nay Nguyên Hồng mất khi sự nghiệp văn chƣơng của ông còn đang dang dở, khát vọng lớn về bộ tiểu thuyết lịch sử mới hoàn thành một phần tâm nguyện. Sự ra đi của Nguyên Hồng vào ngày 02-5-1982 đã để lại niềm thƣơng tiếc cho ngƣời thân, bạn bè, đồng nghiệp, các độc giả yêu mến văn chƣơng của ông. Nhƣng đúng nhƣ lời nhận xét của nhà thơ Xuân Diệu “Nguyên Hồng mất đi nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ”. Điều này khẳng định sức sống bền bỉ của văn chƣơng Nguyên Hồng trong lòng bạn đọc. Thời gian là sự minh chứng cho Nguyên Hồng, kể từ khi nhà văn qua đời sự nghiệp văn chƣơng và cuộc đời con ngƣời nhà văn vẫn không ngừng đƣợc tìm tòi, nghiên cứu. Hàng năm đã có thêm nhiều công trình khoa học, các bài nghiên cứu phê bình vẫn khai thác ở nhiều góc độ. Tiêu biểu trong cuốn sách Phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, với cách tiếp cận từ góc độ văn học sử, tác giả Bạch Văn Hợp đã trình bày một cách hệ thống những nét độc đáo tiêu biểu, có ý nghĩa thẩm mỹ cao và những biến chuyển nhất quán của phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng, từ đó góp phần khẳng định những cống hiến và vị trí của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam hiện đại. Trong đó truyện ngắn của Nguyên Hồng là đối tƣợng chính đƣợc tác giả tập trung khảo sát. Nhà nghiên cứu Lê Hồng My với luận án “Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng” đã nghiên cứu, chọn cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ góc độ tìm hiểu ngôn từ - lời văn nghệ thuật để “khám phá các phương thức tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn; khám phá mối quan hệ giữa tư tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật; xác định vai trò của lời văn nghệ thuật đối với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng...”. 7 Trong luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Nguyễn Thu Hà (2004) nghiên cứu “Tìm hiểu những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trước Cách mạng” đã làm nổi bật những đặc điểm về nghệ thuật qua các sáng tác truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyên Hồng. Năm 2011, Trần Thị Thanh Yến với đề tài “ Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945” đã đi sâu khai thác thế giới nhân vật ở nhiều góc độ và chủ yếu đó là tầng lớp thị dân nghèo khổ trong một thế giới hỗn loạn, xô bồ. Trên đây là những bài viết và những công trình nghiên cứu công phu, mang tính khoa học đề cập đến rất nhiều phƣơng diện trong sáng tác của Nguyên Hồng. Các tác giả đều có những phát hiện mới, chính xác đầy sức thuyết phục về đặc điểm nghệ thuật, quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy những ý kiến, nghiên cứu đó chƣa đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần quan trọng, đó là vấn đề nghệ thuât trần thuật - điểm nhìn của ngƣời kể chuyện trong mỗi tác phẩm. Vì vậy những bài viết này đã giúp chúng tôi có một cái nhìn toàn diện về nhà văn đồng thời nó cũng giúp chúng tôi có những căn cứ để đi sâu, phát triển trong đề tài mới, trong hƣớng khai thác mới. III. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Nghiên cứu các tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của nhà văn Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám để tìm ra những đổi mới trong tƣ duy nghệ thuật của nhà văn dƣới vai trò ngƣời kể chuyện ở nhiều góc độ, đây là mục tiêu của luận văn, nhằm đóng góp thêm một cách lý giải về tài năng của nhà văn ở nhiều góc độ, khẳng định những giá trị của Nguyên Hồng trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam.. 8 . IV. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung tìm hiểu, khảo sát: Nghệ thuật trần thuật trong truyện và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám 1945. Đây là vấn đề tƣơng đối rộng đòi hỏi ngƣời viết phải có sự khái quát để tìm ra mối tƣơng quan trong việc trần thuật của nhà văn, dù ở góc độ nào cũng toát lên tấm lòng nhân hậu, bác ái. Đây cũng là nét đặc sắc trong văn xuôi Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945. V. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày đề tài, chúng tôi đã vận dụng một số phƣơng pháp sau: - Phƣơng pháp loại hình học - Phƣơng pháp thống kê - Phƣơng pháp so sánh đối chiếu - Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, nội dung chính của luận văn gồm có 3 chƣơng: Chƣơng 1: NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. Chƣơng 2: NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KẾT CẤU VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. Chƣơng 3: NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN Và TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM. CHƢƠNG 1 9 NGƢỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN VÀ TIỂU THUYẾT CỦA NGUYÊN HỒNG TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1. NGƢỜI KỂ CHUYỆN Trong tác phẩm văn học, ngƣời trần thuật chỉ xuất hiện khi câu chuyện đƣợc kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tƣợng của chính tác giả, có thể là nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra, có thể là một ngƣời biết một câu chuyện nào đó. Một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều ngƣời kể chuyện. Hình tƣợng ngƣời kể chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lí, nghề nghiệp, hay lập trƣờng xã hội cho cái nhìn tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo con ngƣời và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú, nhiều phối cảnh (Theo Từ điển thuật ngữ văn học) . 2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ NGƢỜI TRẦN THUẬT 2.1. Phạm trù điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn nghệ thuật: là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu. Đó là từ một vị trí, một điểm, một chỗ đứng, một góc câu chuyện đó được xem xét, miêu tả bình giá, kể về sự vật, hiện tượng trong tác phẩm. Trong tác phẩm tự sự, tƣơng quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm nhìn của ngƣời trần thuật với những gì nhà văn kể là điều đặc bịêt quan trọng. Bởi trong truyện kể, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện đƣợc kể nhƣ thế nào bao giờ cũng giữ một vai trò quan trọng. Ngƣời kể chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả, song tác giả không phải là trung tâm của truyện kể. Điểm nhìn nghệ thuật đƣợc xem nhƣ những thƣớc phim dẫn dắt ngƣời đọc vào ngõ ngách của văn bản, đi sâu tìm hiểu số phận, tính cách, cuộc đời của nhân vật. Nhà văn bao giờ cũng phải lựa chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp: Trực tiếp tham gia vào vào sự kiện, cốt truyện hay đứng ngoài sự kiện. Việc tìm chỗ đứng này chi phối một hình thức kết cấu 10 văn bản và xác lập cho ngƣời kể một điểm nhìn trần thuật để từ đó câu chuyện đƣợc bắt đầu. Trong tác phẩm, vấn đề ai kể chuyện và câu chuyện đƣợc kể nhƣ thế nào bao giờ cũng đem lại hiệu quả. Nhƣ trên đã nói, mỗi văn bản tự sự bao giờ cũng đƣợc kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một ngƣời kể chuyện nào đó đóng vai ngƣời kể chuyện để kể lại sự kiện xảy ra ở đâu? vào lúc nào? có nhân vật nào tham gia câu chuyện? Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”. Theo lý thuyết tự sự học, có các kiểu điểm nhìn phổ biến ở ngƣời kể chuyện: - Điểm nhìn toàn tri, biết tuốt khi ngƣời kể chuyện có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba. - Điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội tâm của nhân vật khi ngƣời kể chuyện là nhân vật xƣng “Tôi”. Trong điểm nhìn nghệ thuật lại có các loại: Điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tƣ tƣởng...Thật ra, trong tác phẩm văn học, chọn kiểu nhìn nào, xuất phát từ điểm nhìn nào để ngƣời kể chuyện kể lại “chuyện” chính là do cách tổ chức “truyện” (Không gian, thời gian, nhân vật) có dụng ý của nhà văn. Có những tác phẩm chỉ có một kiểu điểm nhìn từ đầu đến cuối, có những tác phẩm phối ghép những kiểu điểm nhìn hoặc luân phiên trƣợt điểm nhìn. Cách kể từ điểm nhìn toàn tri, bên ngoài, bên trong cũng đều xuất phát từ sự hình thành phong cách ngƣời viết văn xuôi. Ở đây, trong chuyên luận nghiên cứu sáng tác của Nguyên Hồng ta chủ yếu tìm hiểu hai kiểu điểm nhìn đó là “Nhìn toàn tri, biết tuốt” và “Nhìn từ bên trong”. 11 2.2. Ngƣời trần thuật Hình thái của hình tƣợng tác giả trong tác phẩm văn học nghệ thuật là ngƣời mang tiếng nói, quan điểm tác giả trong tác phẩm văn xuôi. Ngƣời trần thuật là ngƣời có vai trò kể lại câu chuyện mà anh ta mong muốn truyền tải tới độc giả. Đây là chủ thể dẫn dắt ngƣời đọc đi sâu vào “truyện”. Cách dẫn dắt này tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của tác giả (trực tiếp hay gián tiếp). Tuy nhiên tác phẩm văn xuôi bao giờ cũng đặt ra mối quan hệ giữa các thời đại (những xung đột cơ bản của thời đại), theo quan điểm của một nhà nghiên cứu: “Tất cả những gì thuộc về quá khứ đều hướng đến tương lai”. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm văn xuôi là nghiên cứu mối quan hệ giữa các xung đột mà nhà văn miêu tả có mối liên quan gì với thời đại và sự ảnh hƣởng của nó trong tƣơng lai. Vì vậy vai trò của ngƣời trần thuật là vô cùng quan trọng trong tác phẩm. 2.2.1 Ngƣời trần thuật hàm ẩn (hình thức ẩn khuất của ngƣời kể chuyện) Căn cứ vào lý thuyết tự sự học, ngƣời kể chuyện (trần thuật) dƣới hình thức hàm ẩn là do tác giả sáng tạo ra nhƣng lại là ngƣời “toàn tri” “biết tuốt” thƣờng đứng ở ngôi trần thuật thứ ba bởi vậy lời trần thuật ở đây mang tính khách quan hoá và trung tính. Ngƣời trần thuật đƣợc chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách riêng của mình. Lời trần thuật ở đây có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lý giải thế giới khách quan vật chất, sự việc và con ngƣời...tái hiện và phân tích, lý giải lời nói ý thức ngƣời khác. Theo Bakhtin, lời văn trần thuật gián tiếp này (khác với lời văn trực tiếp của nhân vật) có thể chia làm hai loại: Loại thứ nhất gián tiếp một giọng, đó là lời trần thuật tái hiện, phẩm bình các hiện tƣợng của thế giới trong ý nghĩ khách quan vốn có của chúng. Loại thứ hai, là lời gián tiếp hai giọng, là lời trần thuật có hấp thu lời nhân vật, tức là trong phát ngôn của ngƣời trần thuật cùng lúc có thể có cả lời trực tiếp hay những suy tƣ gián tiếp của nhân vật, nó thể hiện sự đối thoại với ý 12 thức khác của cùng một đối tƣợng miêu tả. Loại thứ hai này cho phép tác giả di chuyển “điểm nhìn” trần thuật và tạo nên tính chất đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ tiểu thuyết. Điều này đƣợc nhà văn thể hiện rõ trong các sáng tác: Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Cái bào thai, Quán nải, ... 2.2 .2. Ngƣời trần thuật tƣờng minh Ngƣời kể chuyện với “điểm nhìn bên trong” của nhân vật xƣng “tôi” là nhân vật ngay trong câu chuyện – tác giả đóng vai trò ngƣời trần thuật đó là hình thức trần thuật từ ngôi thứ nhất. Nhân vật trong câu chuyện là chính tác giả với nhiệm vụ ngƣời kể chuyện, trần thuật lại. Điều này dễ nhận thấy ở các tác phẩm tự truyện hoặc có dáng dấp tự truyện nó đòi hỏi các chuyện phải kể về sự thật. Đó chính là câu chuyện đƣợc viết bởi chính những ngƣời đã từng sống trong cuộc đời ấy. Với việc trần thuật ở ngôi thứ nhất, tác giả đã viết về những điều mình đã trải qua, đã chứng kiến, nếm trải và chiêm nghiệm. Đó chính là các tác phẩm tự truyện. Tự truyện tái hiện phần hiện thực thƣờng nằm trong tầm nhìn của ngƣời viết căn cứ chủ yếu vào những ấn tƣợng và hồi ức của bản thân ngƣời viết hoặc cái nhìn của ngƣời viết vào tất cả những gì đƣợc kể lại, miêu tả lại. Hồi kí mang tính chủ quan thƣờng là văn phong cảm động nêu cảm tƣởng trực tiếp của cá nhân tác giả. Lối tự truyện này ở các nƣớc phƣơng Tây nhƣ Anh, Mĩ, Nga rất thịnh hành nhƣng ở Việt Nam, Nguyên Hồng đƣợc đánh giá là ngƣời đầu tiên viết lối tự truyện chân thành, với lời tâm sự thầm kín, thậm chí cả những tội lỗi cũng đƣợc phơi trần ra ánh sáng, Nguyên Hồng đã phải trút bỏ hết cả những thành kiến, đặt mình lên trên những dƣ luận hẹp hòi, gột rửa lòng tự ái cá nhân. Tự truyện của Nguyên Hồng ra đời đã đánh dấu một bƣớc phát triển mới của nền văn học Việt Nam mà ngay từ thời kì ấy đã gây không ít ngỡ ngàng cho các nhà nghiên cứu, các nhà văn cùng thời. Những ngày thơ ấu chính là lời tâm sự thiết tha thầm kín, những hồi ức của chính tác giả về quãng đời thơ ấu đầy đau khổ của mình một cách chân thành. Điểm nhìn của ngƣời kể chuyện chính là nhân vật xƣng “tôi”, 13 nhà văn đã tái hiện lại tuổi ấu thơ của mình một cách chân thành sâu lắng. Sau này nhà văn còn sáng tác các tác phẩm: Cái bào thai, Sông máu, bút kí Cuộc sống...là những tác phẩm mang tính tự truyện. Từ những lý luận về nghệ thuật trần thuật trên đây, khi tìm hiểu các tác phẩm truyện (tự truyện) và tiểu thuyết của Nguyên Hồng trƣớc Cách mạng tháng Tám, ta có thể phân định rất rõ hai dạng trần thuật của nhà văn nổi bật lên ở các sáng tác văn xuôi trƣớc cách mạng tháng Tám. 3. Ngƣời trần thuật trong văn xuôi Nguyên Hồng Xuất phát từ vị trí của ngƣời kể chuyện gắn với điểm nhìn toàn tri, biết tuốt, có vai trò toàn năng với cái nhìn thông suốt tất cả, ở ngôi thứ ba và nhìn “từ bên trong” (gắn với điểm nhìn bên trong) khi ngƣời kể chuyện là nhân vật xƣng “Tôi” điểm nhìn bên trong thƣờng thể hiện độc thoại nội tâm của nhân vật. Nguyên Hồng đã dẫn dắt ngƣời đọc vào một thế giới nhân vật, với những câu chuyện cảm động vừa mang tính chủ quan lại vừa mang tính khách quan thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. 3.1. Ngƣời kể chuyện hàm ẩn Chuyên luận của đề tài là đi sâu tìm hiểu các tác phẩm của Nguyên Hồng trƣớc cách mạng tháng Tám dưới góc độ trần thuật bởi vậy cần khai thác yếu tố điểm nhìn của ngƣời kể chuyện. Sáng tác của Nguyên Hồng đã để lại ấn tƣợng sâu đậm trong lòng độc giả ngay từ những tác phẩm đầu tay. Tác giả - một chàng thanh niên với tuổi đời còn rất trẻ - mới 16 tuổi, sự nghiệp học hành giang dở, cuộc sống gia đình sa sút phải sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhƣng đã dám đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống: xã hội của những kẻ lƣu manh, trộm cắp, đĩ điếm...Với cuốn tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ Nguyên Hồng đã bộc lộ rõ tƣ tƣởng nhân đạo của một nhà văn hiện thực. Ông đã viết bằng tất cả những khát khao đƣợc hiến dâng cho đời những cảm xúc chứa chan yêu thƣơng về một nghịch cảnh trớ trêu đã đẩy con ngƣời, quá trình tha hoá của con ngƣời từ bản tính Thiện đến chỗ xấu xa, bỉ ổi. Dƣới giác quan của ngƣời nghệ sĩ, 14 điểm nhìn nghệ thuật thuộc ngôi thứ ba, Nguyên Hồng trong vai trò là ngƣời kể chuyện khách quan, đứng ngoài cuộc mà câu chuyện đƣợc miêu tả nhƣ chính thân phận, đau với nỗi đau tột cùng trong mọi ngõ ngách của tâm hồn nhân vật. Nhân vật chính là cô gái quê mùa chân chất nhƣng nghịch cảnh xã hội đã đẩy cô đến tận cùng của sự băng hoại đạo đức, ném cô trong các cơn lốc xoáy, tuy nhiên con ngƣời vẫn giữ đƣợc nét bản chất cao đẹp. Ngay khi mới ra đời tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng đã chiếm đƣợc lòng yêu mến của độc giả, tác phẩm có vai trò lớn trong việc khẳng định tên tuổi của nhà văn. Vì sao tác giả lại đƣợc đông đảo công chúng đón nhận? Điều này liên quan đến nội dung câu chuyện – một đề tài không mới về thân phận của một kiếp ngƣời dƣới đáy xã hội – nhƣng lại đƣợc kể qua điểm nhìn của một ngƣời đã “biết tuốt” về một xã hội thị dân với đầy rẫy những bất công, những sự bạo hành, những trái ngang...nên câu chuyện ấy đã dẫn dắt ngƣời đọc chứng kiến tất cả những gì thuộc về vô luân, vô nhân nhất mà con ngƣời thật nhỏ bé phải đƣơng đầu với chúng. Trong vai ngƣời kể chuyện (ngôi thứ ba, do tác giả sáng tạo ra), câu chuyện đƣợc dẫn dắt rất khéo léo, tự nhiên dƣờng nhƣ không phải do ý kiến chủ quan, thể hiện ý đồ của ngƣời sáng tạo. Với Bỉ vỏ, dƣờng nhƣ ngòi bút của ông không nhằm mục đích tố cáo mà là để thể hiện niềm thƣơng cảm của nhà văn trƣớc số phận con ngƣời. Nhân vật Tám Bính, là kết quả tất yếu của những kẻ quyền thế bỉ ổi, sản phẩm của xã hội thị dân. Khi mang trong mình giọt máu của kẻ ăn chơi sa đoạ, đã có lúc Bính rùng mình sợ hãi khi nhớ đến hình ảnh một ngƣời đàn bà bị làng phạt vạ: “Một ngày tháng năm, đường đá, sân gạch bỏng rẫy chân, thế mà chị Minh, người bị làng phạt vạ, phải quì ở giữa sân đình, nón không có, bế đứa con mới được mười ngày, cũng đỏ hon hỏn...giữa trời nắng chang chang...mặt mày tái mét, đẫm mồ hôi, răng thì cắn chặt...” [18, 6]. Nhà văn dƣờng nhƣ thấu hiểu tận cùng nỗi đau của nhân vật khi phải chịu những hình phạt hà khắc của một chế độ xã hội cổ hủ, tàn nhẫn. Không những thế ngƣời đàn bà ấy còn phải chịu những nỗi 15 cay đắng tột cùng khi bị chính bố mẹ mình - những ngƣời tƣởng rằng là điểm tựa trong lúc khốn cùng – thì chính họ lại đang tâm “cạo trọc đầu, bôi vôi trắng hếu, úp rế lên, rồi rong chị đi khắp làng” [18, 7]. Cách làm ấy chỉ để chứng minh rằng họ không hề dung túng, không nuông chiều con, nhƣng họ có biết đâu điều đó đã làm cho ngƣời đàn ấy có lần định thắt cổ tự tử cho hết nợ đời. Cái bài học xƣơng máu ấy, lại rơi đúng vào Bính, cảnh ngộ của Bính cũng không khác gì ngƣời đàn bà năm xƣa: không chồng mà chửa! Từ một cô thôn nữ xinh đẹp, lƣơng thiện, Bính đã phải lòng ông “quan tham đạc điền” để rồi từ một cô gái ngây thơ “Một ngày kia, phải một ngày thầm vụng, Bính đã buông phó cả thân thể cho y” [18, 6]. Và khi Bính nhận ra cái thai mỗi ngày một lớn thì cũng là lúc tên Tham Chung, bộc lộ rõ cái bộ mặt của kẻ phụ tình đã bỏ Bính mà đi không một lời từ biệt. Ngƣời đàn bà ấy đâu chỉ là nạn nhân của xã hội mà còn là nạn nhân của chính gia đình mình. Và cái bi kịch ấy của ngƣời đàn bà tiếp tục bị vòng xoáy của xã hội cuốn đi, trôi phăng theo những rác rƣởi, những tanh bẩn của xã hội vây bám. Ngay từ ngày đầu tiên ra thành phố, Bính đã bị lừa bịp, bị cƣỡng hiếp, bị bắt bỏ tù một cách vô cớ và tệ hại hơn cái xã hội vô luân nơi phố phƣờng thêm một lần nữa đẩy Bính tới đỉnh điểm của sự nhơ nhớp, dồn Bính vào nhà thổ, nơi mặc nhiên Bính trở thành gái điếm mặc dù chƣa một lần làm điếm. Một xã hội mà Bính mơ tƣởng sẽ thay đổi cuộc đời, xoá đi vết nhục thì ra lại là nơi biến con ngƣời thành những thứ hàng hoá rẻ mạt, tanh bẩn. Cuộc đời tủi nhục của thân phận làm gái điếm, của cái nghề mạt hạng “bán thân nuôi miệng” nhƣng lại bị bóc lột đến kiệt cùng sức lực. Sự cộng hƣởng của thói đểu giả thị thành cùng những cổ hủ thôn quê đã hợp lực lại dồn đẩy con ngƣời lƣơng thiện vào bƣớc đƣờng cùng, bế tắc. Cũng nhƣ Bính bao nhiêu cô gái đã bị mụ chủ chứa bóc lột sức lực đến mức ho ra máu rồi chết. Cái chết của những kẻ làm nghề mạt hạng ấy cũng giống nhƣ cái chết của hạng ăn mày, ăn xin nơi đầu đƣờng xó chợ khốn cùng không họ hàng, không ngƣời thân thích, ngƣời ta thuê vài 16 ngƣời phu chợ đùm trong chiếc chăn cũ rồi đem chôn: “Tấm áo quan bằng gỗ mỏng đu đi đu lại, cọ vào chiếc thừng treo lủng lẳng ở đầu đòn ống làm thành những tiếng kẽo kẹt thay cho tiếng khóc viếng” [18, 25]. Với cái nhìn xót thƣơng, dƣờng nhƣ nhà văn không muốn dừng lại nỗi đau thân phận Bính, Bính vẫn tiếp tục bị dòng đời xô đẩy. Nếu so sánh với những ngƣời con gái trong nhà chứa, Bính tƣởng chừng may mắn hơn khi đƣợc Năm Sài Gòn cứu vớt, nhƣng thực chất Bính lại bị rơi vào bi kịch khác tồi tệ hơn. Năm Sài Gòn thực chất là một tay “Chạy vỏ” khét tiếng, một “ông trùm” của xã hội đen Hải Phòng, một kẻ chuyên sống bằng nghề đâm chém, giết chóc. Bính sau nỗi đau thân xác, lại rơi vào cảnh sống lo âu, sợ hãi trƣớc những cảnh chém giết, tù tội có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Và quy luật khắc nghiệt của cuộc sống đã dần đào thải phần thanh sạch tâm hồn trong Bính, nhào nặn Bính trở thành một kẻ lƣu manh, thậm chí thành dân “anh chị”có máu mặt, một “bỉ vỏ” thứ thiệt, có số má. Bính từ một cô gái chân quê, biết nhục khi bị làm nhục, biết ô danh khi bị đẩy vào nhà chứa thì nay Bính đã tự nguyện đứng vào vai của kẻ lƣu manh không hổ thẹn, rất bài bản. Điều gì đã xô đẩy thân phận con ngƣời? Nhà văn không lớn tiếng phê phán xã hội nhƣng bản án của con ngƣời đã đƣợc định sẵn, đã dành cho một xã hội bất công, một xã hội phi nhân tính. Một kết thúc bi thảm về cái vòng luẩn quẩn tội lỗi của Tám Bính là cả Năm Sài Gòn và Tám Bính cùng bị bắt một lúc, đau đớn hơn trong giây phút tủi cực ấy, Bính lại nhận ra đứa con của mình bị chính Năm Sài Gòn giết chết. Những gì còn hy vọng và tin tƣởng vào cuộc sống đều tan biến, khi Bính tra tay vào còng cũng là lúc Bính chấm hết cuộc đời, tắt hết mọi niềm tin, hy vọng. Nhân vật Tám Bính ám ảnh trong lòng ngƣời đọc, sự xô đẩy của cuộc đời, của chính những ngƣời ruột thịt, của định kiến xã hội, của sự băng hoại đạo đức, của xã hội mị dân “chó đểu”, của lai tạp tha hoá. Để có đƣợc hình ảnh nhân vật Tám Bính, để đứng đƣợc ở góc nhìn về toàn bộ cuộc đời Tám Bính, nhà văn đã phải trải qua những tháng ngày cùng khổ, 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan