Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn giá trị nội dung và nghệ thuật trong ngư phong thi văn tập của nguyễn q...

Tài liệu Luận văn giá trị nội dung và nghệ thuật trong ngư phong thi văn tập của nguyễn quang bích

.PDF
64
108
136

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LÝ THỊ TUYẾT GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam HÀ NỘI – 2017 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN LÝ THỊ TUYẾT GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: ThS. AN THỊ THÚY HÀ NỘI – 2017 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của giảng viên, thạc sĩ An Thị Thúy đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong thơ văn Nguyễn Quang Bích”. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong bốn năm học nói chung và trong quá trình nghiên cứu khóa luận nói riêng. Mặc dù có nhiều cố gắng song với trình độ và kiến thức còn hạn chế của mình, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Tác giả khóa luận Lý Thị Tuyết LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận này là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của tôi cùng với sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của giảng viên – thạc sĩ An Thị Thúy. Trong quá trình làm khóa luận, tôi có tham khảo những tài liệu có liên quan đã được hệ thống trong mục Tài liệu tham khảo. Khóa luận không có sự trùng lặp với các khóa luận khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 4 năm 2017 Tác giả khóa luận Lý Thị Tuyết MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 5 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ........................................................... 6 1.1. Hoàn cảnh lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX ...................................................... 6 1.1.1. Phong trào kháng chiến chống Pháp của dân tộc.................................... 6 1.1.2. Phong trào kháng chiến của các sĩ phu văn thân. ................................... 8 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương .......................................................... 11 1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 11 1.2.2. Sự nghiệp văn chương ........................................................................... 17 1.3. Vị trí thơ văn Nguyễn Quang Bích trong dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ XIX ....................................................................................................... 18 Chương 2. GIÁ TRỊ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRONG NGƯ PHONG THI VĂN TẬP CỦA NGUYỄN QUANG BÍCH ........................... 20 2.1. Ngư phong thi văn tập nhìn từ góc độ nội dung ...................................... 20 2.1.1. Tinh thần yêu nước, chống xâm lược ................................................... 20 2.1.2. Tình cảm gắn bó chân thành với nhân dân lao động ............................ 29 2.1.3. Tâm trạng bi phẫn vì hoài bão không thành. ........................................ 33 2.1.4. Tình yêu thiên nhiên đất nước............................................................... 39 2.2. Ngư Phong thi văn tập nhìn từ góc độ nghệ thuật ................................... 43 2.2.1. Bút pháp hiện thực ................................................................................ 43 2.2.2. Bút pháp trữ tình ................................................................................... 48 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 59 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nguyễn Quang Bích là một nhà nho, một văn thân yêu nước tiêu biểu của dân tộc Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX. Trong giai đoạn lịch sử đất nước ta đang chịu sự áp bức đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân sống trong khổ cực, đói kém triều đình nhà Nguyễn đứng đầu đất nước nhưng lại nhu nhược, hèn nhát đầu hàng giặc khiến những cuộc đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân diễn ra ở khắp mọi nơi. Nếu ở Nam Kỳ nổi bật lên vai trò lãnh đạo kháng chiến của Nguyễn Hữu Huân, ở Trung Kỳ là Phan Đình Phùng thì ở Bắc kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Quang Bích. Ông là một lãnh tụ xuất sắc của phong trào Cần Vương kháng Pháp tại núi rừng Tây Bắc. Những năm tháng chiến đấu gian khổ hào hùng của ông và nghĩa quân đã tạo nên một nét son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nước nhà. Nguyễn Quang Bích không những được lịch sử ghi nhận bởi sự đóng góp của ông với phong trào Cần Vương mà còn được được ghi nhận với những đóng góp cho nền văn học nước nhà. Bên cạnh tư cách một lãnh tụ nghĩa quân lặn lội chống Pháp tại núi rừng Tây Bắc, Nguyễn Quang Bích còn là một nghệ sĩ ngày đêm cầm bút khắc họa cảnh thiên nhiên cũng như cuộc sống của nhân dân tại chính địa bàn mình đã trường kì kháng chiến với tinh thần quyết tử cho dân tộc. Sự tác động từ nhiều yếu tố như thời thế, xuất thân, nền giáo dục,… Nguyễn Quang Bích đã cho ra đời tập thơ văn giàu giá trị là Ngư Phong thi văn tập.Với nhiều bài thơ, văn đạt giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, tập thơ văn đã góp phần làm nên diện mạo của kho tàng văn học Việt Nam. Đó là những cảm xúc của ông về thời thế, nhân sinh nhìn cảnh sinh tình. 1 Từ xưa đến nay, thơ ca chính là nơi gửi gắm những tâm sự nỗi lòng, cảm xúc của các thi nhân. Những băn khoăn trăn trở, những niềm vui nỗi buồn thường trực hay sâu kín đều ẩn hiện rõ nét hoặc thoáng qua hoặc ẩn chứa sâu xa trong thơ văn của các thi sĩ.Đằng sau những ngôn từ có vẻ giản đơn hiện lên cả một thế giới nội dung rộng lớn và một tâm hồn nghệ thuật nghệ sĩ sâu sắc. Điều này chúng ta có thể bắt gặp được ở hầu hết sáng tác của các thi nhân Việt Nam nói chung như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,… Nguyễn Quang Bích cũng không ngoại lệ. Nghiên cứu đề tài “Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập” chính là để độc giả hiểu sâu sắc hơn về nhà thơ Nguyễn Quang Bích nói chung và giá trị nội dung, nghệ thuật của tập thơ nói riêng. Đó chính là lí do để chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Quang Bích là một trong những tác giả tiêu biểu, một tri thức Nho học có tên tuổi trong nền văn học dân tộc nửa cuối thế kỉ XIX. Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ văn nói chung và giá trị nội dung, nghệ thuật của tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích nói riêng không phải là nội dung hoàn toàn mới mẻ.Có thể điểm qua một số cuốn sách và công trình nghiên cứu về Nguyễn Quang Bích như sau: Trước hết, trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX),tác giả đã phát hiện được tâm sự của người có thần sống chết vì nước đồng thời tái hiện được nét chân thực về cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc vào giai đoạn nửa cuối thế kỉ trước trong tập Ngư Phong thi văn tập. Nhiều tác giả trong cuốn “Giáo trình lich sử văn học Việt Nam, tập IVA” đã cho độc giả thấy được Nguyễn Quang Bích là một thi sĩ chân chính. 2 Thơ văn ông không những ghi chép được một số của cộc kháng chiến ở Tây Bắc cuối thế kỉ trước mà còn truyền lại được những cảm xúc yêu nước lành mạnh còn nhiều khả năng bồi dưỡng cho tình cảm dân tộc hiện nay. Đến năm 1973 Đinh Xuân Lâm đã giới thiệu và chú thích cuốn Thơ văn Nguyễn Quang Bích. Trong cuốn sách này, tác giả đã viết: “Tập Ngư Phong thi văn tập là tiếng nói chân thành, là tâm sự bi đát của một vị văn thân nặng lòng vì nước vì vua trong lúc nước mất nhà tan…” [3;tr24] Tiếp đến là Nguyễn Lộc với cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX. Trong cuốn sách này tác giả khẳng Ngư Phong thi văn tập trước hết là tình cảm của Nguyễn Quang Bích một nhà thơ, đồng thời là một lãnh tụ nghĩa quân Cần Vương, trong những ngày tháng chống giặc gian lao giữa núi rùng ngút ngàn của miền Tây Bắc đất nước. Hay nhiều tác giả trong cuốn “Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX (1858-1900)”, cũng đã nói lên được tinh thần quyết tâm kháng chiến, không sợ gian khổ, không sợ hi sinh của nghĩa quân và tác giả, đồng thời cũng nói lên được tình yêu thương đồng cam cộng khổ giữa những người cùng chí hướng, giữ miền núi và miền xuôi trong cuộc đánh giặc cứu nước. Gần đây nhất là Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) với công trình, Nguyễn Quang Bích – Nhà yêu nước, nhà thơ (kỷ yếu). Đây là công trình tập hợp rất nhiều bài viết về Nguyễn Quang Bích của các giáo sư, các nhà nghiên cứu. Chẳng hạn như: “Truyền thống và cách tân trong thơ Nguyễn Quang Bích” (GS Nguyễn Huệ Chi), “Ngư Phong thi văn tập, những vần thơ” “Tâm ngữ tâm” (PGS Trần Thị Băng Thanh)… Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã phần nào nhìn nhận ở góc độ này hay góc độ khác về giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quanh Bích. Tuy nhiên những bài nghiên cứu trên chưa nhìn nhận một cách tổng thể, hệ thống về giá trị nội dung và 3 nghệ thuật của tập thơ văn. Kế thừa những khám phá của các bậc tiền nhân đi trước, coi đó là những định hướng tiền đề ban đầu chúng tôi xin mạnh dạn thử phác họa Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài khóa luận này hướng tới hai mục đích sau: - Tìm hiểu để có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị nội dung và nghệ thuật trong tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. - Nâng cao sự hiểu biết về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Quang Bích để từ đó thấy được vị trí và vai trò của ông trong giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX nói riêng và trong nền văn học nước nhà nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận sử dụng trích dẫn thơ văn của Nguyễn Quang Bích chủ yếu từ cuốn Thơ văn Nguyễn Quang Bích do Đinh Xuân Lâm giới thiệu, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1973. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Như tên đề tài đã xác định khóa luận tập trung tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật trong tập thơ văn Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích. 5. Phương pháp nghiên cứu Tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng các phương pháp chính sau: - Phương pháp thống kê, phân loại - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp đối chiếu, so sánh. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. 4 6. Bố cục khóa luận Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm hai chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Ngư Phong thi văn tập của Nguyễn Quang Bích 5 NỘI DUNG Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Hoàn cảnh lịch sử nửa cuối thế kỉ XIX 1.1.1. Phong trào kháng chiến chống Pháp của dân tộc Đất nước Việt Nam nhỏ bé nhưng đã phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh anh dũng mà hào hùng. Những ngày tháng chịu sự áp bức đô hộ là những ngày tháng gian khổ nhưng rất hào hùng với những chiến công lẫy lừng làm nên trang sử vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta. Xưa kia chịu sự áp bức của thực dân phương Bắc có chiến công hiển hách đánh dấu bước chuyển mình lớn của dân tộc với chiến thắng trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền. Từ đó về sau ông cha ta cũng đã lập nên những kì tích đánh thắng giặc phương Bắc với chiến công của Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,… Từ giữa thế kỉ XIX đến thế kỉ XX cuộc chiến đấu của dân tộc ta vẫn chưa chấm dứt. Kẻ thù của dân tộc ta lúc này không phải quân phương Bắc nữa mà là thực dân Pháp. Từ khi phát súng đầu tiên của thực dân Pháp nổ ra ngày 31-8-1858 tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đã mở màn cho cuộc xâm lược phi nghĩa của chúng đồng thời báo hiệu những chuyển biến lớn trong đời sống đấu tranh của dân tộc. Nhân dân ta với tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất lại một lần nữa trỗi dậy đấu tranh mang tư cách nhân dân của một nước độc lâp tự do quyết chiến với kẻ thù để gìn giữ nền hòa bình tự chủ của tổ quốc. Trong khí thế đấu tranh bừng bừng sôi sục của nhân dân thì triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, không dám dựa vào nhân dân kháng Pháp.Lúc đầu họ cũng muốn đấu tranh để giành nền tự chủ cho dân tộc nhưng trước sức mạnh to lớn của thực dân Pháp họ không kháng cự nổi nên đã đầu hàng bọn thực dân, nhượng bộ cho chúng nhiều quyền lợi dân tộc, bán đi một số tỉnh. Bởi lẽ 6 đó, phong trào đấu tranh lúc này không phải chỉ để chống thực dân Pháp mà còn để chống lại chế độ phong kiến mục rỗng không còn đủ tư cách lãnh đạo, cầm quyền. Lúc này, vai trò của nhân dân lại sáng ngời trên vũ đài chính trị. Chưa phải nhân dân lãnh đạo tất cả các cuộc chống Pháp nhưng họ tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh bền bỉ, gan dạ, tinh thần anh dũng bất khuất, chịu thương chịu khó của dân tộc. Xưa kia người nông dân đi theo chân của các vị tướng như Ngô Quyền, Quang Trung, Lê Lợi, Nguyễn Trãi,… đánh đuổi giặc ngoại xâm. Ngày nay, họ lại cùng với một bộ phận ưu tú của giai cấp phong kiến đứng lên chống Pháp, chặn đứng nguy cơ mất nước dưới gót giày quân xâm lược. Khi tiếng súng của kẻ thù xâm lăng ở của biển Đà Nẵng - phần đất phương Nam xa xôi thì không chỉ nhân dân miền Nam mới đứng lên chống Pháp. Tiếng súng ấy đã khơi dậy lòng phẫn uất căm thù giặc của nhân ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra liên tiếp và rầm rộ chứng tỏ lòng yêu nước sắt son của người dân đất Việt. Tiêu biểu phải kể đến cuộc khởi nghĩa nông dân của Cai Vàng, lời buộc tội triều đình của “Trung nghĩa ca”, đoàn nghĩa quân chống quân xâm lược của thầy trò Phan Văn Nghị tình nguyện vào Nam chống Pháp, cuộc khởi nghĩa của Đoàn Hữu Trưng, của Trần Tấn, Đặng Như Mai nhằm chống lại triều đình phong kiến và chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp… Những cuộc khởi nghĩa nổ ra càng thể hiện rõ tấm lòng yêu nước và ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm ngùn ngụt trỗi dậy trong lòng nhân dân. Những cuộc đấu tranh ấy đã gây ra tổn thất lớn cho thực dân Pháp và bọn tay sai triều đình nhà Nguyễn khiến cho chúng phải trả giá đắt trên mỗi mảnh đất chúng cướp hoặc bước chân giày xéo lên. Phong trào đấu tranh của nhân dân vô cùng anh dũng, hào hùng nhưng tình thế của đất nước vẫn không thể cứu vãn được. Chiến tranh của thực dân 7 Pháp ở Việt Nam là chiến tranh phi nghĩa nhưng do sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn tại Huế nên chúng đã giành được một số thắng lợi đánh dấu bằng những hàng ước mà triều đình nhà Nguyễn kí với chúng: Hàng ước năm 1862 nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn cho Pháp. Điều ước và thương ước 1874 nhường toàn bộ Nam kì cho thực dân Pháp. Hai hàng ước 1883 và 1884 thì công nhận nền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Thực dân Pháp đã dần dần quàng ách thống trị lên nước ta. Lúc đó nước ta trở thành một đất nước xã hội giao thời – xã hội nửa thực dân nửa phong kiến, kiểu xã hội ngày càng rõ nét vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. 1.1.2. Phong trào kháng chiến của các sĩ phu văn thân Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại kẻ thù. Trong làn sóng ấy phải kể đến phong trào đấu tranh của các sĩ phu văn thân. Thực dân Pháp xâm lăng đã làm cho hàng ngũ phong kiến bị phân hóa ra nhiều thành phần. Ngoài triều đình Huế bù nhìn mê muội, ngoài bọn địa chủ phong kiến hám lợi cầu vinh thì vẫn còn rất đông các trí thức phong kiến ý thức được trách nhiệm của mình với dân với nước. Tuy nhiên trong hàng ngũ sĩ phu văn thân, thái độ của họ với thời cuộc là không hẳn giống nhau. Trước hiện thực tăm tối của xã hội , khi mâu thuẫn của dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến đã lên đến đỉnh điểm thì một số người vẫn cúi đầu an phận. Ý thức hệ phong kiến cơ bản chi phối lẽ sống của họ: tư tưởng trung quân giờ đây đã không còn hợp thời theo đúng nghĩa của nó bởi người đứng đầu đất nước là triều đình nhà Nguyễn đã không còn đủ tư cách lãnh đạo. Một số sĩ phu khác thì thiếu nghị lực, họ đi tìm qua khứ trong ẩn dật, trong ưu tư mơ ước được trở lại thời thịnh của phong kiến ngày xưa. Có người bày tỏ thái độ bất mãn trước cảnh chế độ phong kiến suy 8 tàn và thực dân Pháp thống trị nhưng họ lại không hành động mặt khác bên họ vẫn có những sĩ phu ý thức được trách nhiệm của mình và tỉnh táo trước thời cuộc. Bắt nguồn từ truyền thống yêu nước của dân tộc, họ tin tưởng vào lực lượng nhân dân, đứng lên cầm súng giết giặc, lãnh đạo cuộc kháng chiến đem đến nhiều chiến công. Tiêu biểu cho cuộc đấu tranh ấy là phong trào Cần Vương được nổ ra bởi lời hiệu triệu, từ chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi. Phong trào rầm rộ từ Bình Định, Quảng Bình ra đến Hưng Yên, Thái Bình, Tây Bắc và kéo dài đến hết thế kỉ XIX. Các văn thân sĩ phu không chỉ đấu tranh chống Pháp bằng vũ khí, bằng bạo lực mà còn đấu tranh bằng chính ngòi bút của mình. Tấm lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc còn thể hiện rõ nét qua những trang thơ như của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… một trong những sĩ phu văn thân thời bấy giờ phải kể đến là Nguyễn Quang Bích. Khi nói đến cuộc đời hi sinh chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ Cần Vương người ta thấy nổi bật một Nguyễn Quang Bích, một Tống Duy Tân, một Phan Đình Phùng… để lại cho thế hệ sau tấm gương rực rỡ về sự hi sinh cho độc lập tự do của tổ quốc, về khí phách hiên ngang bất khuất, hành động xả thân cho việc nước của một trí thức dân tộc chân chính trước kẻ thù. Với riêng Nguyễn Quang Bích ông là một nhà trí thức phong kiến, một nhà thơ, một nhà quân sự, nhà chính trị, ngoại giao. Trải qua những bước thăng trầm của cuộc đời, với thực tế sống và chiến đấu ông đã trở thành người chỉ huy cao nhất của trung tâm kháng chiến vùng Bắc Kì cuối thế kỉ XIX. Cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp rất gian khổ, hoàn cảnh lịch sử xã hội lại vô cùng phức tạp nhưng ông vẫn cùng các chiến hưu của mình như Đề Kiều, Đốc Ngữ, Nguyễn Văn Giáp…đứng ra gánh vác việc lớn. Nguyễn Quang Bích là hiện thân của tinh thần yêu nước thương dân tư tưởng của ông đã vượt ra khỏi tư tưởng của lễ giáo Nho gia, ông khước từ địa vị một viên quan triều 9 đình để cùng nghĩa quân lập căn cứ địa chống Pháp nơi núi rừng hẻo lánh. Trong những ngày làm tuần phủ Hưng Hóa từ năm 1867 trở đi Nguyễn Quang Bích đã góp phần lớn vào việc giữ an ninh trật tự cho vùng biên giới phía Bắc. Ông đã thể hiện tri thức quân sự của mình khi nhìn thấy nhà Thanh sẽ kết cấu với Pháp, đó là lối tư duy mang tính dự báo rất cao. Tầm nhìn quân sự của Nguyễn Quang Bích còn thể hiện ở việc lựa chọn căn cứ kháng chiến lâu dài chống Pháp từ Hưng Hóa đến địa bàn hiểm trở Cẩm Khê(Vĩnh Phú),ở Tiên Động… rồi cuối cùng là châu Văn Chấn (Nghĩa Lộ) một địa bàn có vị trí quân sự, chính trị và kinh tế vững chắc. Ông còn biết dựa vào nhân dân (Đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số) được nhân dân tin yêu, đùm bọc và che chở. Ông còn rất tài tình trong việc dùng người, ngoài trợ thủ đắc lực của ông như Đốc Ngữ, Đề Kiều, Nguyễn Văn Giáp…căn cứ địa của ông là nơi tập trung thu hút sự chú ý và ủng hộ của các nghĩa quân khác. Chính điều đó tạo nên sức mạnh to lớn để tiến hành kháng chiến lâu dài. Với những sách lược chính trị, ngoại giao như tranh thủ sự giúp đỡ của nhà Thanh, kiên quyết kháng Pháp cũng như việc sử dụng các chiến thuật quân sự cho thấy Nguyễn Quang Bích là nhà quân sự đại tài. Ngoài tài quân sự ông còn có tài thơ văn, với tập Ngư Phong thi văn tập lắng đọng, giàu cảm xúc Nguyễn Quang Bích đã bộc lộ rất rõ suy nghĩ của mình với cuộc kháng chiến chống Pháp. Từ những điều trên đây, chúng ta có thể nhận thấy vai trò, vị trí và sự ảnh hưởng quan trọng của Nguyễn Quang Bích với cuộc khánh chiến chống Pháp. Bởi thế dưới ngọn cờ lãnh đạo xuất sắc của ông, dù cuộc kháng chiến chống Pháp không thắng lợi trọn vẹn nhưng nó đã chứng tỏ rằng lòng yêu nước, căm thù giặc là truyền thống quí báu của dân tộc, truyền thống ấy còn nối tiếp từ thế hệ này đến thế hệ khác tạo nên một sức mạnh khổng lồ đem đến những thắng lợi và kết quả triệt để hơn ở giai đoạn sau. 10 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương 1.2.1. Cuộc đời Nguyễn Quang Bích, tự Hàm Huy, hiệu Ngư Phong, ông sinh ngày 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (7-5-1832). Sinh ra và lớn lên ở làng Trình Phố, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định nay thuộc tỉnh Thái Bình nên Nguyễn Quang Bích rất am hiểu về con người và mảnh đất nơi đây. Trình Phố là ngôi làng đồng ruộng nhiều, cư dân đông đúc do gần vùng biển úng lụt mất mùa liên miên nên cuộc sống của người dân nơi đây đói nghèo thiếu thốn trăm bề. Tuy nhiên đây cũng là một trong những miền quê tiêu biểu của Việt Nam với truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất đấu tranh bảo vệ dân tộc. Trong làn sóng lịch sử dân tôc sôi động khoảng cuối thế kỉ XIX trở đi, tên tuổi của những người con ưu tú của quê hương Trình Phố nổi bật lên như Ngô Đức Trạch, Bùi Viện, Ngô Quang Đoan,…nhưng tiêu biểu nhất là tên tuổi của Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích. Suốt thời gian làm quan, ông được nhân dân các địa phương rất yêu mến thường gọi ông là “Hoạt phật” (Phật sống). Đó là cả một tấm lòng ái mộ của nhân dân đối với một người suốt đời chăm lo đến đời sống của quần chúng. Những năm tháng làm quan trong sạch và ân đức đó đã báo trước cho những hành động cao đẹp của ông về sau khi đất nước bị quân thù xâm lược. Với làng Trình Phố, Nguyễn Quang Bích đã thực sự gắn bó và để lại rất nhiều ân nghĩa. Đức tài, cách đối nhân xử thế của dòng họ ông nói chung và của bản thân ông nói riêng đã ngấm sâu vào trong gốc rễ làng Trình và ăn sâu vào trong hồn người nơi đây. Trước cảnh nhân dân mất mùa, đói khổ Nguyễn Quang Bích đã lo lắng trăn trở mong muốn thực hiên được ước nguyện giúp dân ấm no hạnh phúc. Trong khoảng thời gian về chịu tang cha ông đã thực hiện được ước nguyện của mình, xây Văn Chỉ cho làng, mở trường dạy học, 11 xẻ sông, đắp cống,… mở ra một cuộc sống mới cho người dân làng Trình Phố. Cũng chính vì ông có nhiều ân nghĩa với mảnh đất và con người nơi đây nên đã khiến cho nhân dân làng Trình đủ sức mạnh theo ông lên tận Hưng Hóa để đánh giết giặc và khi ông mất làng Trình Phố đã cùng gia đình ông gánh chịu những tổn thất lớn lao trong lòng cũng như sự trả thù dã man của chính quyền thực dân Pháp. Có một điều chắc chắn, Nguyễn Quang Bích xứng đáng là niềm tự hào của nhân dân làng Trình Phố, xứng đáng với lời ngợi ca đẹp đẽ mà quê hương đã dành tặng ông: “Chỉ Trụ thiên thu tiêu Việt quốc, Danh môn bách thế biểu Trình Giang.” Nghĩa là: “Cột trụ ngàn năm nên đất Việt, Danh thơm muôn thuở rạng làng Trình.” Có thể nói quê hương là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên nhân cách Nguyễn quang Bích nhưng yếu tố tiên quyết để hình thành nên nhân cách đáng kính trọng đó phải kể đến dòng dõi gia đình. Tổ tiên Nguyễn Quang Bích vốn là dòng họ Ngô (Bởi vậy có nhiều học giả gọi ông là Ngô Quang Bích). Họ Ngô từ thế kỉ XV xuất xứ từ Đồng Phang đã lan rộng ra địa bàn toàn quốc và trở thành một dòng họ lớn sản sinh ra nhiều văn thân võ tướng có tiếng. Tổ tiên ông có Ngô Kinh, Ngô Từ cũng có công lớn với Lê Khoáng, Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thân phụ Nguyễn Quang Bích là Ngô Quang Lưu vốn có sức khỏe, làm ăn chăm chỉ, tiết kiệm nên sớm trở thành một trung nông khá giả của làng Trình Phố xưa. Ông luôn chỉ bảo cho con cháu những điều hay lẽ phải, là một 12 tấm gương về đức tính lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, ăn ở nhân đức tình nghĩa với láng giềng,… cho con cái về sau. Thân mẫu Nguyễn Quang Bích là một người phụ nữ tần tảo hết lòng với chồng con. Đức tính tốt từ thân phụ và thân mẫu đã trở thành những định hướng lớn trong tư tưởng của Nguyễn Quang Bích và có ảnh hưởng lớn đến hành động của ông sau này. Không chỉ thế, góp phần quan trọng vào quá trình hình thành nhân cách để tạo nên sự nghiệp của Nguyễn Quang Bích còn phải kể đến kết quả của sự dạy dỗ bởi các thầy dạy học lúc bấy giờ. Người thầy khai tâm cho Nguyễn Quang Bích là cụ tú tài Nguyễn Ôn Hòa, một nho sĩ có tiếng người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Nhờ sự ân cần chỉ bảo của người thầy mẫu mực này nên Nguyễn Quang Bích đã sớm phát huy được tư chất thông minh, hiếu học và tinh thần lập chí từ nhỏ. Khi học lên cao ông lại tìm được một người thầy học có tiếng tăm về đức độ, văn tài tiến sĩ Đốc học Doãn Khuê, người xã Song Lãng, huyện Vũ Thư. Người thầy cao quý không chỉ truyền dạy cho Nguyễn Quang Bích tinh thần học tập, nghiên cứu nghiêm túc, coi trong việc tiếp thu những tinh hoa của kho tàng văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Đông mà còn ảnh hưởng sâu sắc tới ông về tinh thần yêu nước, về đạo đức trong sáng mang tính truyền thống của dân tộc. Trong “Bài ca đối sánh thi đình” của mình, Nguyễn Quang Bích đã khẳng định: Ông đã hình thành nhân cách con người trí thức của mình trước khi bước vào con đường tấn thân. Sau này, sau những năm tháng kháng chiến ở Tây Bắc với tư cách là thủ lĩnh của nghĩa quân, Nguyễn quang Bích đã hình thành nên nhân cách con người trí tuệ của mình. Trong 13 ông có sự nhất quán giữa việc học và hành, giữa tư tưởng và hành động, đạt đến sự viên mãn trong các mối quan hệ ứng xử. Như vậy, nhân cách của Nguyễn Quang Bích được hình thành trong cả một quá trình dài dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Với những điều kiện tiền đề thuận lợi kết hợp với sự cố gắng nỗ lực của bản thân tưởng rằng đường công danh sẽ rạng rỡ với ông thế nhưng cũng giống như Trần Tế Xương Nguyễn Quang Bích thi đỗ rất muộn. Năm Mậu Ngọ (1858) lúc đã 27 tuổi ông mới đậu tú tài. Tiếp sau đó, năm Tân Dậu (1861) ông đỗ cử nhân và được bổ làm giáo thụ phủ Trường Khánh (Ninh Bình). Được một năm thì ông cáo quan về quê để tang cha và dạy học.Con đường quan lộ của Nguyễn Quang Bích chỉ thực sự rạng rỡ vào năm 1869 khi ông đỗ nhị giáp tiến sĩ lúc 38 tuổi và được bổ làm tri phủ Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức án sát Sơn Tây, Tế tửu Quốc Tử Giám tại kinh đô Huế, án sát Bình Định. Trong thời gian đó triều đình mở doanh điền ở Hưng Hóa, ông lại được cử làm chánh sứ sơn phòng rồi kiêm luôn chức tuần phủ Hưng Hóa. Mảnh đất Hưng Hóa cũng là nơi Nguyễn Quang Bích bắt đầu tham gia vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc. Sau khi buộc triều đình Huế kí hàng ước vào ngày 25/8/1883 xác định quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam thì đến tháng 3/1884 thì hầu hết Bắc kì đã lọt vào tay giặc Pháp. Một số căn cứ quan yếu đã mất, chỉ còn Hưng Hóa và thực dân Pháp đang chuẩn bị tấn công để mở rộng phạm vi xâm lược ra cả nước. Tuần phủ kiêm trấn thủ Hưng Hóa lúc đó là Nguyễn Quang Bích lúc đó đã phải chỉ đạo trực tiếp việc giữ thành. Sau khi thành Hưng Hóa thất thủ ông đã thu thập quân binh dời về Cẩm Khê (Phú thọ) và định cố thủ lâu dài ở đây lặp căn cứ chống Pháp. Nghĩa quân đã tự củng cố lục lượng cùng với nghĩa quân từ nhiều nơi khác đến đã tạo nên một sức mạnh cả về thế và lực. Quân Pháp nhiều lần đem 14 binh đến đánh hưng đều thất bại trước sự đồng tâm đoàn kết quyết chiến của nghĩa quân nơi đây, đặc biệt là sự lãnh đạo của nhà cầm quyên Nguyễn Quang Bích. Ngày 13/7/1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng dậy chống Pháp cứu nước. Tôn Thất Thuyết thừa mệnh vua xuống dụ khai phục nguyên hàm và thăng chức cho văn thần võ tướng ngoài Bắc. Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi sai sứ ra phong Lễ bộ thượng thư sung hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần nước Thuần – Trung cho phép quan văn từ tham tần, quan võ từ đề đốc trở xuống được quyền “Liệu nghi thực dụng” đồng thời ông được ủy viện cầm quốc thư sang triều Thanh cầu viện. Nguyễn Qung Bích đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao ông được vua Hàm Nghi ban khen và phụ chinh đại thần Tôn Thất Thuyết làm thơ kỉ niệm. Vào năm 1886 vua Hàm Nghi lại một lần nữa cử Nguyễn Quang Bích đi Vân Nam, cùng đi với ông có Chu Lăng Thực, tự Thiết Nhai, hiệu Ngọa Hổ người tỉnh Hồ Nam Trung Quốc, người thứ hai là Nguyễn Khê Ông người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, lĩnh chức án sát sứ tỉnh Sơn Tây sung tần tướng quân vụ. Cũng trong thời gian này từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1886, giặc Pháp hai lần liên tục tấn công căn cứ nhưng không có kết quả. Phong trào kháng Pháp ở nhiều nơi lại nổ ra mạnh mẽ. Giữa lúc này thì Nguyễn Quang Bích từ Trung Quốc về nước và cho nghĩa quân đóng ở hạt Thiên Chấn (châu Văn Chấn). Được sự viện trợ của tổng đốc Vân Quý là Sầm Dục Anh cùng sự góp sức của nhiều nghĩa quân khác, đặc biệt là đồng bào dân tộc miền núi nên thanh thế của nghĩa quân tăng lên rất nhanh. Tất cả các cuộc đấu tranh chống phá của thực dân Pháp đều vô hiệu. Đàn áp không được thực dân Pháp dở chiêu trò dụ dỗ nhưng Nguyễn Quang Bích kiên quyết cự tuyệt thề chết không 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan