Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn hát iếu ở bắc quang hà giang những đặc điểm nội dung và nghệ thuật...

Tài liệu Luận văn hát iếu ở bắc quang hà giang những đặc điểm nội dung và nghệ thuật

.PDF
166
116
139

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- HOÀNG MINH NGUYỆT HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG - NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------- HOÀNG MINH NGUYỆT HÁT IẾU CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn: TS. NGUYỄN HẰNG PHƢƠNG THÁI NGUYÊN - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Hằng Phƣơng là ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, dìu dắt và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện và hoàn thành luận văn này. Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo giảng dạy lớp cao học văn K15 và khoa Sau đại học, trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên đã hƣớng dẫn, truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn sâu sắc tới ông Hoàng Văn Chữ, ngƣời đã giúp tôi trong quá trình sƣu tầm tƣ liệu để hoàn thành luận văn này. Tôi cũng vô cùng cảm ơn những tình cảm tốt đẹp của những ngƣời thân trong gia đình, đồng nghiệp và bạn bè đã luôn dành cho tôi, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu. Thái Nguyên, ngày 25 tháng 09 năm 2009 Tác giả Hoàng Minh Nguuyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề. ............................................................................................... 4 3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 8 5. Đối tƣợng nghiên cứu .................................................................................... 8 6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8 7. Phƣơng pháp nghiên cứu. ............................................................................... 9 NỘI DUNG ..................................................................................................... 11 Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. .................................................................................. 11 1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. .............................. 11 1.1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Tày ở Hà Giang. ........................................ 11 1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. ................................................................ 12 1.2 Khái quát về Lƣợn .................................................................................... 20 1.2.1 Khái niệm “Lƣợn”: ................................................................................. 20 1.2.2. Khái niệm Hát Iếu .................................................................................. 22 1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu ........................................................................... 23 1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. ............................................................. 27 1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang...... 27 1.3.2. Khảo sát, phân loại ................................................................................. 28 1.3.3. Hình thức diễn xƣớng trong Hát Iếu. ...................................................... 33 Tiểu kết. .......................................................................................................... 46 Chương 2. Nội dung cơ bản của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang .............. 47 2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ. ...................... 47 1 2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm. ................ 47 2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ƣớc, kết duyên tình cảm sâu nặng. .................. 53 2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những ngƣời yêu nhau. . 58 2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống..... 62 2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý. .............. 62 2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm. ............... 65 2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp......... 70 2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới. ....................... 74 2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và Bác Hồ.... 75 2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. .............................................................................................................. 80 Tiểu kết ........................................................................................................... 84 Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang ...................................................................................................... 86 3.1. Thể thơ trong Hát Iếu. ............................................................................... 86 3.1.1. Thể thơ tự do .......................................................................................... 86 3.1.2. Thể thơ thất ngôn. .................................................................................. 90 3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu. ............................................... 93 3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh .......................................................................... 93 3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp) .................................. 101 3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu. .................................. 106 3.3.1. Thời gian nghệ thuật ............................................................................ 106 3.3.2. Không gian nghệ thuật ......................................................................... 113 Tiểu kết:........................................................................................................ 123 KẾT LUẬN .................................................................................................. 125 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 128 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Về phương diện khoa học Trong di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hoá của các dận tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá, phong tục, tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trƣng của mỗi vùng, miền. Riêng vùng Việt Bắc từ xƣa tới nay, có rất nhiều di sản văn hoá khác nhau, trong đó phải kể đến những làn điệu trữ tình mƣợt mà làm đắm say không biết bao nhiêu tâm hồn chàng trai cô gái nhƣ Hát Then, Sli, Lƣợn cọi, Khắp Cọi, Hát Iếu… của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái... Hát Iếu là hình thức sinh hoạt văn hoá đặc trƣng vốn có của ngƣời Tày ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Hát Iếu còn ít ngƣời biết tới. Do vậy, việc Sƣu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị của Hát Iếu là sự trăn trở của nhiều ngƣời có tâm huyết với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Thực tế từ trƣớc tới nay, Hát Iếu của ngƣời Tày Bắc Quang đã đƣợc một số ngƣời sƣu tầm và dịch với số lƣợng còn rất hạn chế, chƣa có sự quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sƣu tầm những bài Hát Iếu lƣu truyền trong dân gian với số lƣợng đáng kể. 1.2. Về phương diện thực tiễn Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng, gắn bó sâu sắc với đời sống của làng quê nơi đây từ xƣa tới nay. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của ngƣời Tày ở địa phƣơng Bắc Quang - Hà Giang sẽ góp phần khẳng định, gìn giữ, bảo lƣu và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Bắc 3 Quang - Hà Giang nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên con đƣờng tìm về với bản sắc cội nguồn dân tộc. Xuất phát từ phƣơng diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến hành tìm hiểu “Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình. Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của chúng tôi, ngƣời con của tộc ngƣời Tày mong muốn đƣợc khám phá, tôn vinh những giá trị văn hoá có sức sống bền bỉ của dân tộc mình. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu về dân ca Tày Nùng. Nhắc đến những giá trị văn hoá - nghệ thuật của các dân tộc trên đất nƣớc ta, trƣớc hết phải nói đến những giá trị to lớn của vốn văn học dân gian cổ truyền của mỗi dân tộc. Trong đó dân tộc Tày đã có những đóng góp cho nền văn hoá nghệ thuật thêm phong phú, đa dạng, đặc sắc qua các thể loại khác nhau. Chúng ta có thể kể đến thể loại dân ca nhƣ Hát then, Hát Quan làng, Lƣợn Cọi, Lƣợn Slƣơng, Lƣợn Nàng ới, Hát Iếu… Qua quá trình lao động sản xuất, chiến đấu, ngƣời Tày đã sáng tạo nên một kho tàng vô cùng giàu có về hát Lƣợn. Tuy vậy, trƣớc Cách mạng tháng Tám, cũng nhƣ nhiều dân tộc khác, ngƣời Tày không có kho lƣu trữ, thƣ viện, nhà xuất bản. Văn học chủ yếu đƣợc lƣu chuyển thông qua hình thức truyền miệng. Cũng do ƣu thế của thể loại mà những bài hát Iếu đƣợc truyền cho các thế hệ nối tiếp nhau trong những dịp lễ hội, trong sinh hoạt cộng đồng,…trong tâm hồn, trí tuệ và tình cảm của những ngƣời yêu mến thơ ca dân gian của dân tộc. Từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, nhờ chính sách bảo tồn văn hoá các dân tộc của Đảng, nhà nƣớc thì việc sƣu tầm, nghiên cứu và phát huy những giá trị truyền thống nhƣ hát lƣợn nói chung đƣợc quan tâm, chú ý. Song do nhiều lý do khác nhau nhƣ: trình độ ngƣời nghiên cứu, hoàn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, do nhận thức, quan niệm…mà công việc lƣu giữ và bảo tồn 4 những giá trị văn hoá bị mai một, chƣa đạt đƣợc hiệu quả cao. Trƣớc những năm 1960, những công trình nghiên cứu, sƣu tầm về Lƣợn của ngƣời Tày nói chung hầu nhƣ không có, hoặc đƣợc giới thiệu rất sơ lƣợc, khái quát. Tuy nhiên qua một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, dân ca dân gian nói chung của dân tộc Tày còn đƣợc phát hiện ở những khía cạnh sâu sắc hơn nhƣ nhận định của nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Vũ Ngọc Phan: “Folkclore hình thành không phải với tính cách là sự phản ánh trực tiếp đời sống. Nhiều tầng văn hoá đã lắng đọng trong Floklore, và sau một quá trình nhào nặn, biến đổi lâu dài, đã tạo nên một truyền thống nhất định có nội dung tƣ tƣởng sâu sắc bền vững qua thời gian và không gian” [43. Tr. 59]. Chính vì vậy, những giá trị nằm trong tầng sâu của nền văn hoá dân ca dân gian Tày trở thành vấn đề thu hút, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lâu nay. Theo trình tự thời gian và từng mảng nghiên cứu, một số công trình sƣu tầm, khảo cứu có liên quan đến đề tài xuất hiện nhƣ: - Năm 1974 Sở văn hoá thông tin Việt Bắc xuất bản cuốn: Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, trong đó có một số bài viết về đời sống văn hoá, tinh thần, nội dung, hình thức những giá trị trong bƣớc đầu khảo cứu vốn thơ ca dân gian dân tộc Tày, Nùng. Đáng chú ý có đoạn viết của Vi Quốc Bảo khẳng định: “Thật khó có thể thống kê đƣợc hết các thể loại dân ca miền núi vô cùng phong phú và đa dạng. Mỗi loại dân ca có cái hay, cái đẹp riêng. Hay về làn điệu, đẹp về lời thơ. Song có một cái chung nhất cho tất cả mọi thể loại dân ca miền núi là tính chất trữ tình rất đằm thắm, rất độc đáo mà ta có thể dễ dàng tìm thấy trong bất kỳ thể loại nào”. [57] Ngoài ra trong cuốn sách này còn một số bài viết của tác giả Vi Hồng nêu lên: “Vài ý nghĩ nhỏ bƣớc đầu về thơ ca dân tộc Tày - Nùng” và “ Thử tìm hiểu về nội dung của Lƣợn”[57. Tr.109, 176]. - Tạp chí dân tộc học số 1- 1976 có bài viết: “Vài suy nghĩ về hát Quan lang, phong Slƣ, Lƣợn” của nhà văn Vi Hồng. Trong bài viết của mình tác giả 5 có giới thiệu những nội dung tổ chức, hình thức lề lối cơ bản, khái quát về loại hình dân ca phổ biến của dân tộc Tày, Nùng. [18]. Tuy nhiên, tác giả mới giới thiệu khái quát về các loại dân ca Tày, Nùng. - Cuốn Sli Lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng cũng của tác giả Vi Hồng in năm 1979 có giới thiệu về đời sống văn hóa, tinh thần của hai dân tộc Tày, Nùng qua làn điệu dân ca Sli, Lƣợn cùng với đề tài, nội dung tƣ tƣởng, ý nghĩa thẩm mỹ cũng nhƣ cung cách xây dựng hình tƣợng của Sli, Lƣợn. Tác giả nhấn mạnh:“Các lớp đề tài của sli, lƣợn và mỗi một hình tƣợng của mỗi lớp đề tài đều bắt nguồn từ những quan niệm xa xƣa của dân tộc Tày Nùng, đồng thời nó phát triển một cách gắn bó với dân tộc, với xã hội với từng con ngƣời Tày, Nùng. Vì thế các lớp đề tài , mỗi hình tƣợng, hình ảnh của sli, lƣợn đều rất gần gũi gắn bó với đời sống tình cảm, với tâm hồn ngƣời Tày ngƣời Nùng”.[19.Tr.59]. Cuốn sách đã có những gợi ý cho tác giả đề tài tìm hiểu về Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. - Năm 1983, trong giáo trình “Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam”, tác giả Võ Quang Nhơn đã khái quát những đặc điểm xã hội - văn hoá, quá trình lịch sử của ngành nghiên cứu văn hoá dân gian các dân tộc ít ngƣời và tổng quát về các thể loại văn học dân gian của các dân tộc nhƣ: Thần thoại, Truyện cổ tích, Thơ ca dân gian, Sử thi anh hùng…Trong thể loại thơ ca dân gian, nhà nghiên cứu Võ Quang Nhơn có sự tổng hợp, so sánh nghiên cứu về thơ ca dân gian các dân tộc, trong đó có loại hình dân ca Lƣợn của dân tộc Tày. Có đoạn tác giả viết: “Thơ ca dân gian các dân tộc, với những nét đặc sắc trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng hình tƣợng, trong nhạc điệu (và có khi cả điệu hát múa nữa) đi kèm theo lời ca, lại thiên về thể hiện tính độc đáo dân tộc; chính nhờ những yếu tố đó mà thơ ca dân gian mang đậm dấu ấn của phong cách, màu sắc đa dạng của văn hoá dân tộc”. Tác giả mƣợn hai câu thơ của nhà thơ Hoàng Văn Thụ để nói lên tính độc đáo của thơ ca các dân tộc Tày, Nùng: 6 Từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau "Si” ca nhiều tiếng áo nhiều màu. [41.Tr,198]. Cuốn “Tổng tập văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên xuất bản gồm nhiều tập, [66]. Đây là cuốn tổng hợp về công tác sƣu tầm văn học các dân tộc thiểu số, trong đó có giới thiệu một số bài Lƣợn của dân tộc Tày. Từ những góc nhìn khác nhau, các tác giả đã đề cập đến Lƣợn nói chung của dân tộc Tày - Nùng . Trong đó các nhà nghiên cứu giới thiệu về cách thức, tổ chức, hệ thống của lƣợn, cũng nhƣ giá trị của thể loại dân ca trữ tình này trong đời sống văn hoá của dân tộc Tày. Ngoài ra còn có một số công trình sƣu tầm, giới thiệu và dịch của một số tác giả cũng đề cập tới dân ca của dân tộc Tày – Nùng nhƣ: [32], [43], [50]… Nhƣ vậy, công tác sƣu tầm, nghiên cứu về Lƣợn còn rất khiêm tốn so với bề dày nền văn hoá Sli Lƣợn của dân tộc Tày - Nùng. Trong các công trình khoa học của những nhà nghiên cứu tuy chƣa khám phá hết những giá trị của loại hình dân ca Lƣợn; Nhƣng các công trình trên là những gợi mở, là tiền đề khoa học có giá trị to lớn cho việc nghiên cứu đề tài trên. 2.2. Tình hình sưu tầm, nghiên cứu Hát Iếu ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Đối với dân tộc Tày ở Bắc Quang Hát Iếu là một loại hình sinh hoạt văn hoá tập thể, ngƣời Tày vốn có truyền thống văn hoá tốt đẹp đƣợc kết tinh trong đời sống lao động, sản xuất, trong giao tiếp và ứng xử. Vì vậy mà Hát Iếu đƣợc lƣu truyền ở nhiều bản làng của ngƣời Tày, trở thành nét sinh hoạt độc đáo riêng của ngƣời Tày nơi đây. Dù đã đƣợc biết đến, nhƣng Hát Iếu của dân tộc Tày ở Bắc Quang vẫn còn là mảnh đất nguyên sơ chƣa đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Hiện nay, tƣ liệu Hát Iếu chủ yếu là bản sƣu tầm và dịch của ông Hoàng Văn Chữ, một ngƣời Tày ở Bắc Quang chƣa đƣợc in thành sách. Và hai tập thơ 7 Tày “Chồm bióoc Mạ” và “ Ra mắt bố mẹ” của Hoàng Thị Cấp sƣu tầm và dịch.[4,5]. Do vậy, việc tìm hiểu về Hát Iếu ở địa phƣơng Bắc Quang nói riêng, dân ca của các dân tộc nói chung là việc làm thiết thực trong đời sống hiện nay, góp phần bảo tồn gìn giữ và phát huy nền văn học văn nghệ vô cùng quý giá của cả dân tộc. 3. Mục đích nghiên cứu - Nghiên Cứu “Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - những đặc điểm nội dung và nghệ thuật”, Qua đó nhận diện, phân tích, so sánh để thấy đƣợc nét độc đáo, giàu bản sắc văn hoá Tày ở một địa phƣơng cụ thể. - Bƣớc đầu cố gắng lí giải cội nguồn của nét văn hoá dân ca Iếu trên cơ sở tổng quan văn hoá của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. - Đề xuất những giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp vốn có của Hát Iếu. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát, thống kê, phân tích, lý giải lời Hát Iếu và một số vấn đề có liên quan đến giá trị nội dung, nghệ thuật của Hát Iếu. - Sƣu tầm, tìm hiểu thêm lời Hát Iếu với một số loại hình văn hoá nghệ thuật, tín ngƣỡng có liên quan thiết thực đến đề tài từ các góc độ nhìn nhận. - Bƣớc đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của Hát Iếu trong đời sống đƣơng đại. 5. Đối tƣợng nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là những lời Hát Iếu đã đƣợc sƣu tầm và xuất bản thành sách. - Những tƣ liệu sƣu tầm chƣa xuất bản của một số nghệ nhân và tác giả đề tài. 6. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu: + Hoàng Thị Cấp,(2005), Chồm bióoc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc Hà Nội. 8 + Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang. + Những tƣ liệu chƣa xuất bản: . Iếu dân ca dân tộc Tày do Hoàng văn Chữ sƣu tầm và dịch. . Iếu hát thơ then dân ca dân tộc Tày của tác giả Hoàng Văn Chữ. . Văn bản của chính tác giả sƣu tầm qua các nghệ nhân. . Mạng Intrenet. - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ tìm hiểu một số đặc điểm nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. 7. Phƣơng pháp nghiên cứu. - Trên bình diện phƣơng pháp luận là tiếp cận chủ yếu theo quan điểm ngữ văn học, tức là dựa vào thành tố ngôn từ, cụ thể ở đây là lời Hát Iếu để phân tích. Tuy nhiên Hát Iếu là một loại hình dân ca vì thế nó không thể tách rời đời sống văn hoá của dân tộc Tày. Do đó tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo quan điểm văn hoá học là cần thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành, xem xét đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau. - Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng : + Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống. + Phƣơng pháp khảo sát thống kê. + Phƣơng pháp điền dã văn học. + Phƣơng pháp phân tích tổng hợp. + Phƣơng pháp đối chiếu so sánh. 8. Những đóng góp của luận văn Nghiên cứu Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang, nhằm giới thiệu một nét văn hoá đặc trƣng vốn có trong dân gian nhƣng chƣa có nhiều công trình nghiên cứu về nó. Luận văn là công 9 trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về Hát Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. Trong quá trình nghiên cứu, qua khảo sát điền dã, tác giả đề tài đã thu thập đƣợc một số lƣợng đáng kể những bài Hát Iếu còn đang lƣu truyền trong đời sống dân gian ở Bắc Quang - Hà Giang. Kết quả khảo sát thực tế trên là cơ sở khoa học để tác giả luận văn bƣớc đầu đề xuất hƣớng bảo tồn và phát huy giữ gìn nét đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc Tày nói chung, trong đó có dân tộc Tày Bắc Quang. 9. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần nội dung chính, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng: Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế- cơ sở tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. Chƣơng 2. Nội dung của Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. Chƣơng 3. Những đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. 10 NỘI DUNG Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ - CƠ SỞ TÌM HIỂU HÁT IẾU Ở BẮC QUANG HÀ GIANG. 1.1 Tổng quan về tộc ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. 1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang. Hà Giang là miền đất của địa đầu Tổ Quốc Việt Nam, nổi tiếng với cột cờ trên đỉnh Lũng Cú - Đồng Văn, nằm bên dải phía Tây Côn Lĩnh, là nơi sinh sống của 22 dân tộc anh em nhƣ: Tày, Nùng, Dao, Mông, Pà Thẻn, La Chí, Pu Péo, Lô Lô…Trong đó dân tộc Tày có khoảng 175.757 ngƣời, chiếm 25% dân số trong tỉnh, đứng sau dân tộc Mông 30,75% ( năm 2001). Dân tộc Tày là cƣ dân bản địa sống lâu đời trên đất nƣớc Việt Nam. Họ cùng với các cƣ dân TàyThái khác là một trong những chủ nhân đầu tiên lập lên nhà nƣớc Văn Lang của các Vua Hùng, nhà nƣớc Âu Lạc của Thục Phán An Dƣơng Vƣơng trên cơ sở hợp nhất hai bộ lạc chủ yếu của thời bấy giờ là Âu Lạc và Lạc Việt. Ở Hà Giang theo các tài liệu lịch sử, khảo cổ học từ trƣớc năm 1945 đến nay đã phát hiện những hiện vật từ thời đồ đá cũ cho tới thời đại đồ đồng, đồ sắt, báo hiệu quá khứ xa xƣa của con ngƣời đã cƣ trú trên đất Hà Giang. Điều đó chứng tỏ phần nào Hà Giang là vùng đất cổ có các cƣ dân sinh sống, trong đó có dân tộc Tày. Theo các nhà nghiên cứu và các cụ già ngƣời Tày ở Vị Xuyên, Bắc Quang kể lại thì ở Hà Giang tồn tại những cƣ dân Tày cổ ở vùng ba phƣơng: Phƣơng Tiến, Phƣơng Thiện, Phƣơng Độ thuộc huyện Vị Xuyên ngày nay. Ngoài ra họ còn cƣ trú ở vùng Bằng Hành, Vô Điếm, Đồng Yên, Xuân Giang…của huyện Bắc Quang. Các cụ già ở xã Phƣơng thiện nói: Họ biết họ Nguyễn của dân tộc Tày đã sống ở đây cách đây 700 đến 800 năm. Trong lịch sử nƣớc ta thời Lý -Trần là thời kỳ thịnh hành của phật giáo cả nƣớc, chùa chiền đƣợc tạo dựng khắp nơi, nhất là sau ba lần đại thắng quân Nguyên Mông của triều Trần, hào khí Đông A vang vọng từ Thăng Long đến 11 các miền biên viễn xa xôi. Ở Hà Giang còn di tích 2 ngôi chùa cổ đó là chùa Sùng Khánh ở bản Bang xã Đạo Đức huyện Vị Xuyên, chùa Bình Lâm ở xã Phú Linh, thị xã Hà Giang cũng đƣợc xây dựng vào thời kỳ đó. Đặc biệt trên tấm bia ở chùa Sùng Khánh dựng năm 1367 có ghi công lao của quan Phủ đạo ngƣời Tày họ Nguyễn là Nguyễn Thiếp có công lao bảo vệ biên giới phía Bắc, xây dựng làng xã ổn định phát triển, là nơi tin cậy của triều đình ở vùng biên viễn xa xôi. [11, Tr.120]. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. - Điều kiện tự nhiên: Bắc Quang là huyện miền núi thấp , nằm ở cửa ngõ phía Đông Nam của tỉnh Hà Giang trong toạ độ địa lý từ 22 độ 10’ đến 22 độ 36’ vĩ độ Bắc và 104 độ 43’ đến 105 độ 07’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp với huyện Vị Xuyên, Phía Đông, Đông Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây, Tây Bắc giáp huyện Hoàng Su Phì. Trung tâm huyện là thị trấnViệt Quang, cách thị xã Hà Giang khoảng 60km. Năm 2005, huyện Bắc Quang đƣợc chia tách thành hai huyện Bắc Quang và Quang Bình, huyện Bắc Quang cũ gồm có 33 xã. Do việc phân chia lại địa ranh, địa giới hiện nay Bắc Quang còn 21 đơn vị hành chính cấp xã: Tân Lập, Tân Thành, Tân Quang, Việt Vinh, Đồng Yên, Vĩnh Phúc,Vĩnh Hảo, Hùng An, Tiên Kiều, Việt Hồng, Quang Minh, Kim Ngọc, Vô Điếm, Bằng Hành, Hữu Sản, Liên Hiệp, Đức Xuân, Thƣợng Bình, Đông Tâm, Đồng Tiến, Đông Thành và hai thị trấn Việt Quang, Vĩnh Tuy. Năm 2005 dân số trung bình của huyện Bắc Quang có 105.828 ngƣời, chiếm khoảng 16% dân số toàn tỉnh. Cƣ dân Tày ở đây sống hiền hoà, đoàn kết với các dân tộc khác nhƣ Kinh, Dao, Mông, Nùng…Thiên nhiên tƣơng đối ƣu ái tạo cho vùng đất này những bãi bồi phù sa màu mỡ dọc theo hệ thống sông Lô, sông sảo, sông Bạc…thuận lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp lúa nƣớc. Tuy nhiên do địa hình tƣơng đối phức tạp 12 nhƣ đồi núi cao, thung lũng sâu, mƣa nhiều (Bắc Quang đƣợc coi là “rốn mƣa” của cả nƣớc), sƣơng muối… đều gây ảnh hƣởng xấu đến sản xuất và đời sống con ngƣời, khó khăn trong việc giao thông đi lại, xói mòn, lũ quét, ngập úng…; Nhất là ở thời kỳ lịch sử xa xƣa khi cuộc sống của cƣ dân Tày còn thiếu thốn, lạc hậu, đói nghèo. - Đặc điểm kinh tế xã hội: Địa vực cƣ trú của ngƣời Tày ở Bắc Quang rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp toàn diện. Trải qua hàng ngàn năm gắn bó với mảnh đất này, đồng bào Tày đã khai khẩn các thung lũng ven sông Lô, sông Bạc, Ngòi Sảo, ven các suối lớn tạo thành những cánh đồng, ruộng bậc thang trồng trọt phì nhiêu màu mỡ. Họ tạo ra hệ thống “dẫn nhập thuỷ điền” với Mƣơng, Máng, Phai, Cọn…khá hoàn thiện phục vụ cho việc sinh hoạt, tƣới tiêu. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm đa dạng, phong phú; các ngành nghề thủ công nhƣ đan lát, dệt, rèn, đúc, kéo đƣờng mật cũng phát triển. Kỹ thuật sản xuất của ngƣời Tày đã đạt tới trình độ khá cao, có kinh nghiệm về chăm sóc, thâm canh thời vụ khá chặt chẽ theo vụ theo năm. Từ xƣa tới nay đồng bào Tày ở vùng Bắc Quang về kinh tế hàng hoá cũng đã phát triển qua những phiên chợ nông thôn họp theo quy định, việc trao đổi hàng hoá bằng hiện vật hay hình thức trao đổi trực tiếp đến nay vẫn còn tồn tại. Từ những điều kiện thuận lợi, khó khăn trên phải chăng những hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong đó có hát Lƣợn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu giải toả những khát vọng tinh thần của họ. - Đời sống văn hoá: Cƣ dân ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang cũng nhƣ nhiều ngƣời Tày khác sinh sống trong cả nƣớc đều có một nền văn hoá đa dạng và phong phú. Mặc dù ngƣời Tày giao tiếp chủ yếu bằng ngôn ngữ hệ Tày - Thái, nhóm ngôn ngữ rất gần với Tiếng Việt về hệ thống ngữ pháp và âm thanh. Song chỉ những từ ngữ về thiên nhiên, về sự vật hiện tƣợng trong sinh hoạt giao tiếp mới là của 13 ngƣời Tày, còn đa số là vay mƣợn của Tiếng Việt, tiếng Hán hoặc từ Hán Việt. Về chữ viết của ngƣời Tày trong thời kỳ cổ đại không có nên lịch sử thành văn của dân tộc rất ít ỏi và gần nhƣ không có, Bƣớc sang giai đoạn trung đại mới xuất hiện chữ Nôm Tày, chữ Nôm Tày là thứ chữ phỏng theo chữ Hán của ngƣời Trung Quốc mà đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu, nhìn từ góc độ văn tự, thứ chữ này cũng có một vài nét khác với chữ Nôm Việt. Học giả Nguyễn Văn Huyên là ngƣời đầu tiên có công nghiên cứu về kiểu chữ Nôm Tày và sau này đƣợc học giả Đào Duy Anh tiếp tục nghiên cứu và khẳng định ý kiến của Nguyễn Văn Huyên: “Chữ Nôm Tày do ảnh hƣởng chữ Nôm Việt mà ra và có cấu tạo nhƣ chữ Nôm Việt” [49: 210-220] Chữ Nôm Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ XIII đến XV sang đến cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII khi Mạc Kính Cung chuyển vƣơng triều lên Cao Bằng đã để lại dấu tích về chữ Nôm Tày. Do đó có thể khẳng định chữ Nôm của ngƣời Tày ra đời không muộn hơn so với chữ Nôm Việt thế kỷ XVI. Bƣớc sang giai đoạn hiện đại, việc sử dụng chữ Nôm gặp nhiều khó khăn do vốn từ tiếng Tày còn nghèo nàn trong các ngành hoạt động hành chính cũng nhƣ khoa học. Năm 1954, một lớp trí thức Tày đã tự sáng tạo ra chữ La tinh Tày nhƣng cũng không đƣợc phổ biến nhiều. Đến năm 1960, Đảng và Nhà nƣớc ta mới có chủ chƣơng quan tâm xây dựng hệ thống chữ viết cho dân tộc Tày theo lối chữ Quốc Ngữ bằng chữ cái Latinh. Trong cuốn Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn đã nhận định: “Chữ Tày có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển nền văn hoá nghệ thuật xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta…” Trong những vùng sinh sống tập trung, dân cƣ Tày sử dụng song ngữ và chữ viết Tày - Việt đã trở thành nét đặc thù phổ biến trong đời sống ngôn ngữ. Do đó cần có kế hoạch sƣu tầm các văn bản văn học dân gian đƣợc ghi bằng chữ Nôm Tày, chữ Tày hiện đại cũng cần đƣợc chỉnh lý, sửa chữa, đóng góp cho sự nghiệp phát triển văn hoá Tày nói riêng và văn hoá trong cộng đồng 54 dân tộc 14 Việt nói chung. Có thể nói chữ viết ra đời là một trong những thành tựu to lớn, là điều kiện vô cùng quan trọng trong việc lƣu giữ và phát triển nền văn hóa văn học đa dạng của các dân tộc nói chung, cƣ dân Tày Bắc Quang nói riêng. Ngƣời Tày ở Bắc Quang có nền văn hoá đa dạng, phong phú. Cả văn hoá vật chất lẫn tinh thần đều có những nét độc đáo. + Về văn hoá vật chất: Bản là đơn vị cƣ trú của ngƣời Tày, thƣờng ở chân núi, cạnh cánh đồng hay ven sông, suối lớn. Tên bản thƣờng đạt theo tên đồng ruộng, khúc sông. đồi núi nhƣ: Nà Ngần, Nà Đon, Nà Tông, Nà Cải… Mỗi bản trung bình có từ 25 đến 30 nhà, bản lớn có tới 60, 70 nhà, thậm chí có tới 100 nhà, có bản chỉ có ngƣời Tày, có bản sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nhà cửa của ngƣời Tày ở đây thƣờng dựng theo thế đất, đằng sau dựa vào đồi núi, phía trƣớc thƣờng nhìn ra cánh đồng, sông suối, bên cạnh nhà có máng nƣớc, ao cá, hƣớng nhà thƣờng căn cứ vào tuổi gia chủ…Nhà ở của họ phổ biến nhất là nhà sàn, lợp lá cọ, nhà có điều kiện thì làm nhà gỗ tất cả xà, cửa…đều làm bằng gỗ tứ thiết đƣợc bào nhẵn, ghép mộng cầu kỳ, kiến trúc trạm trổ đẹp mắt, nhiều hoa văn. Nhà nghèo thì làm gỗ kê đá, lợp lá cọ, phên vách bằng nứa đan… nhà thƣờng chia làm 3 5 - 7 gian, có khi còn làm bếp riêng liền với nhà chính từ 2 đến 3 gian. Xung quanh nhà đƣợc lắp cửa sổ bằng ván hoặc tre nứa, mở thông thoáng nhìn ra phía trƣớc, đằng sau nhà… Nhà sàn của ngƣời Tày là loại nhà tổng hợp, gian giữa thƣờng để bàn thờ tổ tiên, bếp lửa, gian đầu nhà chỗ cầu thang lên thƣờng là nơi tiếp khách, các gian phía trong là chỗ ngủ của các thành viên trong gia đình, có bếp nấu ăn và cũng là nơi tiếp khách của nữ giới, có gác để thóc ngô cùng các đồ dùng khác. Bên cạnh nhà có chuồng chăn nuôi, ngày xƣa nhiều nhà còn sử dụng ngay gầm sàn để chuồng gia súc, công cụ sản xuất rất mất vệ sinh… Sự tập trung dân cƣ đông đúc đã tạo điều kiện cho việc giao lƣu văn hoá phát triển, các chàng trai, cô gái cùng làng, khác bản có thể Hát Iếu đối đáp với nhau, tìm hiểu nên vợ thành chồng. 15 Trang phục của nam, nữ Tày ở đây chủ yếu mặc quần áo vải chàm, cùng một kiểu: áo dài 5 thân, quần lá toạ. Đàn ông quấn khăn hay chít khăn kiểu chữ nhân. áo nữ dài tới bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách phải, cài 5 khuy, thắt lƣng bằng vải lanh hay đũi màu xanh, đỏ dài khoảng hai sải tay, đặc biệt họ thƣờng tự tay mình dệt thêm những dải dây nhỏ, dài có nhiều hoạ tiết đẹp để trang trí cho áo thêm đẹp, tiếng Tày gọi là “Thai Thửa”. Ở một số xã trong huyện phụ nữ Tày còn mặc áo 5 thân bằng vải khác màu, hoặc áo cánh bằng vải nâu, vải chàm tự nhuộm. Chị em phụ nữ thƣờng đeo vòng cổ, vòng tay và mang xà tích bằng bạc hoặc vàng, đầu đội nón cọ tự làm…Họ thƣờng chọn những bộ trang phục đẹp nhất để diện trong các dịp có lễ hội, đi chợ, các cuộc hát giao duyên. + Văn hoá ứng xử: Trong mối quan hệ xã hội nhìn chung đồng bào Tày ở đây khá phát triển nhƣng không đồng đều. Ở vùng thấp, dọc các đƣờng giao thông, gần các thị trấn thị xã trình độ phát triển về các mặt gần bằng các vùng đồng bằng, tuy nhiên ở những vùng giữa, vùng cao xa xôi hẻo lánh, trình độ phát triển còn thấp, đặc biệt ở một số vùng còn tồn tại chế độ “Quăng” ( chế độ thổ ty) - Là xã hội tiền phong kiến ra đời từ rất sớm, tồn tại từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX mới tan dã dần… Kể từ thời Lý đến thời Trần, thời Hậu Lê, các tập đoàn phong kiến muốn cai quản đƣợc các vùng xa xôi, vùng biên giới đều phải thông qua các quý tộc, tù trƣởng các dân tộc để nắm giữ chính quyền, đất đai . Nên có thời kỳ triều đình phong kiến đã phong cho bảy họ lớn ở các vùng miền là “Thất tộc phiên thần” gồm có họ Nông, Ma, Nguyễn, Hoàng, Hà, Vi, Đinh. Trong đó Hà Giang có bốn dòng họ là Nông, Nguyễn, Ma, Hoàng, có ngƣời đƣợc phong tới chức quan Thái bảo, Thái phó, có ngƣời đƣợc phong tƣớc Quận công. Đến trƣớc Cách Mạng tháng Tám năm 1945, các Quăng vẫn tồn tại và chuyển sang làm Tri châu, Tổng đoàn, Châu đoàn, Chánh tổng, Lý trƣởng…của chính quyền phong kiến thực dân. Thời Lý một số tù trƣởng ngƣời Tày đã trở thành phò mã của triều đình và là ngƣời phải phục tùng chính quyền 16 trung ƣơng về mặt chính trị, quyền lợi, phải nộp cống phẩm hàng năm… Họ đƣợc phép cai quản dân của mình theo phong tục, tập quán dân tộc. Triều đình cũng cử các quan lại dƣới xuôi lên trấn thủ vùng biên giới, họ mang theo gia đình, họ hàng thân thích lên làm ăn, lâu ngày đồng hoá với ngƣời Tày, trở thành quý tộc địa phƣơng, hoặc gọi là Lƣu quan, nên ngƣời Tày có câu “ Keo ké piến Tày (Kinh già hoá Thổ). Đặc điểm nổi bật của chế độ quý tộc Quăng là cha truyền con nối, cai trị từng vùng đƣợc triều đình công nhận, nắm quyền sở hữu tối cao đối với ruộng nƣơng, rừng rú, sông suối và các nguồn tài nguyên khác trong vùng. Trƣớc cách Mạng tháng Tám, cƣ dân Tày ở đây có một số tầng lớp theo học chữ Nho, chữ Nôm Tày, họ trở thành tầng lớp trí thức của dân tộc và đội ngũ các thầy Mo, Then, Tạo, Pụt…Đây chính là tầng lớp có sự đóng góp to lớn cho nền văn hoá nghệ thuật của bản địa. Về quan hệ giữa các gia đình trong thôn bản, làng xóm tuy chịu ảnh hƣởng bởi nền kinh tế tƣ hữu phong kiến xong chế độ công xã nông thôn vẫn còn tồn tại dƣới dạng tàn tích. Bà con xóm giềng sớm tối có nhau, thƣờng xuyên cƣu mang, giúp đỡ lẫn nhau. Tục ngữ Tày có câu: “ Pi noọng tam tó bố táy pin noọng xó rƣờn” (anh em xa không bằng anh em làng xóm ở gần nhau). Cƣ dân ở đây còn có tục “Tối vằn lèng” (Đổi công) để giúp nhau làm những việc cần đông ngƣời nhƣ cấy, gặt hái, đám cƣới…hay tục “Kết tồng” ( kết bạn) cùng tuổi, cùng năm sinh tháng đẻ, không phân biệt dân tộc miễn là hợp nhau, khi đã kết bạn tồng thì mọi công việc lớn nhỏ trong hai gia đình đều có nhau. Tình bạn này rất đƣợc coi trọng dù đó là “Tồng” của con cái, vợ chồng hay ông bà… Ngày nay những tục lệ này đến này vẫn đƣợc giữ gìn và phát huy trong cộng đồng cƣ dân ở đây. Gia đình của ngƣời Tày Bắc Quang cũng giống nhƣ cƣ dân Tày ở một số nơi khác rất đông, có tới 4 - 5 thế hệ (cụ kị, ông bà, cha mẹ, con cái, cháu chắt) nhiều đời cùng chung sống trong một mái nhà, song sống phổ biến nhất vẫn là 2- 3 thế hệ sống cùng nhau. Trong gia đình ngƣời Tày ở đây đều đƣợc xây 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan