Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí tuổi thơ im lặng của duy khán...

Tài liệu Luận văn hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí tuổi thơ im lặng của duy khán

.PDF
53
105
139

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ===o0o=== TRẦN THỊ OANH HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG HỒI KÍ TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT MINH HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Minh - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thiện Khóa luận của mình. Trong quá trình nghiên cứu, tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô và bạn đọc góp ý để Khóa luận của tôi đƣợc hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Oanh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hƣớng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tuyết Minh. Kết quả trong đề tài này là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào. Những tài liệu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá đƣợc chính tác giả thu thập từ những nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất kì sự sai lệch nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Trần Thị Oanh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 6 6. Bố cục của Khóa luận ................................................................................ 6 NỘI DUNG ....................................................................................................... 7 Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG ................................................................ 7 1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí .............................................. 7 1.1.1. Khái niệm hồi kí ............................................................................... 7 1.1.2. Đặc trƣng của thể loại hồi kí ........................................................... 8 1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của kí................................ 10 1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại ............. 13 1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí Tuổi thơ im lặng ...................................... 15 1.3.1. Nhà văn Duy Khán......................................................................... 15 1.3.2. Hồi kí Tuổi thơ im lặng .................................................................. 17 TIỂU KẾT ....................................................................................................... 19 Chƣơng 2. SỰ THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN ......................................................................... 20 2.1. Kí ức về gia đình .................................................................................. 20 2.2. Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê ................................................ 24 2.3. Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa ................ 26 2.4. Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc ............................ 29 TIỂU KẾT ....................................................................................................... 33 Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HOÀI NIỆM TUỔI THƠ TRONG TUỔI THƠ IM LẶNG CỦA DUY KHÁN ........ 36 3.1. Nghệ thuật kể chuyện ........................................................................... 36 3.2. Ngôn ngữ .............................................................................................. 38 3.3. Giọng điệu ............................................................................................ 40 TIỂU KẾT ....................................................................................................... 43 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ai trong cuộc đời này cũng có một tuổi thơ. Đó là cái nôi hình thành và nuôi dƣỡng tâm hồn lẫn nhân cách của mỗi ngƣời. Tuổi thơ cho ta biết bao kỉ niệm đẹp, nâng đỡ tâm hồn ta mỗi khi mệt nhoài bởi cuộc sống hiện tại. Tuy nhiên, không phải tuổi thơ nào cũng là “thần tiên”. Với những tuổi thơ không may mắn, con ngƣời chỉ muốn trốn tránh và lãng quên. Song khi nói tới tuổi thơ, nó vẫn là thời gian đƣợc hầu hết mọi ngƣời tìm về trong nỗi nhớ để khắc ghi và trân trọng. Trong sáng tác văn học, nhiều nhà văn, nhà thơ cũng hƣớng ngòi bút về đề tài này. Họ tìm kiếm trong tâm trí mình những kí ức về một tuổi thơ đã qua và làm nó sống dậy trên từng trang sách. Từ những kỉ niệm tuổi thơ, con ngƣời biết trân trọng quá khứ và có ý thức sống tốt hơn. Văn học thế giới và văn học Việt Nam đều có những tác phẩm viết về đề tài tuổi thơ. Văn học Việt Nam sau 1975 có những thuận lợi của tình hình lịch sử - xã hội nên đổi mới toàn diện từ nội dung đến nghệ thuật, từ đề tài đến thể loại. Các đề tài mang cảm hứng thế sự đƣợc quay trở lại với đúng quỹ đạo của nó, trong đó đề tài tuổi thơ cũng đƣợc nhiều ngƣời viết hƣớng đến. Họ viết về tuổi thơ qua các bài thơ, những truyện ngắn hay những thể loại nhƣ hồi kí, tự truyện… Qua những tác phẩm viết về tuổi thơ, ngƣời đọc có thể cảm nhận phần nào hiện thực xã hội trong những năm tháng gắn liền với tuổi thơ ngƣời viết. Và quan trọng hơn, qua tác phẩm của mình, ngƣời viết muốn gửi tới bạn đọc những thông điệp, suy tƣ, chiêm nghiệm về cuộc đời và con ngƣời. Với ý nghĩa nhƣ vậy, việc tìm đọc và nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ cũng rất cần thiết và bổ ích với ngƣời đọc. Duy Khán là một trong những nhà văn thành công ở đề tài tuổi thơ với hồi kí Tuổi thơ im lặng đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn năm 1987. Tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ từng đốt cháy tấm lòng nhà văn, Tuổi thơ im 1 lặng chính là tâm huyết của Duy Khán, là món quà ông dành tặng quê hƣơng, tặng các con, các bạn nhỏ, và đặc biệt là tặng những ai đã từng nghèo khó. Với ý nghĩa đó, hồi kí Tuổi thơ im lặng là tác phẩm ngƣời đọc không thể bỏ qua khi nghiên cứu các sáng tác về đề tài tuổi thơ trong văn học sau 1975. Hiện nay, xu thế mở cửa và hội nhập giữa các quốc gia ngày càng đƣợc đẩy mạnh. Nó thúc đẩy xã hội phát triển mọi mặt, mức sống của con ngƣời nâng cao rõ rệt. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống vật chất, xu thế mở cửa và hội nhập cũng đem lại nhiều mặt trái. Trong đó, vấn đề nổi cộm là sự xuống dốc của những giá trị tinh thần và truyền thống văn hóa lâu đời. Con ngƣời sống trong xã hội ngày càng tiện nghi nhƣng đạo đức lại suy thoái. Không phải nguyên nhân duy nhất, nhƣng toàn cầu hóa là yếu tố quan trọng dẫn tới hệ quả này. Một trong những đạo lí cần đƣợc giữ gìn và phát huy là tinh thần “uống nƣớc nhớ nguồn”, ghi nhớ những đóng góp và hi sinh của thế hệ đi trƣớc đối với sự phát triển của dân tộc. Góp phần phát huy những truyền thống tốt đẹp đó, việc thông qua các tác phẩm văn chƣơng để giáo dục đạo đức, giúp con ngƣời thấu hiểu quá khứ, từ đó trân trọng hiện tại và có ý thức sống tốt hơn là điều rất cần thiết. Hồi kí Tuổi thơ im lặng là một trong nhiều tác phẩm văn học cung cấp những tƣ liệu xác thực về một thời kì đã qua trong lịch sử. Tìm hiểu những tác phẩm nhƣ vậy là rất cần thiết và bổ ích với ngƣời đọc. Từ những lí do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: Hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán làm đề tài của Khóa luận, với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé vào sự phát triển của hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay, đồng thời qua đó góp phần gìn giữ những giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc. 2. Lịch sử vấn đề Hồi kí Tuổi thơ im lặng xuất bản năm 1986 là tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Duy Khán, đánh dấu sự chuyển hƣớng của nhà văn từ 2 một ngƣời làm thơ chuyển sang sáng tác văn xuôi, từ một ngƣời dễ dãi chạy theo các đề tài thời sự trở lại tái hiện những kỉ niệm tuổi thơ nằm sâu trong tâm trí. Năm 1987, tác phẩm này đƣợc nhận giải thƣởng của Hội Nhà văn. Với thành công đó, Tuổi thơ im lặng đã nhận đƣợc sự quan tâm chú ý của giới nghiên cứu. Nhận xét về Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, nhà văn Nguyễn Khải cho rằng: “Cái tài để trở thành con trẻ, giữ nguyên đƣợc cặp mắt trong veo của ba đứa trẻ không bị biến dạng, bị gãy khúc, bị vẩn đục bởi bao nhiêu tháng năm chồng chất thì không ai dám ganh với Duy Khán” [8, tr.7]. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong tiểu luận Kỷ niệm về một tầng văn hóa làng quê nhận xét: “Tuổi thơ im lặng là những mẩu chuyện nhỏ về làng quê. Những mẩu chuyện, đúng hơn là những mẩu hồi tƣởng của tuổi thơ. Ở đây tƣởng chừng vặt vãnh, rời rạc, chẳng có cốt truyện gì, và khó còn có gì bình thƣờng hơn thế đƣợc nhƣng đã làm sống dậy thế giới làng quê vô cùng thân thiết. Không chỉ riêng làng quê của riêng tác giả, mà còn là làng quê Việt Nam lâu đời. Đặc sắc của tập truyện không chỉ là tình yêu thiên nhiên nồng nàn, ở chất thơ thấm đƣợm trong chữ, trong lời, mà chủ yếu tái hiện lại cái môi trƣờng văn hóa làng quê đã nuôi dƣỡng tâm hồn thơ bé Việt Nam từ nghìn xƣa… T ổi thơ im lặng là đóng góp đáng kể vào tủ sách viết cho tuổi thơ” [17, tr.674]. Tác giả Bùi Công Minh cho rằng: “Với T ổi thơ im lặng của Duy Khán, tôi chắc khó ngăn đƣợc nhiều độc giả thiên vị với anh, không nỡ chê trách anh ở chỗ này, chỗ nọ vì anh yêu quê hƣơng say đắm quá, cái tình anh đối với quê hƣơng mặn nồng nhân hậu quá. Tình yêu ấy có lúc làm cho anh cƣờng điệu đôi chút, cái gì cũng độc đáo, cũng “khổng lồ”. Nhƣng không sao, ngƣời ta thấy yêu quê hƣơng anh hơn và từ đó càng thêm yêu quê mình, cố nghĩ ra cách để nói về quê hƣơng mình nhƣ thế” [14, tr.15]. 3 Nhà văn Triệu Bôn nhận xét: “Không những Duy Khán kêu gọi đƣợc lòng trắc ẩn cho đồng loại, kêu gọi con ngƣời hãy trân trọng hơn nữa với quá khứ của mình, hãy độ lƣợng, thƣơng yêu những ngƣời xung quanh mình, mà còn khắc họa đƣợc khá nhiều về một xã hội đen tối trƣớc Cách mạng Tháng Tám và những bạn đọc nhỏ tuổi, cả với những ngƣời có ý định cầm bút viết văn mà ít từng trải sự đời, còn có thể xem đây là một mảng tƣ liệu, một mảng kiến thức về nông thôn ta cách đây hơn bốn mƣơi năm, khá bổ ích” [2, tr.11]. Tác giả Trần Bảo Hƣng viết về Tuổi thơ im lặng nhƣ sau: “Với những tình cảm chân thành và một lối văn giàu chất tạo hình, những trang viết của Duy Khán đã tạo nên đƣợc sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn ngƣời đọc. Nỗi buồn trong văn anh thực thấm thía và niềm vui cũng không phải dễ dãi…” [6, tr.9]. Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét: “Duy Khán đã dùng một lối văn chắt chiu, ngắn gọn, độc đáo (…). Đọc văn Duy Khán, ta nhƣ đƣợc xối những gầu nƣớc của những cái giếng khơi, càng xối càng thấy mát, mát từ ngoài da vào tận trong ngƣời theo dòng cảm xúc, ở nhiều chỗ, Duy Khán cũng tìm ra đƣợc cách diễn đạt gợi cảm, đúng và thích hợp với tâm lý tuổi thơ” [1, tr.24]. Trong Giáo trình Văn học trẻ em, Lã Thị Bắc Lý khi nói về quá trình hình thành và phát triển của văn học trẻ em Việt Nam từ 1986 đến nay đã đánh giá khái quát: “Khi chiến tranh đã đi qua, đƣợc sống với riêng mình, ý thức về “cái tôi” thức dậy, con ngƣời ta bỗng có cảm hứng tìm lại mình. Đó cũng là lúc Đảng kêu gọi đổi mới tƣ duy. Từ chỗ lấy điểm nhìn của xã hội làm hệ quy chiếu, văn học chuyển sang cái nhìn đời tƣ, thế sự, lấy số phận con ngƣời để đánh giá hiện thực, và nhìn nhận lại quá khứ” [13, tr.15]. Chính trên cơ sở đó, tác phẩm Tuổi thơ im lặng ra đời. Khóa luận tốt nghiệp của Trƣơng Thanh Huyền (2012, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2) đã đi sâu nghiên cứu: Hiệ q ả nghệ th ật phương thức 4 hoán dụ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của nhà văn D y Khán. Khóa luận tốt nghiệp của Chu Thị Thắm (2016, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2) lại đi sâu tìm hiểu: Hình tượng con người và làng q ê trong tác phẩm T ổi thơ im lặng của D y Khán. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về hồi kí Tuổi thơ im lặng chủ yếu là những đánh giá, nhận định chung mang tính khái quát, gợi mở cho việc đi sâu tìm hiểu tác phẩm. Một vài khóa luận đại học đi sâu tìm hiểu một số khía cạnh trong nội dung hoặc nghệ thuật của hồi kí. Vì vậy, tiếp thu gợi ý của những công trình đi trƣớc, trong khóa luận này, chúng tôi triển khai đề tài Hoài niệm t ổi thơ trong hồi kí T ổi thơ im lặng của D y Khán. Khóa luận mong muốn tiếp tục lí giải về thể loại hồi kí và những đóng góp của nhà văn Duy Khán đối với thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu của chúng tôi là hồi kí Tuổi thơ im lặng do nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành. -Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung làm rõ hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của nhà văn Duy Khán ở các phƣơng diện: + Kí ức về gia đình + Kí ức về cảnh sắc thiên nhiên làng quê + Kí ức về phong tục của một làng quê giàu bản sắc văn hóa + Kí ức về những năm tháng nhọc nhằn của đất nƣớc 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của Khóa luận là tập trung nghiên cứu về hoài niệm tuổi thơ của nhà văn Duy Khán trong hồi ki Tuổi thơ im lặng. Từ đó, nhận diện về đặc trƣng của thể loại hồi kí. Đồng thời, Khóa luận tiếp tục khẳng định đóng góp của Duy Khán đối với thể loại hồi kí trên văn đàn Việt Nam đƣơng đại. 5 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ của Khóa luận bao gồm: - Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết của thể loại hồi kí: khái niệm, đặc trƣng cơ bản, phân biệt hồi kí với các tiểu loại khác của thể kí. - Lí giải kí ức của nhà văn Duy Khán về gia đình, quê hƣơng, đất nƣớc trong những năm tháng tuổi thơ. Từ đó, thấy đƣợc tình cảm sâu nặng mà nhà văn dành cho con ngƣời và quê hƣơng của mình. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp - Phƣơng pháp so sánh - Phƣơng pháp liên ngành 6. Bố cục của Khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của Khóa luận gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1. Giới thuyết chung Chƣơng 2. Sự thể hiện hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán Chƣơng 3. Một số phƣơng diện nghệ thuật thể hiện hoài niệm tuổi thơ trong hồi kí Tuổi thơ im lặng của Duy Khán 6 NỘI DUNG Chƣơng 1. GIỚI THUYẾT CHUNG 1.1. Một số vấn đề lý thuyết về thể loại hồi kí 1.1.1. Khái niệm hồi kí Hồi kí là một thể loại thuộc loại hình kí - loại hình văn học trung gian nằm giữa báo chí và văn học. Hồi kí ra đời rất sớm, từ thời cổ Hi Lạp. Hồi ức của Kxê-nô-phôn và Xô-cơ-rát và những ghi chép của ông về các cuộc hành quân của ngƣời Hi Lạp (thế kỉ V TCN) thƣờng đƣợc coi là những tác phẩm hồi kí cổ xƣa nhất. Giải thích khái niệm hồi kí, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã căn cứ vào nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả dựa vào nội hàm nghĩa của từ “hồi kí” để nêu khái niệm, có ngƣời dựa vào đặc trƣng thể loại, hoặc dựa vào cách kể chuyện của thể loại này để nêu ra khái niệm. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu khá thống nhất ở điểm cơ bản: hồi kí là tái hiện quá khứ gắn với ngƣời thật, việc thật, tác giả chính là ngƣời trong cuộc hoặc chứng kiến... Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê): “Hồi kí là thể văn ghi lại những điều còn nhớ sau khi đã trải qua, đã chứng kiến sự việc” [16, tr.591]. Từ điển văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí là sáng tác thuộc nhóm thể tài kí, là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả chứng kiến” [3, tr.646 - 647]. Các tác giả cuốn Lí luận văn học (nhà xuất bản Đại học Sƣ phạm) cho rằng: “Hồi kí là thể loại ghi chép các sự kiện quá khứ đã trải qua do đƣơng sự thực hiện, cũng là một hình thức văn học riêng tƣ, mình nói về mình, một dạng tự truyện của tác giả” [18, tr.379 - 380]. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: hồi kí là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến [4, tr.152]. 7 Nhƣ vậy, những quan niệm trên về cơ bản đều dựa theo hình thức chiết tự từ Hán Việt: hồi là quay trở lại, kí là ghi chép những điều chứng kiến. Đây là cách lý giải ngắn gọn, dễ hiểu cho số đông ngƣời đọc. Để thuận lợi cho nghiên cứu, trong Khóa luận này, chúng tôi thống nhất theo quan niệm về hồi kí của Từ điển thuật ngữ văn học: hồi kí là “một thể loại thuộc loại hình kí, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến” [4, tr.152]. 1.1.2. Đặc trưng của thể loại hồi kí Hồi kí ghi chép sự việc diễn ra trong quá khứ nên một trong những đặc trƣng cơ bản nhất là tính xác thực của đối tƣợng miêu tả và tính trung thực của ngƣời hồi tƣởng. Chính yêu cầu cao về tính xác thực trong hồi kí nên ngƣời viết hồi kí hay ngƣời trần thuật phải là ngƣời trong cuộc, kể lại những việc đã xảy ra trong quá khứ mà bản thân đã tham dự hoặc chứng kiến, thậm chí lấy chất liệu từ chính cuộc đời mình. Tác giả là ngƣời tham dự hoặc chứng kiến nên xét về bản chất, thông tin trong hồi kí đều mang tính xác thực cao, rất ít yếu tố hƣ cấu. Ở phƣơng diện này, hồi kí hấp dẫn ngƣời đọc bởi những tƣ liệu có giá trị về bản thân ngƣời viết, về không khí thời đại, các sự kiện lịch sử trong quá khứ mà cuốn hồi kí đó dựng lên. Bởi vậy, viết hồi kí không phải là sự lựa chọn của số đông nhà văn, viết hồi kí là sự “đấu tranh để viết ra”, là “một cuộc mổ xẻ toàn diện” mà ngƣời viết phải thật sự dũng cảm. Hồi kí mang tính chủ quan của ngƣời kể chuyện quá khứ. Vì sự thật xảy ra đã có độ lùi vào quá khứ, cho nên ngƣời chứng kiến hoặc tham dự không thể nhớ lại tƣờng tận, không thể bao quát hết mọi diễn biến sự việc, nhất là sự việc đã xảy ra quá lâu. Đồng thời, bản thân ngƣời viết hồi kí luôn đƣợc trình bày mô tả ở bình diện thứ nhất. Vì thế, hồi kí thƣờng khó tránh khỏi tính chủ quan của ngƣời viết. Có nghĩa là, trong hồi kí cũng có yếu tố hƣ cấu. Tuy nhiên, hƣ cấu ở đây đƣợc hiểu với nghĩa là nhà văn có thể sử dụng những 8 hình thức không xác định. Nghĩa là không phải bịa đặt hay thêm thắt vô căn cứ mà là cả một quá trình lựa chọn, sắp xếp và tổ chức các tƣ liệu, chi tiết dữ kiện, với mục đích trình bày hiện thực một cách chân thực, đúng với bản chất của nó. Hơn nữa, tính chủ quan của hồi kí còn do sự nhìn nhận, đánh giá của ngƣời viết. Hiện thực phản ánh trong hồi kí là hiện thực đƣợc lựa chọn, và gây ấn tƣợng sâu sắc với ngƣời kể nên nó luôn ám ảnh, buộc phải viết ra, phải giải tỏa. Hiện thực ấy đƣợc tái hiện với một trạng thái cảm xúc riêng, đƣợc nhìn nhận, đánh giá lại bằng nhận thức chủ quan và bằng kinh nghiệm sống của ngƣời viết. Do vậy, ngƣời viết hồi kí khi tái hiện hiện thực không giữ thái độ khách quan nhƣ các sử gia. Hiện thực trong hồi kí cũng không thể so với các tƣ liệu gốc, các chứng tích mang tính lịch sử mà nó chỉ là một phần cơ sở để xác minh hiện thực trên phƣơng diện lịch sử. Điều quan trọng nhất, thông qua các sự kiện, các chi tiết liên quan đến tiểu sử, cũng nhƣ qua cách đánh giá, nhìn nhận, thái độ tình cảm trƣớc những gì đƣợc kể đến, tác giả hồi kí gián tiếp bộc lộ mình trong tính khuôn khổ của sự thật lịch sử, qua đó làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Xét ở phƣơng diện nghệ thuật, một trong những đặc trƣng nổi bật nhất của thể hồi kí là cách kể chuyện theo dòng hồi tƣởng, nhớ đến đâu kể đến đó và thƣờng không sử dụng thủ pháp cốt truyện. Tác giả có thể hồi tƣởng lại quá khứ theo trật tự thời gian tuyến tính, từ quá khứ xa đến quá khứ gần. Tuy nhiên, trong tác phẩm hồi kí, dòng hồi ức cũng có thể bị đảo lộn không theo một quy luật khách quan mà chịu sự tác động của ý thức - tác giả. Có nghĩa là, sự phản ánh hiện thực trong hồi kí đƣợc tuân theo quy luật riêng của dòng hồi tƣởng. Quy luật dòng hồi tƣởng này còn gọi là “dòng ý thức”. Nhìn từ đặc trƣng thể loại, “dòng ý thức” là một thuật ngữ chỉ một xu hƣớng tiểu thuyết khởi điểm từ đầu thế kỉ XX ở phƣơng Tây, có khả năng tái hiện trực tiếp đời sống nội tâm, xúc cảm và liên tƣởng ở con ngƣời. Ở Việt Nam, sau 1986, kỹ 9 thuật dòng ý thức trở nên phổ biến ở nhiều thể loại. Riêng với hồi kí, thủ pháp này không đƣợc sử dụng nhƣ một kỹ thuật mà là cơ chế tự nhiên của dòng hồi tƣởng, xuất phát từ cách kể tự thân, vốn có của hồi kí. Trong quá trình vận động, phát triển của hồi kí, các tác giả đã ý thức phát huy cơ chế này, góp phần tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm hồi kí. 1.1.3. Phân biệt hồi kí với các tiể loại khác của kí Về hồi kí và nhật kí, theo nhóm tác giả Từ điển thuật ngữ văn học: “xét về phƣơng diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện đƣợc ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phƣơng thức diễn đạt, hồi kí có nhiều chỗ gần với nhật kí” [4, tr152]. Từ điển Văn học (bộ mới) quan niệm: “Hồi kí gần nhật kí ở hình thức giãi bày, ở chỗ không dùng thủ pháp cốt truyện, ở cách kể thƣờng theo thứ tự thời gian, ở việc chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử” [3, tr.646-647]. Có thể khẳng định rằng, giữa hai thể tài này có đƣờng biên gần nhau ở hình thức giãi bày, ở việc không dùng các thủ pháp cốt truyện và đều chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử. Song, nhật kí là dạng trần thuật từ ngôi thứ nhất số ít dƣới hình thức những ghi chép sự kiện đang diễn ra hàng ngày, có đánh số ngày tháng, không hƣ cấu; ghi lại các sự kiện đời tƣ đồng thời bộc lộ những cảm xúc, suy tƣ của bản thân chứ không chủ đích viết cho công chúng; trong khi hồi kí có thể bao gồm sự tái cấu trúc, sắp xếp sự kiện rời rạc không liền mạch trong trí nhớ của tác giả, và có thể có hƣ cấu. Hồi kí và nhật kí đều là những chuyện đời tƣ, nhƣng hồi kí đƣợc viết theo chiều nghịch của thời gian, hƣớng về dĩ vãng với cảm hứng hồi cố, còn nhật kí đƣợc viết theo chiều thuận, ghi lại những sự kiện và cảm xúc hàng ngày. Hồi kí có tính tổng kết và lý giải còn nhật kí có tính thời sự và thƣờng dang dở, ít khái quát, bởi thời gian sống và viết gần nhƣ đồng thời. Nếu hồi kí viết ra nhằm giãi bày, thú 10 nhận với ngƣời khác, thiên về hƣớng ngoại thì nhật kí là lối viết thầm kín cho riêng mình, có tính riêng tƣ và hƣớng nội. Về hồi kí và tự truyện, nội hàm hai khái niệm này rất gần nhau nhƣng không hoàn toàn trùng khít. Từ điển Văn học (bộ mới) phân biệt: “Hồi kí có thể chỉ ghi lại những sự kiện về một thời kì lịch sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính; còn tự truyện kể chuyện của cái “tôi” tác giả. Tự truyện không phải một tập hợp những kỉ niệm tản mạn, mà đƣợc bố trí nhƣ một truyện, một tiểu thuyết” [3, tr.1906]. Nhƣ vậy, hồi kí và tự truyện đều đề cập đến những gì thuộc về quá khứ. Cơ chế của ngƣời viết hồi kí và tự truyện đều hƣớng về dĩ vãng, đều có cảm hứng tổng kết và lý giải, đều đƣợc viết ra cho ngƣời khác đọc để bộc bạch cái tôi, chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Xét về bản chất, tự truyện mang đặc trƣng của truyện, giàu tính miêu tả, chú ý đến nghệ thuật kể, còn hồi kí mang đặc trƣng của kí, nặng về tính sự kiện, tính xác thực. Tự truyện xuất phát từ nhu cầu lý giải bản thân nhiều hơn, từ nhu cầu đó để tập trung vào quá trình hình thành nhân cách và lịch sử thế giới nội tâm của mình trong sự tƣơng tác với thế giới bên ngoài, còn hồi kí chỉ xuất hiện khi ngƣời ta có cảm hứng hồi cố, có nhu cầu trục vớt quá khứ khi nó đòi đƣợc hiện diện trong hiện tại, thỏa mãn mong muốn xét lại lịch sử. Do vậy, tự truyện có cái tôi hiện tại, hồi kí không có cái tôi hiện tại và thông thƣờng hồi kí cần có độ lùi thời gian hơn, đủ cho kí ức sống lại, đong đầy một niềm tiếc nuối, hiện thực bị khuất lấp đƣợc trình ra. Về hồi kí và các dạng thức tự thuật. Tiểu thuyết tự thuật là dạng tiểu thuyết sử dụng những “câu chuyện cuộc đời” có thật để làm chất liệu sáng tạo nghệ thuật. Trong tiểu thuyết tự thuật, ngƣời kể chuyện xƣng “tôi” đồng nhất với tác giả, kể chuyện về đời mình, kể cả chuyện riêng tƣ, trong đó có cả sự hƣ cấu về những câu chuyện liên quan đến đời mình. Nhƣ vậy, đƣờng biên giữa tiểu thuyết tự thuật với hồi kí thật nhạt nhòa. Hồi ức và sáng tạo, sự thật 11 và hƣ cấu, cái riêng và cái chung luôn có nguy cơ lẫn vào nhau, thâm nhập vào nhau ở hai thể loại này. Tuy nhiên, dựa vào những nét khu biệt, ta vẫn nhận ra ranh giới giữa tiểu thuyết tự thuật và hồi kí. Tiểu thuyết tự thuật tuy dựng lại cuộc đời của ngƣời đó, trong thời đại đó nhƣng đã hƣ cấu hóa, còn hồi kí là dựng lại gƣơng mặt quá khứ trong đó có cuộc đời của mình với những chi tiết tiểu sử, đời tƣ không có sự hƣ cấu. Bản chất sự thật trong tiểu thuyết tự thuật ở đây là cái giống, có khi là “phiên bản” của sự thật, tác giả là ngƣời không chịu trách nhiệm về điều đó. Còn hồi kí, nếu có hƣ cấu thì đó cũng chỉ là cách để chuyển tải sinh động cái sự thật. Xuất phát điểm của hồi kí không phải sáng tạo nghệ thuật mà cốt để nhớ lại, viết lại quá khứ và cuộc đời của tác giả, còn tiểu thuyết tự thuật là sự sáng tạo của nhà văn. Ngoài ra, xét về phƣơng diện tƣ liệu, tính xác thực và không có hƣ cấu, hồi kí lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu thuyết khoa học. Song, nếu các thể loại này hƣớng vào tính nghiêm ngặt của sự thực và nghiên cứu, phân tích các tƣ liệu một cách toàn diện, thì ngƣời viết hồi kí chỉ tiếp nhận và ghi chép phần hiện thực mà tác giả nhìn rõ hơn trên cơ sở những ấn tƣợng và hồi ức riêng trực tiếp của mình. Vì vậy, trong toàn bộ tác phẩm hồi kí có sự nổi trội của bản thân ngƣời viết hoặc cái nhìn của bản thân ngƣời viết vào tất cả những gì đƣợc kể lại, miêu tả lại. Nhìn chung, trong sự phát triển của thể hồi kí, đƣờng biên thể loại không tuyệt đối, bản thân tác phẩm hồi kí luôn có sự xâm nhập, dung hợp các thể tài, thể loại khác. Chính sự giao thoa giữa các thể loại khiến tác phẩm hồi kí càng đƣợc chắp thêm đôi cánh vƣơn ra những chân trời mới của việc tái hiện hiện thực. Nó đồng thời cũng thể hiện tính hiện đại, năng động, linh hoạt của thể loại kí nói chung trong thời kì mở rộng và đổi mới tƣ duy nghệ thuật của những năm sau 1975. Tuy vậy, văn bản hồi kí dù có tính tự do (do tính chủ quan của hồi ức) hoặc dẫu khó xác định đƣờng biên thể loại thì cũng không thể nằm ngoài khung đặc trƣng thể loại. 12 1.2. Thể loại hồi kí trong đời sống văn xuôi Việt Nam đƣơng đại Sau 1975, hồi kí thực sự góp phần đáng kể trong việc tạo lập một diện mạo riêng trên văn đàn Việt Nam. Một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển của hồi kí là điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam đƣơng đại. Nhìn từ bối cảnh xã hội - văn hóa, trong xu thế hội nhập toàn cầu, đời sống văn học có nhiều chuyển đổi, hồi kí cũng không đứng ngoài lề. Đất nƣớc hòa bình, xã hội có nhiều biến đổi, tâm tƣ, tình cảm, suy nghĩ của con ngƣời, đặc biệt là của ngƣời nghệ sĩ cũng đổi khác. Bên cạnh vấn đề vận mệnh dân tộc, vấn đề số phận cá nhân đƣợc đặt ra gay gắt. Ý thức cá nhân thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ. Những vấn đề thuộc về cá nhân, riêng tƣ từ trƣớc bị kìm nén, bị giấu đi trong cái chung, trong nhân danh cái cộng đồng đƣợc chú ý khai thác và đào sâu. Ý thức của con ngƣời cá nhân với những nhu cầu, khát vọng đời thƣờng mang tính bản năng đƣợc đánh thức. Văn học hƣớng đến cảm hứng thế sự, đời tƣ để thỏa mãn thị hiếu, nhu cầu cấp thiết của độc giả. Đặc biệt, văn nghệ sĩ vốn nhạy cảm với những biến thiên của cuộc đời, hành trình sáng tạo cũng nhiều thay đổi, họ có nhu cầu nhìn lại chính mình, khẳng định vai trò, vị thế cá nhân trong xã hội, trong văn chƣơng. Trƣớc những nhu cầu này, sức mạnh của một tác phẩm văn học không còn ở chỗ khối lƣợng hiện thực đƣợc ghi chép, phản ánh mà còn đòi hỏi nhà văn phải thể hiện đƣợc những nghiền ngẫm, tình cảm và chiều sâu tƣ tƣởng của mình. Đòi hỏi này là thế mạnh của hồi kí, nhất là hồi kí văn học. Hồi kí vốn là sự hồi cố lại những gì nhà văn đã trải qua trong quá khứ, thế nhƣng, tất cả những hồi ức đó chỉ là đƣờng viền, là cái cớ để đƣa ra những nhận xét, đánh giá, trăn trở, suy ngẫm và bộc lộ những quan điểm tƣ tƣởng của chính nhà văn. Nói đúng hơn, hồi kí viết về cái hôm qua để suy xét cái hôm nay, để ngƣời đọc nhận ra bao bộn bề của thế sự đời thƣờng… Bên cạnh sự phát triển của truyện ngắn, tiểu thuyết với những bứt phá trong cách tân thể loại, hồi kí cũng đi tìm cho mình mảnh đất để dụng võ với 13 cả số lƣợng đông đảo về tác giả, tác phẩm cũng nhƣ những dấu ấn về nội dung và nghệ thuật của thể tài trong hành trình phát triển. Hồi kí đã đáp ứng đƣợc nhu cầu cần hiểu, cần đánh giá lại một thời đại đã qua của lịch sử văn học, chiêm nghiệm lại quá khứ của bản thân ngƣời viết và độc giả. Sự chuyển biến của tƣ duy văn học sau 1975 đƣợc thể hiện ở khuynh hƣớng “phi sử thi hóa”, đƣa văn học trở lại với “quỹ đạo” đời thƣờng. Các thể loại văn học phát triển mạnh mẽ và đều có vị trí trọng yếu. Nằm trong dòng mạch đó, hồi kí phát triển đáp ứng nhu cầu vận động tự thân của văn học. Hơn thế nữa, văn học giai đoạn từ 1975 đến nay đã có một đội ngũ sáng tác trải nghiệm từ thời chiến bƣớc vào thời đổi mới với bao va đập qua những bƣớc ngoặt lịch sử. Nhu cầu viết về mình, về thế hệ mình, về những vinh quang thăng trầm quá khứ trở nên bức thiết. Hồi kí ra đời nhƣ một tổng kết cuộc đời mình, để sống lại một lần nữa cuộc đời đã sống, để khách quan nhìn nhận, đánh giá lại chính cuộc đời mình bằng sự trải nghiệm của bản thân. Nói cụ thể hơn, viết hồi kí là nhu cầu để nhà văn giải tỏa những ẩn ức bởi sự giục giã, thôi thúc từ bên trong. Tất cả điều này đã khiến cho hồi kí phát triển mạnh mẽ. Diện mạo hồi kí sau 1975 khá phong phú với nhiều phong cách, với sự tập hợp nhiều thế hệ. Đóng góp lớn cho thành tựu hồi kí giai đoạn này là thế hệ các nhà văn tiền chiến, từng sáng tác trƣớc Cách mạng, thuộc các khuynh hƣớng. Tham dự với vai trò chủ đạo trong nhiều chặng đƣờng văn học, có mặt trong những sự kiện trọng đại của đất nƣớc qua những biến thiên lịch sử, nhu cầu viết hồi kí trở nên bức thiết đối với thế hệ này. Đây là thế hệ trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời cũng nhƣ sáng tác văn chƣơng. Thế hệ này cũng đến độ “tri thiên mệnh”, có nhiều đóng góp cho văn học nƣớc nhà, muốn nhìn lại chính mình và thế hệ của mình qua những biến đổi lớn lao. Nhiều thiên hồi kí tái hiện các giai đoạn lịch sử - xã hội - văn học qua các thời kì, giàu tính thẩm mỹ, đƣợc cộng đồng văn học đón nhận. 14 Nhắc tới thành tựu của thể loại hồi kí sau 1975 là nhắc tới các tác phẩm tiêu biểu nhƣ Miền thơ ấu (Vũ Thƣ Hiên), Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi chân ai, Chiều chiều (Tô Hoài), Đặng Thai Mai hồi ký (Đặng Thai Mai), Từ bến sông Thƣơng (Anh Thơ), Hồi ký song đôi (Huy Cận), Nhớ lại một thời (Tố Hữu)…Với những tác phẩm này, cái tôi của ngƣời viết hiện diện rất sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm nhìn từ hiện tại. Những chi tiết tự truyện, thái độ chủ quan của ngƣời trần thuật chứa đựng nhu cầu khẳng định giá trị của kinh nghiệm cá nhân. Trong thành tựu chung của hồi kí sau 1975, số lƣợng tác giả của phong trào Thơ mới tham gia khá nhiều. Những tác phẩm hồi kí ra đời ghi lại cả một khoảng trời về tuổi thơ, về quê hƣơng, gia đình, về những sự kiện lịch sử in đậm trong hồi ức nhƣ Nửa đêm sực tỉnh (Lƣu Trọng Lƣ), Những gƣơng mặt đáng yêu (Nguyễn Xuân Sanh), Hồi ký Song Đôi (Huy Cận). Đặc biệt các nhà thơ nữ cũng làm mới diện mạo hồi kí bằng những tác phẩm đậm tính nữ nhƣ Hồi ký Anh Thơ, hồi kí Núi Mộng Gƣơng Hồ (Mộng Tuyết)… Nhìn chung, sau năm 1975, thể loại hồi kí có những điều kiện thuận lợi để phát triển và đạt nhiều thành tựu rực rỡ, góp phần không nhỏ vào việc thay đổi diện mạo của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại. 1.3. Tác giả Duy Khán và hồi kí T ổi thơ im lặng 1.3.1. Nhà văn D y Khán Duy Khán là nhà văn gốc Bắc Ninh, trƣởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Duy Khán viết báo nhiều hơn sáng tác văn học. Tuy vậy, nhà văn cũng có vị trí nhất định trong văn xuôi Việt Nam sau 1975. Nhà văn Duy Khán tên khai sinh là Nguyễn Duy Khán, sinh ngày 6 tháng 8 năm 1934, tại thôn Sơn Trung, xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan