Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ nôm nguyễn trãi...

Tài liệu Luận văn hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ nôm nguyễn trãi

.PDF
92
158
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM DƢƠNG VĂN HOÀNH HIỆN TƢỢNG ĐẶC THÙ TRONG NGHỆ THUẬT GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHAM DƢƠNG VĂN HOÀNH HIỆN TƢỢNG ĐẶC THÙ TRONG NGHỆ THUẬT GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học :TS. Phạm Thị Phƣơng Thái Thái Nguyên, năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Với lòng biết ơn sâu sắc và tình cảm chân thành, tác giả xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ Văn, Khoa Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên - Đại hoc Thái Nguyên cùng các thấy, các cô đã tham gia trực tiếp giảng dạy và đóng góp ý cho tác giả trong suốt quá trình học tập , nghiên cứu khoa học và hoàn thành Luận văn. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng kính trong và biết ơn sâu sắc đối với TS. Phạm Thị Phương Thái, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu hoàn thành Luận văn. Xin chân thành cảm ơn những ngươi thân trong gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Mặc dù tác giả đã có nhiều sự cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp quan tâm đến Luận văn này. Thái Nguyên, tháng 05 năm 2012 Tác giả Dƣơng Văn Hoành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nói chung............................................................... 7 4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 7 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 8 6. Kết cấu đề tài ............................................................................................. 8 NỘI DUNG....................................................................................................... 9 Chƣơng 1: NGUYỄN TRÃI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 9 1.1. Con người và thời đại Nguyễn Trãi ....................................................... 9 1.1.1. Con người ............................................................................................ 9 1.1.2 Thời đại .............................................................................................. 13 1.2 Khái niệm về tính dân gian và tính hiện đại. ........................................ 16 1.2.1. Tính dân gian..................................................................................... 16 1.2.2. Tính hiện đại ..................................................................................... 17 1.3. Nguyên tắc gieo vần trong thơ Việt ..................................................... 22 Chƣơng 2: TÍNH DÂN GIAN TRONG NGHỆ THUẬT GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI .............................................................. 26 2.1. Hiện tượng bắt vần trong câu ............................................................... 26 2.1.1. Khảo sát, thống kê ............................................................................. 26 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.1.2. So sánh lối gieo vần trong câu với thói quen diễn đạt trong dân gian. ...................................................................................................... 30 2.1.3. Hiệu quả của lối gieo vần trong câu trong QATT ............................ 31 2.2. Tiếng cuối câu trên bắt vần tiếng câu dưới ở vị trí tiếng thứ1-6 ......... 35 2.2.1 Khảo sát thống kê ............................................................................... 35 2.2.3. Giá trị, hiệu quả. ................................................................................ 43 Chƣơng 3: TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT GIEO VẦN THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI .............................................................. 52 3.1. Gieo vần trái thanh điệu (hài âm) trong một dòng thơ ........................ 52 3.1.1. Khảo sát, thống kê ............................................................................. 52 3.1.2. Nét độc đáo trong câu thơ sử dụng hiện tượng hài âm. .................... 54 3.2. Gieo vần từ câu trên xuống câu dưới theo nguyên tắc hài âm. ............ 63 3.2.1. Thống kê, phân loại ........................................................................... 63 3.3. Liên hệ giữa lối hài âm trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Việt Nam hiện đại. .............................................................................................. 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 TÀI LIỆU THAM KHẢO Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lý do khoa học Quốc âm thi tập là tập thơ đầu tiên bằng tiếng mẹ đẻ của ta, cổ nhất, chính xác nhất còn lại cho văn học Việt Nam. Với tập thơ Nôm này, Nguyễn Trãi được đánh giá là “vĩ nhân… có một vị trí cao trong bảo tàng văn học Việt Nam, đó là một nhà thơ mở đầu thơ cổ điển Việt Nam[16.587- 638]. Bởi đây là một tập thơ có giá trị lớn cả về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Cho đến nay giá trị của Quốc âm thi tập vẫn cần tiếp tục được khẳng định trên nhiều phương diện, góc độ. Nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi có vai trò quan trọng trong nghệ thuật Quốc âm thi tập nói riêng và nền thơ dân tộc viết bằng tiếng Việt nói chung. Cách gieo vần, ngắt nhịp biến tấu linh hoạt tạo cho thơ Nôm Nguyễn Trãi đa phần có nhịp điệu tự do, uyển chuyển. Quốc âm thi tập vì thế, đã tránh được đơn điệu, gò bó - điểm hạn chế của thơ Đường luật và trở thành bản nhạc đa thanh phù hợp với cảm xúc trầm bổng khi chân chất, hồn nhiên khi tân kì, sâu sắc của tác giả. Ngoài lối gieo vần thông thường của thơ Đường luật, Quốc âm thi tập sử dụng những lối gieo vần có tính chất “phá cách”, vừa mang tính chất dân gian vừa có nét hiện đại. Có thể xem, những kiểu gieo vần đó như minh chứng để khẳng định tài năng sáng tạo và ý thức khát khao xây dựng cho dân tộc một lối thơ riêng. Khám phá hiện tượng đặc thù của nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, để qua đó thêm một lời khẳng định giá trị nghệ thuật của tập thơ và vị thế của Nguyễn Trãi trên thi đàn dân tộc là mong muốn của đề tài này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 1.2. Lý do thực tiễn Nguyễn Trãi với các di sản tư tưởng, văn hoá đã được sưu tầm, phân tích đánh giá khá là đầy đủ, đã thu hút được sự quan tâm đông đảo của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tham gia.Chúng ta có thể nhận thấy và khẳng định rằng Nguyễn Trãi có sự ảnh hưởng và một địa vị rất lớn trong đời sống văn hoá của dân tộc. Vì vậy các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi, trong đó có thơ Nôm đã được giới thiệu rộng rãi, được đưa vào trong các trường phổ thông, chuyên nghiệp học tâp ngày càng nhiều, cũng như là nguồn đề tài phong phú cho hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học có giá trị cao. Với những lí do kể trên, việc thực hiện đề tài “Hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi’’ là một trong những cách để tiếp cận tri thức, rèn luyện khả năng tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học. Đồng thời giúp cho người thực hiện đề tài có thêm những hiểu biết nhất định về thơ Nôm Nguyễn Trãi - một tác phẩm lớn được giới thiệu và tuyển chọn trong chương trình giảng dạy các cấp, các bậc học hiện nay. Chúng tôi hi vọng công trình sẽ đóng góp tích cực vào quá trình giảng dạy và học tập thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Tính đến nay, lịch sử nghiên cứu Quốc âm thi tập đã có một bề dày. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi cũng chưa có là bao. Có thể kể đến một số công trình, bài viết tiêu biểu của các tác giả như “Âm vang tục ngữ, ca dao trong thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi” của Bùi Văn Nguyên, “Hành văn trong thơ Nguyễn Trãi” của Xuân Diệu, “Cống hiến của Nguyễn Trãi với tiếng Việt” của Hoàng Tuệ, “Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi tập” và “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam” của Phạm Luận, “Một bản lĩnh thơ dân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 tộc” của Minh Hiệu, Luận văn tiến sĩ của Phạm Thị Phương Thái “ Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi”... Song, chúng tôi nhận thấy, do mục tiêu nghiên cứu khác nhau nên việc tìm hiểu, khai thác và đánh giá về tính dân gian và tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi còn thiếu tính cụ thể và chưa mang tính hệ thống. Bùi Văn Nguyên với bài viết của mình đã có nhận định và chứng minh của mình để thấy được tục ngữ và ca dao được sử dụng trong Quốc âm thi tập khá nhuần nhuyễn, tác giả viết “Có thể nói yếu tố tục ngữ, ca dao khá đậm đà trong nhiều câu, nhiều bài thơ quốc âm của Ức Trai tiên sinh.Tiếng nói của tổ tiên ta được truyền lại gần như nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ…chính nhờ Nguyễn Trãi ghi lại một số câu tục ngữ ca dao trong thơ quốc âm của mình mà chúng ta có được cái mốc lịch sử chắc chắn để tìm hiểu một số dạng tục ngữ ca dao với ý nghĩa lịch sử của nó”[62.807]. BùiVăn Nguyên đã có thống kê, đối chiếu khá cụ thể, từ đó ông đi đến kết luận cách khai thác vốn cổ trong tục ngữ, ca dao của Nguyễn Trãi cũng linh hoạt, sáng tạo có chỗ như “lẩy” có chỗ như “tập” có chỗ như “phỏng”có chỗ lấy ý mà từ có bổ sung, hay có chỗ lấy từ mà ý bổ sung[62.812]. Tác giả Bùi Văn Nguyên còn dẫn ra một loạt các ví dụ về cách sử dụng tục ngữ khi sáng tác thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Thí dụ, ông cho rằng Nguyễn Trãi đã lấy trọn vẹn cả từ lẫn ý câu tục ngữ “giầu người hợp, khó người tan” để lấy đó làm câu phá đề cho bài Bảo kính cảnh giới 12 như sau: Giàu người họp, khó người tan Hai lấy hằng lề sự thế gian… Hay trong một bài thơ khác, bài Bảo kính cách giới số 30 Bùi Văn Nguyên đã cho rằng câu tục ngữ khá dài: “khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét” đã được Nguyễn Trãi cắt thành hai câu : Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Chẳng khôn chẳng dại luống ương ương, Chẳng dại người hoà lại chẳng thương… Ông cho rằng ở 2 câu này Nguyễn Trãi sử dụng 2 vần “ương” và “ thương” được rút ra từ câu tục ngữ. Có thể rút ra rằng, tác giả Bùi Văn Nguyên quan tâm chủ yếu đến mối quan hệ ảnh hưởng của văn vần dân gian và thơ Nôm Nguyễn Trãi. Trường hợp ông quan tâm đến cũng chỉ mới là một ví dụ làm rõ hơn về mối quan hệ đó mà thôi. Những nhận định này của Bùi Văn Nguyên cần phải bàn thêm. Bởi cho đến nay những câu tục ngữ, ca dao lấy ra để so sánh với thơ Nôm Nguyễn Trãi ra đời vào khi nào? Vì vậy mà không biết rằng Nguyễn Trãi đưa tục ngữ, ca dao vào trong thơ mình hay là từ thơ ông mà đưa ra cuộc sống để trở thành tục ngữ, ca dao tạo thành nguồn vốn của dân gian. Xuân Diệu với “Hành trang trong thơ Nguyễn Trãi”đã nghiên cứu cấu trúc và cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Trãi trong thơ Nôm. Tác giả bài viết đã rút ra rằng cách dùng từ đặt câu của Nguyễn Trãi chân phương, đưa vào thơ nhiều Nôm nhiều từ ngữ sáng tạo, sinh động và tinh tế… Ở một bài khác, bài “Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ Việt Nam”, đã bình khá sắc sảo về trường hợp gieo vần trong bài Bảo kính cảnh giới số 22 của Nguyễn Trãi.Ông viết như sau: “bản lĩnh của Ức trai có cái chất cứng, rất cứng. cái cứng ấy lộ ra trong văn của câu thơ, nếu chẳng hạn nói “khó khăn trọn nghĩa, cháo càng ngon” thì cũng là một câu giáo huấn bản thân mình , đặt cá tính của mình vào: “Khó khăn phải đạo, cháo càng ngon”; láy tiếng đặt các vần trắc lặp lại ở giữa câu, làm cho nó cứng cỏi, cương quyết, hai lần khẳng định[16.601]. Lời bình của Xuân Diệu làm nổi bật loại gieo vần ở giữa câu – gieo đúng vào vị trí ngắt nhịp. Ông còn tinh tế nhận ra đó là vần trắc, loại vần rất hiếm gặp trong thơ Đường luật và ông cho rằng chính lối gieo vần này đã làm lên bản lĩnh cứng cỏi của Nguyễn Trãi trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 thơ Nôm. Như vậy Xuân Diệu đã tìm hiểu về gieo vần trong Quốc âm thi tập. Tuy nhiên, thì việc tìm hiểu cũng chỉ mới dừng lại ở một trường hợp cụ thể khi xem xét nhiều vấn đề thuộc nội dung tư tưởng của tập thơ mà thôi. Hoàng Tuệ cũng đã nói đến bản lĩnh và cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, Hoàng Tuệ khẳng định Quốc âm thi tập là biểu hiện một tư tưởng chính trị, một ý chí đấu tranh. Nhưng tập thơ còn biểu hiện những vấn đề của tiếng Việt sáu thế kỉ trước đây, và bản lĩnh ngôn ngữ của Nguyễn Trãi trước những vấn đề ấy. Bản lĩnh ấy rất tích cực và đó là mặt khác trong cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt.[72.818]. Từ đó Hoàng Tuệ đã chỉ ra hiện tượng đáng ghi nhận về mặt ngôn ngữ trong Quốc âm thi tập : Bộ phận từ vựng Việt- kể cả những từ gốc Hán đã đồng hoá từ lâu đời - chiếm vị trí nổi bật. Ngữ pháp cũng là Việt; tục ngữ rõ ràng được quý chuộng. Về chất liệu Hán trong Quốc âm thi tập, Hoàng Tuệ cũng phân tích kĩ để thấy được vì sao một người như Nguyễn Trãi, một người đang muốn thử nghiệm làm giàu đẹp tiếng Việt lại dụng nhiều tiếng Hán…Song dù Nguyễn Trãi có sử dụng nhiều từ vựng Hán nhưng Hoàng Tuệ vẫn đánh giá sự cống hiến của Nguyễn Trãi rất cao: cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, đó là cống hiến thật to lớn…Nguyễn Trãi , người mở đầu gian khổ và xuất sắc sự nghiệp lớn lao về tiếng Việt Văn học…[72.826]. Hoàng Hữu Yên đã chỉ ra rằng:“khả năng biểu đạt trong thơ Nguyễn Trãi đạt đến vẻ đẹp tinh vi, tế nhị, kho từ thuần Việt phong phú, đa dạng. Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò của mình trong lịch sử ngữ âm, lịch sử từ vựng, lịch sử ngữ pháp tiếng Việt. Phạm Luận với hai bài viết “Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi tập và “Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi pháp Việt Nam”.Trong Nguyễn Trãi và thể thơ Việt Nam trong Quốc âm thi tập, Phạm Luận đã chỉ ra: thể thơ của Quốc âm thi tập tuy có làm theo quy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 cách thơ Đường luật. Song số bài hoàn toàn theo quy cách thơ Đường luật thực sự không nhiều, số lớn bài thơ đều ít nhiều viết khác niêm luật thơ Đường.[54.839-840]. Theo Phạm Luận, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều câu thơ bảy chữ, cách ngắt nhịp phổ biến 3/4 (lẻ trước chẵn sau) nó khác với cách ngắt nhịp phổ biến 4/3 (chẵn trước lẻ sau) trong thơ Đường luật. Nguyễn Trãi cũng sử dụng vần lưng.Việc dùng câu sáu không cố định nhiều khi dẫn đến thất niêm, điều đó cho thấy sự phóng túng của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng cách điệu thơ Đường Luật. Pham Luận đã phân tích, chứng minh rất tỉ mỉ, thấu đáo để rút ra kết luận: “Quá trình sáng tác thơ bằng tiếng Việt, Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu sắc thi pháp luật Đường như thế nào. Nhưng điều đáng chú ý hơn là từ những tiềm năng quý báu của thể thơ Trung Quốc này, Nguyễn Trãi đã có “một cố gắng để xây dựng một lối thơ Việt Nam ở giai đoạn chữ Nôm mới bắt đầu hình thành và phát triển” [55.856]. Phạm Luận còn phát hiện ra sự sáng tạo của Nguyễn Trãi về cách gieo vần lưng đã thể hiện bước mở đầu trong quá trính xây dựng thi pháp Việt Nam. Trong “Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời( lục ngôn) xen bảy lời trong Quốc âm thi tập”, NgôVăn Phú cho rằng thể thơ thất ngôn và lục ngôn có từ thời Trần, Nguyễn Trãi đã “đóng góp lớn cho thể thơ này định hình và tồn tại”. Từ những bài chính nói về thể thơ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy các tác giả đều đánh giá đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi trong việc định hình và khẳng định một thể thơ dân tộc. Tuy nhiên do sự biến thiên thời gian, do các tài liệu lưu lại không còn đầy đủ, các tác giả cũng mới chỉ dừng lại ở đó và câu giải đáp vẫn còn ở phía trước cần được tìm hiểu thấu đáo hơn. Tuy “Hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần thơ Nôm Nguyễn Trãi” mới chỉ “thấp thoáng” trong các công trình nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 trên, nhưng nó là sự gợi dẫn quý báu giúp chúng tôi tìm hiểu một cách cụ thể hơn, hệ thống hơn về nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Từ đó thấy được sự đóng góp to lớn của tác giả đối với sự ra đời của thể loại thơ Nôm Đường luật nói riêng và tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà nói chung. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của công trình là phương diện thể hiện Hiện tượng đặc thù trong nghệ thuật gieo vần trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. 3.2. Phạm vi nghiên cứu. - 254 bài thơ Nôm trong Quốc âm thi tập“Nguyễn Trãi toàn tập tân biên”, Trung tâm nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2000. - Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát một số tác phẩm thơ ca dân gian, văn vần dân gian và văn thơ trung đại, một số nhà thơ hiện đại để so sánh và đối chiếu khi cần thiết . 4. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi thực hiện đề tài này là nhằm hệ thống những phương diện thể hiện tính dân gian và tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm Nguyễn Trãi. Với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính của đề tài như vậy chúng tôi thực hiện đề tài nhằm những mục đích sau: - Tìm và phát hiện ra những nét độc đáo trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm Nguyễn Trãi và những hiệu quả biểu đạt của lối gieo vần ấy. Qua tìm hiểu lối gieo vần trong thơ Nôm của ông để thấy được một phần tài năng và qua đó góp phần một lần nữa khẳng định công lao to lớn của Nguyễn Trãi trong quá trình xây dựng và phát triển của thi pháp thơ ca Việt nói riêng và nền văn họcViệt Nam nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 - Hy vọng rằng với kết quả tìm hiểu một vấn đề có thể coi là mới này sẽ đóng góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào trong quá trình nghiên cứu và học tập cũng như giảng dạy thơ văn Nguyễn Trãi trong nhà trường. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết tốt mục tiêu đặt ra của đề tài. Trong quá trình thực hiện chúng tôi tiến hành những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: tạo cơ sở lý luận vững chắc, đảm bảo tính khoa học, tính chính xác cho đề tài. - Phương pháp phân tích tổng hợp: Cụ thể hóa từng đối tượng phân tích chi tiết. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận tổng hợp về vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp thống kê phân loại: Để làm căn cứ cụ thể giải quyết một cách triệt để mục tiêu của công trình nghiên cứu đó là nghệ thuật gieo vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. - Phương pháp so sánh: Để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự tiếp nối cũng như tính sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu. 6. Kết cấu đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Luận văn gồm ba phần: Chƣơng 1: Nguyễn Trãi và một số vấn đề liên quan đến đề tài Chƣơng 2: Tính dân gian trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm Nguyễn Trãi. Chƣơng 3: Tính hiện đại trong nghệ thuật gieo vần của thơ Nôm Nguyễn Trãi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 NỘI DUNG Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Con ngƣời và thời đại Nguyễn Trãi 1.1.1. Con ngƣời Nguyễn Trãi(1380- 1442), hiệu Ức Trai, quê ở Xã Chi Ngại, Lộ Lạng Giang( nay thuộc Huyện Chí Linh,Tỉnh Hải Dương). Về sau dời về làng Ngọc Ổi, Xã Sơn Nam Thượng, Huyện Thượng Phúc( nay là Xã Nhị Khê,Thường Tín ,Hà Nội). Nguyễn Trãi xuất thân trong một gia đình cả bên nội và bên ngoại đều mang truyền thống văn hoá, văn học. Đây là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách và thiên tài Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi sinh ra trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố lớn của dân tộc. Xuất thân trong một gia đình quan lại quý tộc, cha ông Nguyễn Ứng Long là người có tài và đỗ Thái học sinh năm 1374 và làm quan thời Trần nhưng không được trọng dụng. Ông ngoại là Trần Nguyên Đán một quý tộc nhà Trần. Vì vậy ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã được giáo dục theo tư tưởng của nho giáo và chính tư tưởng này đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người Nguyễn Trãi trong cả cuộc đời. Đạo Khổng nho luôn đề cao tu tưởng trung quân, ái quốc, như bao nhà nho khác trong xã hội phong kiến, Nguyễn Trãi luôn mong muốn “nhập thế”mang tài năng của mình giúp đời. Ở ông ta luôn bắt gặp tư tưởng nhân nghĩa và ý thức dân tộc sâu sắc qua từng suy nghĩ và hành động. Tuy nhiên ở Nguyễn Trãi tư tưởng “Trung quân” của ông được hiểu một cách rất linh hoạt và tiến bộ so với hệ tư tưởng của các nhà nho cùng thời. Nhà nho xưa luôn tâm niệm “Tôi trung không thờ hai chủ” nó được coi như gốc dễ của bề tôi trung thành. Nhưng Nguyễn Trãi chữ “Trung” không hẳn là trung với vua mà ông tâm niệm trung hiếu được hiểu theo nghĩa rộng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 hơn, đó là trung hiếu với nước, với dân, mang lợi ích cho nhân dân. Điều đó đã được Nguyễn Trãi thể hiện khá rõ ràng qua những hành động cụ thể. Năm 1400 khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ, ông đã không như một số nhà nho khác tìm cách ở ẩn mà khi nhà Hồ mở khoa cử ông đã ứng thi và đỗ Thái học sinh cùng với cha mình là Nguyễn Ứng Long ra làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407 nhà Hồ bị thất bại trước sự xâm lược của quân Minh, cha con họ Hồ và một số quan lại bị bắt trong đó có Nguyễn Phi Khanh thân phụ của ông. Tướng giặc là Trương Phụ đã buộc Nguyễn Phi Khanh phải gọi Nguyễn Trãi ra hàng và giam ở Đông Kinh. Nguyễn Phi Khanh đã khuyên ông bỏ trốn và tìm con đường cứu nước, cứu dân. Nghe lời khuyên của cha, trong suốt 10 năm trời li loạn từ 1407 đến 1418 ông đã “Lênh đênh góc bể chân trời” đi tìm chân chúa nhằm cứu nước cứu dân. Cuối cùng ông đã tìm đến Lê Lợi và dâng Bình Ngô Sách. Từ đó Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi tin tưởng và cùng bàn mưu lược đánh giặc và trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến chống Minh. Dù đây là những ngày tháng đầy khó khăn, gian khổ nhưng Nguyễn Trãi đã được mang hết tài năng, trí tuệ để phục vụ cho cuộc kháng chiến mong muốn đánh đuổi giặc Minh, mang lại hòa bình, xây dựng cuộc sống cho “Bách tính trăm họ” ấm no, hạnh phúc. Có lẽ đó là những tháng ngày thỏa chí nhất trong cuộc đời của Nguyễn Trãi. Năm 1428 khi mà Lê Lợi lập nên nhà Lê chưa được bao lâu đã nghe lời sàm tấu của bọn nịnh thần bức hại một số người tài giỏi giúp mình. Trần Nguyên Hãn, Trần Văn Xảo đã bị bức tử và bị giết. Nguyễn Trãi bị Lê Lợi nghi ngờ, bắt giam rồi được tha. Khi Lê Lợi mất, Lê Thái Tông nên ngôi, xuống chiếu phong cho Nguyễn Trãi chức Nhập nội hành khiển môn hạ sảnh ty, hữu gián nghị đại phu kiêm Hàn Lâm viện thừa chỉ học sĩ, tri quan tam sự tưởng là một lần nữa được trọng dụng để mang tài năng giúp nước, giúp dân nhưng do bản tính thẳng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 thẳn và cương trực nên ông bị triều thần ghen ghét. Sống giữa trốn quan trường chứng kiến đầy sự bất công, nghi kị xảy ra trong triều mà bất lực không làm gì được ông rất đau khổ. Cuối cùng ông không thể nhẫn nhục chịu đựng được sự lộng hành của bọn gian thần và hoạn quan trong triều đình, Nguyễn Trãi đã xin cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn. Ở Nguyễn Trãi, tư tưởng yêu nước không đơn thuần là một khái niệm hay một đạo lí phải tuân theo. “Ái quốc, ưu dân”nó đã trở thành lý tưởng luôn hiện hữu ám ảnh ,dày vò thôi thúc nhà thơ. Ngay cả khi không được trọng dụng phải lui về Côn Sơn ở ẩn, xa lánh việc đời, nhưng tràn ngập trong thơ Quốc âm là tấm lòng yêu nước, thương dân như nước cuồn cuộn chiều đông, không ngừng chảy ra biển lớn. Còn có một lòng âu việc nước Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung (QATT-Thuật hứng,bài 23) Bui có một lòng trung lẫn hiếu, Mài chẳng khuyết,nhuộm chẳng đen. (QATT- Thuật hứng,bài 24) Nguyễn Trãi là con người có nhiều hoài bão vì dân,vì nước nhưng đã không có nhiều cơ hội thực hiện thành công những ước mơ hoài bão của mình. Tuy nhiên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Nguyễn Trãi cũng luôn có ý thức dân tôc sâu sắc. Ông là một tri thức lớn, một nhà văn lỗi lạc đã có những đóng góp lớn lao vào việc xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Nguyễn Trãi là người kế thừa những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nâng tầm văn hóa Đại Việt lên một tầm cao mới “Nền văn hóa yêu nước, tiến bộ có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn, có tính chiến đấu cao, thể hiện đầy đủ nhất, mạnh mẽ nhất của chủ nghĩa yêu nước thế kỉ XV..”[67.910]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Trước hết ta thấy đóng góp của Nguyễn Trãi Trong nền văn hóa Đại Việt ở phương diện người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Nguyễn Trãi đã gắn văn hóa vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước. Ông dùng ngòi bút của mình, ngòi bút “Viết thư thảo hịch tài giỏi hay hơn hết thảy mọi thời”như một vũ khí chiến đấu “có sức mạnh hơn nhiều đạo quân” để chống kẻ thù. Nguyễn Trãi đã dùng tài năng văn chương của mình để tập hợp lực lượng, cổ vũ tinh thần quân sĩ, góp công rất lớn cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh. Ông gắn hoạt động văn hóa với hành động “Trừ độc, trừ gian, trừ bạo ngược” và xây dựng lối sống cao đẹp có nhân cách “Có nhân, có chí, có anh hùng”. Cũng như đã nói ở trên, Nguyễn Trãi là người luôn đề cao tư tưởng nhân nghĩa và làm cho tư tưởng đó ăn sâu và lan tỏa rộng khắp trong tâm thức của xã hội, từ đó biến thành nguồn nội lực, thành sức mạnh của dân tộc. Tư tưởng nhân nghĩa này được Nguyễn Trãi thể hiện qua lòng yêu nước, thương dân, tình yêu thương nhân đạo sâu sắc , cao cả và được biểu hiện rõ nét qua thơ văn của ông.Nguyễn Trãi “ca ngợi tình yêu thương đồng bào cốt nhục, cuộc sống tươi đẹp yên vui, chống lại sự chà đạp lên nhân phẩm con người và những hành động bất nhân, bất nghĩa. Thơ văn của ông chiến đấu vì chính nghĩa, vì lẽ phải, vì đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì sự hòa bình muôn thủa, vì sự hòa hiếu giữa các dân tộc..”[67.910]. Đóng góp của Nguyễn Trãi còn ở vị trí của ông trong sự nghiệp văn chương của mình. Từ đó góp phần đua vị thế văn hóa, vị thế của dân tộc được nâng tầm cao mới. Ý thức đó, tấm lòng nhân nghĩa đó của Nguyễn Trãi luôn luôn như dòng thác chảy không bao giờ ngừng nghỉ trong tiến trình vận động và phát triển của nền văn hóa dân tộc. Những cống hiến lớn lao đó sẽ vẫn còn nguyên giá trị đối với mỗi chúng ta. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 1.1.2 Thời đại Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã trải qua một thời đại đầy bão táp với những biến cố xã hội sôi động. Nhưng Nguyễn Trãi là nhân vật kiệt xuất, ông đã có những tác động không nhỏ đến thời đại của mình. Giai đoạn đầu của thời đại Nguyễn Trãi là giai đoạn đất nước không được ổn định. Ông sinh ra trong lúc nhà Trần đang suy yếu và tất yếu bị diệt vong theo quy luật của lịch sử các triều đaị phong kiến. Giặc Chiêm nhiều lần xâm lược và tàn phá nước ta từ phương Nam. Khi Nguyễn Trãi trưởng thành thì cũng là lúc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần (1400). Nhà Hồ đã thực hiện những cải cách xã hội triệt để, Hồ Quý Ly là người thực hiện các cải cách rất táo bạo và kiên quyết trên rất nhiều mặt như thực hiện chính sách hạn nô, hạn điền, phát hành tiền giấy, di dân khai hoang, xây thành trì kiên cố, mở các trường học ở phủ huyện hay đưa môn toán vào dạy, trong dụng nhân tài...Tuy nhiên đã không mấy thành công. Do chính sách của Hồ Quý Ly “Không thể giải quyết được các mâu thuẫn của xã hội lúc bấy giờ và không có khả năng tập hợp các lực lượng xã hội đoàn kết ở xung quanh”[51.14]. Mặc dù nhà Hồ đã thực hiện nhiều cải cách về mặt kinh tế, xã hội đặc biệt là quân sự nhưng chưa xây dựng được nhà nước đủ mạnh, đoàn kết được các tầng lớp trong xã hội để chống lại sự xâm lược của quân Minh, nên đã thất bại. Kết thúc triều đại nhà Hồ cũng là kết thúc giai đoạn đầu của thời đại Nguyễn Trãi. Giai đoạn tiếp theo của thời đại Nguyễn Trãi là thời kì quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, dành quyền độc lập tự do cho dân tộc. Như chúng ta đã biết năm 1407 giặc Minh đã xâm lược nước ta và chiếm được Đông Đô, bắt được cha con Hồ Quý Ly. Sau đó đổi nước ta thành quận Giao Chỉ và xác nhập vào Đại Minh. Các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra như khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoáng nhưng đều thất bại. Năm 1416 Lê Lợi đã tổ chức hội thề Lũng Nhai, chuẩn bị cho khởi nghĩa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 1418 Nguyễn Trãi đã dâng Bình Ngô sách cho Lê Lợi – Đây là thời điểm rất quan trọng, là dấu mốc giúp cho cuộc khởi nghĩa rành những thắng lợi sau này. Bắt đầu từ đây quân dân ta được sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã dành hết trận thắng này đến trận thắng khác. Là mốc son của lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đánh dấu sự thắng lợi và kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi bằng bản Đại Cáo Bình Ngô hào hùng. Nguyễn Trãi đã đúc kết toàn bộ sự nghiệp chống giặc Minh của Lê Lợi và cả dân tộc ta. Một trang lịch sử vẻ vang của dân tộc chống giặc ngoại xâm, kết thúc thắng lợi mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự do cho tổ quốc dân tộc. Giai đoạn thứ ba đó là từ khi Lê Thái Tông lên ngôi 1428 thâu tóm quyền lực tính đến khi Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi (1464). Nửa đầu giai đoạn này nhà Lê tập trung quyền lực trong tay. Bộ máy nhà nước được củng cố chặt chẽ, công tác lập pháp được các vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông và sau đó là Lê Thánh Tông ban hành những luật lệ để cai trị. Điều đó đã góp phần tạo nên sự hùng mạnh của nước Đại Việt thế kỉ XV vào bậc nhất Đông Nam Á thời kì bấy giờ. Tuy nhiên phải thấy rằng, khi tập trung quyền lực vào trong tay Lê Thái Tố đã tỏ ra chuyên quyền, tin những kẻ nịnh thần bất tài, ganh ghét những người trung quân tài giỏi, khi lên làm vua đã gây bất bình trong nội bộ triều đình. Những công thần đắc lực giúp Lê Lợi chống quân Minh lần lượt bị hãm hại hoặc sau đó bị Lê Thái Tông sát hại. Phần lớn những người bị xử tội chết và bị giết xã hội đương thời đều kêu oan. Bên cạnh đó tình hình lục đục, phe cánh hãm hại nhau diễn ra trong triều, các mâu thuẫn xã hội trở nên sâu sắc, quan lại tham lam vơ vét của dân, đời sống nhân dân không được cải thiện. Trong thời kì này Nguyễn Trãi chán nản và ông đã cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn, sống cảnh đạm bạc hòa đồng với thiên nhiên, muông thú. Nhưng rồi một thảm án thảm khốc đã giáng xuống ông và những người thân trong gia tộc vào 1442 với vụ án Lệ Chi Viên “Chu di tam tộc”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Nửa cuối giai đoạn này là thời kì Lê Thánh Tông lên ngôi 1460 đây là thời kì nhà Lê lấy lại uy tín với nhân dân. Dưới sự trị vì của Lê Thánh Tông đất nước đã đi vào dần ổn định, Ông đã ban hành Quốc triều hình luật và những chính sách cai trị sáng suốt hợp lòng dân, nội bộ triều đình ổn định, kinh tế dần được cải thiện và phát triển, đời sống nhân dân dần ấm no, hạnh phúc. Nhà vua trẻ đã ban chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Nhìn chung lại, thời đại Nguyễn Trãi là thời đại vừa anh hùng nhưng cũng đầy bi kịch, đây cũng chính là mâu thuẫn trong thời đại của ông. Bởi vì trong thời kì này cả dân tộc đã đồng lòng đoàn kết, đánh đuổi giặc ngoại xâm dành chiến thắng một cách oanh liệt, vẻ vang. Nhưng nó cũng chất chứa bi kịch bởi quyền lợi cá nhân trong triều chính, mà ở đây là vua đặt trên quyền lợi của dân tộc, quyền lợi của nhân dân. Tuy vậy cũng có thể thấy thời đại Nguyễn Trãi là thời đại đầy oai hùng, vẻ vang, một trang sử vàng của dân tộc trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó đã mở ra một kỉ nguyên mới, thời kì phát triển mới trong sự phát triển của lịch sử nước nhà. Cả cuộc đời Nguyễn Trãi đã mang hết tâm huyết, tài lược của mình xây dựng nền văn hoá Đại Việt.Với một dân tộc có truyền thống văn hoá được đúc rút qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó đến thời Lý - Trần đã có những thành tựu rực rỡ. Nguyễn Trãi là người kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và có công lao lớn làm cho nền văn hoá Đại Việt lên một tầm cao mới, đó là “Nền văn hoá yêu nước tiến bộ có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, có giá trị hiện thực lớn. Có tính chiến đấu cao, thể hiện mộtcách đầy đủ nhất,mạnh mẽ nhất chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thế kỉ XV”[67.910] . Cống hiến của Nguyễn Trãi về văn hoá còn là đề cao tư tuởng nhân nghĩa và làm tư tưởng đó ăn sâu, lan toả vào trong tâm thức xã hội, biến thành sức mạnh dân tộc. Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan