Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đóng góp của xuân diệu trong phê bình văn học trung đại qua các nhà thơ...

Tài liệu Luận văn đóng góp của xuân diệu trong phê bình văn học trung đại qua các nhà thơ cổ điển việt nam

.PDF
115
161
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ****************** LƯƠNG THU THUỶ ĐÓNG GÓP CỦA XUÂN DIỆU TRONG SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA CÁC NHÀ THƠ CỔ ĐIỂN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Hà Nội - 2011 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ****************** LƯƠNG THU THUỶ ĐÓNG GÓP CỦA XUÂN DIỆU TRONG SỰ NGHIỆP PHÊ BÌNH VĂN HỌC TRUNG ĐẠI QUA CÁC NHÀ THƠ CỔ ĐIỂN VIỆT NAM Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 60. 22. 34 Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Trần Nho Thìn Hà Nội - 2011 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 5 3. Phương pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu .................. 6 4. Giới thiệu sơ lược cấu trúc luận văn ................................................... 7 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu.8 1.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ ....................................................... 8 1.1.1. Thơ trước hết là cuộc sống, cuộc sống trần thế nơi trần tục này.... 8 1.1.2. Thơ là trái tim chân thật, là qui luật tình cảm. ............................. 11 1.2.Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ ...................................... 13 1.2.1 Phương pháp phê bình nghiên cứu của Xuân Diệu ............... 13 1.2.2. Những yêu cầu cần có ở một nhà phê bình thơ ...................... 21 1.3 .Nhìn lại một số thành tựu nghiên cứu phê bình thơ của Xuân Diệu qua các chặng đường..................................................................................... 23 1.4. Xuân Diệu với gia tài văn học cổ điển dân tộc ................................. 32 Chương 2: Đóng góp về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của Xuân Diệu với các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (qua Các nhà thơ cổ điển Việt Nam) .................................................................................. 34 2.1. Bối cảnh văn hóa, tư tưởng chính trị những năm 1960, 1970 .......... 34 2.2. Những điểm hạn chế trong sáng tác phê bình của Xuân Diệu ......... 37 2.3. Nghệ thuật viết phê bình của Xuân Diệu ........................................ 45 2.3.1. Xuân Diệu- nhà thơ trong nhà phê bình…………......46 2.3.2. Xuân Diệu bình và giảng…………………………….56 3 2.4. Những đánh giá của Xuân Diệu về các nhà thơ cổ điển Việt Nam với các tác phẩm tiêu biểu: .......................................................................... 70 2.3.1. Xuân Diệu với Nguyễn Trãi ......................................... 70 2.3.2. Xuân Diệu với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du ............. 75 2.3.3. Xuân Diệu với “bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương ..... 94 2.3.4. Xuân Diệu với nhà thơ các nhà thơ cổ điển khác (Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu) ... ............. 99 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................ 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................... 110 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Xuân Diệu là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Không chỉ là "hoàng tử thơ" mà ông còn là một nhà hoạt động kiệt xuất trên nhiều lĩnh vực sáng tác văn học. Chế Lan Viên đã có lần thốt lên rằng “năng suất của Diệu bằng cả một viện văn chương, mà Diệu vừa là viện trưởng, vừa là viện phó, vừa là loong toong, bởi vì chỉ một mình Diệu đã viết hầu hết các danh nhân văn học”. Cùng với sự nghiệp thơ ca nổi tiếng, ông còn để lại một khối lượng tác phẩm tiểu luận - phê bình phong phú, đồ sộ. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (19321945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ”(1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984), Sự uyên bác với việc làm thơ”(1985)... Hơn ba nghìn trang sách, gần hai chục công trình, chỉ tính riêng các tác phẩm lí luận, phê bình, ta đã có thể gọi Xuân Diệu là một “đại gia”. Phê bình nghiên cứu văn học theo nghĩa như một hoạt động chuyên nghiệp, ở nước ta, lại ra đời khá muộn. Tính cho đến nay thì trong thành tựu chung của văn học hiện đại nước nhà, phê bình vẫn phát triển chậm. Xuân Diệu, đến lượt ông, khi viết phê bình, đã không ngần ngại lập nên danh sách năm tên tuổi lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thuỷ cho đến năm 1945: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương và Ðoàn Thị Ðiểm (nếu bà quả đúng là tác giả bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành). Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là một công trình lớn của một nhà thơ lớn viết về các nhà thơ lớn. Tác phẩm chinh phục độc giả bằng những kiến giải uyên bác, những cảm nhận tinh tế của một nhà phê bình xuất sắc, một 5 nghệ sĩ bậc thầy. Xuân Diệu là một nhà nghiên cứu văn học sâu sắc, một nhà phê bình tinh tế, một nhà lý luận văn học độc đáo. Bộ sách dày hai tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là một công trình đồ sộ về truyền thống thơ ca nước nhà. Những khám phá, những phân tích của ông về các nhà thơ cổ điển cũng đã trở thành những nhận định "cổ điển". Ai đã đọc công trình Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”của thi sĩ Xuân Diệu mới thấm thía cái cách thi nhân tự làm giàu mình bằng con đường học tập các bậc tiền bối của dân tộc. Có thể thấy, Xuân Diệu là một tài năng lớn không chỉ ở lĩnh vực thi ca mà cả ở lĩnh vực phê bình. Với hai tập Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Xuân Diệu đã xếp chỗ ngồi trang trọng và phù hợp cho các nhà thơ tiền bối mà tên tuỏi họ mỗi khi nhắc đến đều làm sống dậy trong lòng người Việt Nam một tình cảm yêu mến và tự hào. Qua những trang bình thơ của Xuân Diệu, ta được tiếp cận với một lối lý luận khúc chiết, sắc sảo, một cách thưởng thức và thẩm định đầy trách nhiệm đối với di sản văn học của tiền nhân. Và ta bị lôi cuốn bởi chất văn dào dạt thấm đẫm phong cách Xuân Diệu, khiến ông không lẫn với một ai khác. Chất văn trong văn phê bình, không phải nhà phê bình nào cũng có được. Chính vì thiếu chất văn nên một số bài phê bình lọt thỏm trên văn đàn và nhanh chóng rơi vào quên lãng. Nhưng Xuân Diệu không thế, văn phê bình của ông là một thứ văn đầy hình tượng và thanh sắc. Tác phẩm Các nhà thơ cổ điển Việt Nam là công trình chỉ có các nhà phê bình lớn, nhà văn hóa thực sự uyên bác, tài hoa mới vươn tới được. Hai tập sách thực sự là một công trình đồ sộ, một đóng góp lớn lao của nhà thơ Xuân Diệu trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học cổ điển dân tộc. Tất nhiên, đó đây vẫn xuất hiện những nét cực đoan, quá khích, bị ảnh hưởng bởi quan điểm chính trị, giai cấp. Đó là những hạn chế không thể tránh khỏi do bối cảnh của thời đại và do phương pháp phê bình theo lối xã hội học dung tục mang lại. Nhưng không thể phủ nhận một điều rằng qua 6 tâm hồn, tài năng và nghệ thuật, sự phân tích và diễn đạt của Xuân Diệu, những giá trị tinh hoa của văn học truyền thống từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát đến Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu, Đào Tấn…đều hiện lên vô cùng gần gũi, thân thiết đối với con người hôm nay. Cùng với chân dung Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, người đọc đã nhận ra được chân dung của nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu uyên bác, cần mẫn, rất mực tinh tế và tài hoa. Tìm hiểu nghiên cứu đóng góp của Xuân Diệu ở lĩnh vực này sẽ giúp ta rút ra được những bài học bổ ích, những kinh nghiệm quí báu cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền phê bình văn học hiện nay. Mặt khác, Xuân Diệu là một tác gia văn học lớn. Chính vì vậy, đã đến lúc muốn khai thác một cách toàn diện và sâu sắc sự nghiệp của Xuân Diệu cũng như những đóng góp lớn lao của ông đối với nền văn học nước nhà, rất cần có những công trình nghiên cứu chuyên biệt từng tác phẩm, từng chặng đường, từng phương diện sáng tạo của ông. Và tất nhiên, trong đó chúng ta không thể không có những công trình chuyên sâu khám phá vẻ đẹp và những đóng góp của văn tài Xuân Diệu trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu văn học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu : 2.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn muốn phân tích, tìm hiểu, phát hiện những đóng góp của Xuân Diệu trong việc đánh giá những giá trị nội dung cũng như giá trị nghệ thuật của các tác giả văn học trung đại (bên cạnh những điểm còn hạn chế trong phê bình của Xuân Diệu) qua Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Qua đó, chúng ta sẽ khẳng định được tài năng phong phú, đa dạng và vị trí tầm cỡ của Xuân Diệu trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ XX. 7 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Nhiệm vụ của luận văn là tìm hiểu một cách hệ thống, tương đối toàn diện, đưa ra nhận xét, đánh giá về những thành tựu trong sự nghiệp phê bình, nghiên cứu văn học trung đại của Xuân Diệu qua cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Để đạt được nhiệm vụ trên, chúng ta sẽ có sự so sánh, đối chiếu với một số nhà phê bình văn học tiêu biêu cùng thời để bước đầu phát hiện những nét nổi bật và phong cách nghệ thuật phê bình Xuân Diệu. Từ đó, ta khẳng định vị trí và đóng góp lớn lao của ông trong lĩnh vực sáng tạo này nói riêng và trong nền văn học nước ra nói chung. 3. Phương pháp nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu 3.1. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, luận văn kết hợp vận dụng các phương pháp sau : - Phương pháp phân tích tác phẩm văn học. - Phương pháp so sánh văn học. - Phương pháp tập hợp, thống kê, phân loại - Phương pháp lịch sử. - Phương pháp tiếp cận hệ thống. - Phương pháp liên ngành. 3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Sự nghiệp phê bình văn học trung đại của Xuân Diệu rất phong phú. Luận văn chỉ tập trung chỉ ra những đóng góp về mặt nội dung tư tưởng cũng như về giá trị nghệ thuật để từ đó làm nổi bật phong cách phê bình của Xuân Diệu qua cuốn sách Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Trong tác phẩm này, rất nhiều gương mặt các tác giả cổ điển Việt Nam đã được nhắc tới, do khuôn khổ của luận văn nên chúng tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại của một số tác giả tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… 8 4. Giới thiệu sơ lược cấu trúc luận văn: Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn của chúng tôi gồm hai chương sau đây : Chương 1: Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu Chương 2: Đánh giá về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của Xuân Diệu với các tác giả, tác phẩm văn học trung đại Việt Nam (qua Các nhà thơ cổ điển Việt Nam) 9 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Sự vận động trong quan niệm về thơ và phê bình thơ của Xuân Diệu 1.1 Quan niệm của Xuân Diệu về thơ Sở dĩ nói quan niệm văn học của Xuân Diệu trước hết và chủ yếu là quan niệm về thơ vì thơ chính là đối tượng xuyên suốt hoạt động phê bình nghiên cứu của ông. 1.1.1. Thơ trước hết là cuộc sống, cuộc sống trần thế nơi trần tục này Với Xuân Diệu, quan niệm bao trùm thơ đó là sự sống. Quan niệm này chi phối cả cuộc đời lao động sáng tạo của ông. Nó không chỉ nhấn mạnh đến tầm quan trọng và mối quan hệ hữu cơ giữa thơ với cuộc sống mà còn có tác dụng phê phán những quan niệm thần bí, thoát ly và dung tục hóa thơ. Với ông, chân lý cuối cùng, chân lý cao nhất, suy đến cùng vẫn là cuộc sống. Chân lý thứ hai mới là chân lý nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm thơ ở ngôn ngữ, hình ảnh, nhịp điệu, từ ngữ, âm thanh...Trước Cách mạng, tuy nhiều lúc Xuân Diệu cảm thấy: “Rợn ở trong hồn một luồng gió heo may lạnh toát”. Hay: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt” (Vội vàng) Nhưng nỗi buồn và sự cô đơn đó xét ở chiều sâu của vấn đề lại là do quá yêu mê cuộc sống. Yêu đến mức đắm say ngấu nghiến, cuồng nhiệt nên Xuân Diệu luôn có cảm giác e sợ, phấp phỏng. Vì: “Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian; 10 Nói làm chi răng xuân vẫn tuần hoàn, Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.” (Vội vàng) Mặc dù là một nhà thơ lãng mạn, luôn say đắm trong tình yêu, thoáng qua, tưởng là thơ thoát ly hiện thực nhưng trái lại đó chính là niềm khát khao giao cảm với đời của Xuân Diệu. Trong thơ ông không thiếu những vần thơ thể hiện rõ quan niệm về mối quan hệ máu thịt giữa nhà thơ với cuộc đời hay cuộc đời với nhà thơ: “Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm.” (Cảm xúc) Hay: “Kẻ đựng trái tim trìu máu đất Hai tay chín móng bám vào đời.” Khái quát hơn, Xuân Diệu quan niệm bản chất của thơ “là sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo” hay nói cách khác, từ hiện thực cuộc sống, thông qua tâm hồn trí tuệ, biết lọc lấy tinh chất và “đóng con dấu riêng” của cá tính sáng tạo và tác phẩm là những khía cạnh thuộc bản chất của thơ. Khi quan niệm về nhà thơ, Xuân Diệu cho rằng làm thi sĩ là một cuộc đấu tranh, một sướng vui trong gian khổ. Người làm thơ không thể không trải qua một sự “rèn luyện cật lực”, phải chân thực đừng mượn hơi người khác thổi cái bong bóng của mình. 11 Nhà thơ còn phải có tài, có vốn sống sâu rộng có bản lĩnh, phải biết hy sinh cho thi phẩm của mình. Ông khẳng định: “Tôi sáng tác vậy thì tôi tồn tại”, hồn vía của nhà thơ là ở cây bút và tác phẩm. Với Xuân Diệu, ngay từ thời Thơ thơ và Gửi hương cho gió đến sau này Tôi giầu đôi mắt, Hồn tôi đôi cánh, Thanh ca... ta thấy quan niệm về thơ của ông thường thì luôn có sự nhất quán. Khi đã ở tuổi sáu mươi, bản thân Xuân Diệu đã nói một cách tổng hợp về đời thơ và quan niệm làm thơ của mình: “Tôi muốn nói rằng tôi là cũ và tôi là hiện đại, và cả hai phương pháp sáng tác, hai “hồn thơ”, hai giai đoạn lịch sử của nước tôi hòa lẫn trong tôi... Tôi không chút nào từ bỏ các sáng tác về nước mình... Tôi tìm thấy hạnh phúc giàu có hơn, sáng tạo hơn trong khi ở với cha tôi là Nhân dân và mẹ tôi là Tổ quốc”. Ở đây chúng ta có thể đối sánh quan niệm của Xuân Diệu và của Chế Lan Viên về thơ. Quan niệm về thơ của Chế Lan Viên phức tạp, khúc khuỷu hơn. Nếu như Xuân Diệu quan niệm thơ luôn phải là tiếng nói của tình cảm và sự nghiệp thơ ông cũng đã chứng minh điều đó, thì Chế Lan Viên dường như lại quan niệm thơ là tiếng nói của trí tuệ. Từ trí tuệ mà tác động đến trái tim. Trong quy trình sáng tạo thơ, theo Xuân Diệu cái chính không phải là vấn đề kỹ thuật mà cái chính phải là ở chất cảm xúc. Nhưng nói như thế không có nghĩa là ông không coi trọng kỹ thuật làm thơ. Trái lại, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ có quan niệm hết sức nghiêm túc, công phu, tỷ mỷ và sâu sắc về nghề thơ, “công việc bếp núc” của nhà thơ. Tất cả những điều đó để đi đến một quan niệm có tính chất then chốt, điểm đến cuối cùng, hay điểm hội tụ các quan niệm về thơ của ông. Đó là chất lượng của thơ. Xuân Diệu quan niệm một bài thơ hay cũng cho biết được cả một tác giả, hay “tính sổ xong, cái còn lại của các nhà thơ là những bài thơ hay”. Ông quan niệm thơ hay là “một vấn đề quan trọng, một vấn đề nền tảng”. Việc ông khẳng định thơ hay và phê phán thơ dở là làm tăng mỹ cảm cho người đọc, góp phần nâng cao chất lượng thơ. Tóm 12 lại, với Xuân Diệu, quan niệm nhất quán, bao trùm: Thơ là sự sống tươi trẻ, say mê, nồng ấm; thơ là sản phẩm của cảm xúc, của trí tuệ, là tinh chất cuộc đời. Thơ là cuộc sống mà “Đã là cuộc sống, thì chẳng bao giờ chán nản”. Xuân Diệu càng quan tâm đến vấn đề chất sống, chất đời trong thơ bao nhiêu, Xuân Diệu càng đề cao tính chân thật của tác phẩm nghệ thuật bấy nhiêu. Rất nhiều lần trong các bài nói chuyện, trong các công trình tiểu luận phê bình, Xuân Diệu vẫn hằng như một yêu cầu thường trục: “Thơ phải: Chân, chân, chân thật, thật, thật!” Với ông, “thật” là sự có thật ở trong đời, ở trong sự sống; “chân” là tính có thật ở trong lòng người, tâm hồn người. Tính chân thật của thơ nói riêng và văn học nói chung là sự biểu hiện sự kết hợp hữu cơ giữa khách quan và chủ quan, giữa sự am tường đời sống và một “nội tâm rất đầy” của nhà thơ, hay giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Đối với Xuân Diệu, “cái giả” là một thứ hiểm hoạ và ông đã tuyên chiến với nó như tuyên chiến với cái xấu, cái ác, “phải ghét cái giả như ghét rắn độc, thấy nó là phải triệt”. 1.1.2. Thơ là trái tim chân thật, là qui luật tình cảm. Thơ vốn là thể loại thiên về phía bộc lộ cảm xúc, tình cảm. « Thơ còn là thơ nữa » là cách nói của Xuân Diệu về quy luật của nghệ thuật, quy luật của tác phẩm, cụ thể hơn là những đặc trưng của thơ, bí quyết của thơ« đức tính thơ ». Xuân Diệu quan niệm nhà thơ lớn là nhà thơ nắm bắt được sâu sắc nhất qui luật của trái tim, con đường ngắn nhất để thơ đến với người đọc là con đường thẳng trực tiếp từ trái tim đến trái tim. Cho nên “đức tính” trước tiên của tác phẩm thơ cũng như của nhiều tác phẩm nghệ 13 thuật khác là “sự cộng thêm vào thực tại một tâm hồn, một trí tuệ, một tình cảm, một sáng tạo”. Xuân Diệu cho rằng đây là một vấn đề khá tinh vi, “tất cả chất liệu trong cuộc sồng đều có khả năng hoá thành thơ, nhưng không phải cái gì cũng ôtômatích ra thơ” cả. Kế thừa và phát huy những quan niệm của thơ ca truyền thống dân tộc, Xuân Diệu cũng hết sức đề cao vai trò của tình cảm trong thơ. Xuân Diệu muốn qua đó để làm nổi bật “cái mà người ta đòi hỏi hơn cả ở văn học và đặc biệt là ở thơ, ở nhà thơ là dù nói đến người, đến vật, đến việc cũng phải tràn trề tình cảm”. Thơ văn hay đối với Xuân Diệu bao giờ cũng ra đời trong nỗi niềm “đầy rẫy cảm xúc” như thế; nó là “quy luật của trái tim”. Nhà thơ lớn, theo Xuân Diệu là người “nắm bắt sâu sắc nhất những quy luật của trái tim con người”. Cùng quy luật với tình cảm, Xuân Diệu luôn có ý thức khẳng định quy luật thẩm mĩ như một phẩm chất đặc trưng của “đức tính thơ” : ”Không có giá trị thẩm mĩ, thì bất thành tác phẩm nghệ thuật”. Trong cuộc đời, cũng như trong nghệ thuật hình như bao giờ Xuân Diệu cũng muốn đến với mọị người, muốn làm sao cho mọi người hiểu mình và diễn đạt làm sao để những điều cao sâu nhất cũng vẫn dễ hiểu với nhiều người. Có lẽ đây là một điểm khác nhau trong quan niệm về thơ giữa Xuân Diệu và Chế Lan Viên. Một bên thiên về cảm xúc trực tiếp, một bên thiên về trí tuệ; một bên suốt đời làm quán để “tha hồ muôn khách đến”, để “lắng nghe, dò xét tâm lí của con người, để mà bắt chộp cho được những trạng thái dặc biệt của tâm hồn, những thoáng run rẩy của nội tâm”. Một bên suốt đời đi tìm ‘hương sắc lạ”, hướng về vẻ đẹp thơ gắn với cái đột biến, cái bất ngờ. Cũng từ sự khác nhau ấy, mỗi nhà thơ đã mở ra một 14 hướng thơ và tự làm nên những phong cách lớn trong nền thơ và nền phê bình văn học Việt Nam hiện đại. Là trái tim chân thật, Xuân Diệu đòi hỏi văn học nghệ thuật không được giả dối một tí nào. Đối với thơ, ông lại càng yêu cầu một cách riết róng, quyết liệt. Xuân Diệu chấp nhận có thơ hay, thơ khá, thơ thường, thơ kém, thơ dở, thơ thành công nhiều ít hoặc thơ không thành công chứ nhất định đừng có thơ giả, cũng như “là vàng, là bạc, là đồng, là thiếc hay là chì, chứ nhất định đừng là vàng giả”. Xuân Diệu coi đó là điều căn bản trước nhất vì đó không chỉ là chuyện văn chương mà còn thể hiện cả nhân cách người cầm bút. Không phủ nhận thơ là một nghề, hiểu rất rõ “nghề thơ cũng lắm công phu”, nhưng Xuân Diệu không bao giờ coi cái tài, cái khéo là quyết định tất cả… Cần phải “có hồn để sai khiến kĩ xảo”, cần phải có mạch đập trái tim sau từng con chữ thì thơ mới đi vào được cõi lớn rộng, dài lâu. Muốn vậy, người làm thơ phải sống thật, yêu thật, phải hiểu việc đời, việc người vô cùng sâu sắc, còn “sống cạn như đĩa đèn” thì làm sao mà có thơ hay được. 1.2. Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình thơ 1.2.1. Phương pháp phê bình nghiên cứu của Xuân Diệu Phê bình có thể được nhìn như một phương tiện tập hợp vô số các văn bản và các hình thức diễn ngôn khác nhau vào một thế giới chung nhất có tên là văn học. Trong chiều hướng này, người ta cũng có thể nói, như cách tóm tắt của Roger Webster: "Văn học có thể được nhìn như là sản phẩm của phê bình và lệ thuộc vào phê bình hơn là ngược lại”. Nhà phê bình là kẻ đi tìm kiếm, mở rộng hoặc nâng cao các quy phạm chứ không phải là kẻ bảo vệ các quy phạm. Một trong những nghịch lý lớn 15 làm nên bản chất của phê bình là, một mặt, nó không thể không căn cứ trên một quan điểm thẩm mỹ nhất định nào đó, nhưng mặt khác, nó lại không được quyền trực tiếp nhân danh quan điểm thẩm mỹ ấy để tiến hành việc phê bình. Nhà phê bình sẽ trở thành một kẻ nô lệ nếu xem một quan điểm thẩm mỹ nào đó như một chân lý có sẵn và bất biến, một thứ thước đo vượt thời gian và vượt không gian như một số người thường nói. Ba chức năng phát hiện cái đẹp, quy phạm hoá cái đẹp và phủ định một số những quy phạm hiện có thường gắn liền chặt chẽ với nhau và cùng tồn tại trong mọi thời đại. Tuy nhiên, tuỳ từng lúc, trong những điều kiện văn hoá đặc thù nào đó, một trong ba chức năng ấy sẽ được xem là quan trọng hàng đầu. Phê bình, từ chức năng thứ nhất, tập trung vào những đối tượng cụ thể: một tác phẩm, một tác giả hoặc một trào lưu. Nội dung chính của chức năng này là một phán đoán thẩm mỹ. Ở đây điều kiện quan trọng hàng đầu nơi một nhà phê bình là khả năng biện biệt cái hay và cái dở. Trước hết, với Xuân Diệu, mỗi tác phẩm văn học nói chung, mỗi tập thơ nói riêng "là một cơ thể, một sinh vật", "một tác giả, một con người", do đó "khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông, thấu hiểu". Nghĩa là Xuân Diệu đã khẳng định sự cần thiết của khen, chê trong phê bình văn học. Bởi vì, theo ông, chê thơ mà không đúng thì rất có hại, sẽ làm nản người viết; nhưng khen thơ không đúng thì cũng rất có hại vì khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không tốt, ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự chân thật, sự thật thà. Như vậy, khen, chê một cách xác đáng, phê bình mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác. Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi cũng chính là ở chỗ này. Bởi lẽ, thái độ khen chê ấy không chỉ nói lên trình độ, tài năng, bản lĩnh mà còn 16 thể hiện cả đạo đức của nhà phê bình. Dù muốn hay không thì phê bình cũng phải lựa chọn và đánh giá. Vốn đã từng tham gia giám khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là Chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấu hiểu cái khó khăn của công việc này. Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là "nhà luật pháp" đầy uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến việc khen, chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm. Ý kiến của Xuân Diệu có lúc, có khi không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy. Ở những mức độ khác nhau, cả người đọc và người được phê bình đều đón nhận. Tuy nhiên, để phê bình thực sự thuyết phục, Xuân Diệu rất coi trọng niềm thông cảm, thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác. Xuân Diệu còn nhấn mạnh và giải thích rõ hơn, thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn cần phải thấu hiểu cả phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính của một nhà thơ. Mặt khác, như trên đã nói, mỗi tác phẩm là "một cơ thể", "một sinh vật", "một tác giả", "một con người” cũng có nghĩa là, ở trên đời không có những nhà thơ trừu tượng, mà chỉ có những nhà thơ cụ thể, bằng xương bằng thịt, làm thơ trong một hoàn cảnh xã hội, gia đình, sức khoẻ cụ thể, trong một thời gian cụ thể của đời mình, tức là "một thi sĩ sống làm thơ, chứ không phải một thi sĩ trong óc người phê bình". Phê bình sở dĩ trở thành người bạn đường thường xuyên của văn học và không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu. Muốn làm được vai trò ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác giả, tác phẩm và những kiến thức cần thiết khác. Cũng theo Xuân Diệu, một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự 17 thấu hiểu, sự cảm thấu. Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba, nghĩa là sự sống tự nhân đến mức cao, là khám phá thấy loài người ở trong một bản thân mình. Vì thế, cần phải xác định, phê bình không phải là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình, mà nhiệm vụ chính của nhà phê bình trong quan niệm của Xuân Diệu là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ". Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ của dân tộc, Xuân Diệu luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình. Ông tra cứu, suy ngẫm từng bài thơ, ông gắn hoàn cảnh sáng tác với hoàn cảnh sống khi chưa có hướng đời của tác giả để cắt nghĩa một cách thấu đáo vẻ đẹp của nỗi buồn đau trong thơ ca xưa. Vậy là, "đọc" có nghĩa là "sống" với tác giả, tác phẩm. Sinh thời, trong phê bình, Xuân Diệu rất coi trọng việc đọc, đọc nhiều lần, nhiều cách để được cảm thấu bằng nhiều giác quan. Phê bình văn học nói chung và bình luận thơ nói riêng còn thuộc phạm trù thẩm mỹ, phạm trù cái "gout", phạm trù khiếu thưởng thức. Nhà phê bình, người đọc thơ... có sở thích riêng của mình, còn người thi sĩ thì làm thơ với tư tưởng, tình cảm và với cả những tế bào của họ, không thể bảo anh ta đừng làm thơ với những tế bào riêng của anh ấy. Xuân Diệu phân tích cặn kẽ và cho rằng, đây là những vấn đề rất tinh diệu và cũng rất tế nhị. Nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, một nhận thức chung, nếu không thực sự tôn trọng cá tính của nhau và thông cảm với nhau vì một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ. Chính vì vậy, nhà phê bình không chỉ cần có lập trường quan điểm, vốn kiến thức, vốn hiểu biết nghề nghiệp kỹ thuật lao động thơ ca, mà còn phải có cái linh cảm của người nghệ sĩ chân chính, mới cảm được "cái hồn" toát ra từ tác phẩm; tức là phải có cái "linh nhãn" để "con mắt anh sắc hơn dao"; và theo ý Xuân Diệu, "con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc". Chỉ có như vậy, người phê bình mới tránh được bệnh hẹp hòi, mới vừa bộc lộ được cái 18 "tạng" riêng của mình mà vẫn vượt qua được cái mình không được thích lắm, để phát hiện, biểu dương cái đẹp, cái khác lạ cùng với những ưu tú của một tập thơ, một thi sĩ. Xuân Diệu biểu đạt ý tưởng này trong niềm đầy cảm hiểu của người sáng tạo: "Ta hãy khoan quy kết. Cái người lặn mò ở trong biển thực tại ra một con sò không thông thường quen mắt, người đó đã ở trong một cái thế chênh vênh rồi. Muốn cầu an, người đó có thể ném cái con sò hiện tượng kia xuống biển trở lại; nhưng vì yêu chân lý, muốn mở rộng tầm hiểu biết chung, người ấy đưa ra trình bày. Nếu chúng ta vội quy kết thì sẽ làm cho bao nhiêu người khác coi cái việc gặp những con sò lạ (chỉ lạ lúc đầu) là một cái tai vạ". Ở đây, dường như có sự gặp gỡ giữa Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn kiệt xuất và Nam Cao - nhà văn hiện thực sắc sảo nhất của nước ta, trong khát vọng "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa ai có" (Đời thừa). Phê bình văn học, ở một góc độ nào đó, phải cùng chung khát vọng ấy mới thực sự là "người môi giới", là “bà đỡ” cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ. Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng không được "cầu an", phải "cải tạo cái lưỡi của mình" mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Quy luật lao động sáng tạo của con người bao gồm cả quy luật lao động nghệ thuật, là bao giờ cũng hướng tới cái đẹp. Thơ vốn là tinh chất, là cái "nhụy" của đời sống, lại càng hướng tới sự biểu hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm con người. Vốn là nhà thơ lớn của niềm khát vọng "vô biên" và "tuyệt đích", trong phê bình, Xuân Diệu muốn hướng người đọc tới cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ, tức là vẻ đẹp kết hợp hài hoà giữa 19 giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung trong tác phẩm. Đó cũng là cái bản lĩnh, bản sắc của tâm hồn và cuộc đời thi sĩ được biểu hiện qua văn chương của họ. Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu rất tâm đắc, mến phục nhà phê bình nổi tiếng của văn học Trung Quốc - Kim Thánh Thán (19501648). Phải chăng, Xuân Diệu đã bắt gặp ở đây quan niệm phê bình văn học gần gũi với chính mình. Phê bình dù đề cập đến xưa hay nay, đều không phải chỉ trả lời những vấn đề của quá khứ hoặc hiện tại mà còn là câu chuyện "tấc lòng" gửi đến mai sau; trong cái mục đích phục vụ vì mọi người, còn có cả "vì chính mình", vì "mình muốn làm duyên với người đời sau", muốn buộc người đời sau phải nhớ đến tên tuổi của mình. Rõ ràng với ý thức như vậy, phê bình văn học sẽ là nỗi niềm canh cánh bên lòng, là một nhu cầu của nội tâm; sẽ không đơn thuần lý lẽ mà tràn đầy cảm hứng. Nó xa lạ với thứ phê bình máy móc, áp đặt vì những mục đích ngoài văn học. Với Xuân Diệu, phê bình nghiên cứu văn học có hai mục đích: Một là, để đưa thơ đến cho đại chúng, cho mọi người; hai là để “huýt nhụy mật” cho mình. Vì thế Xuân Diệu rất coi trọng mối quan hệ giữa công chúng và nhà thơ, quan niệm về phê bình của Xuân Diệu là “khen chê chưa quan trọng bằng cảm thông và thấu hiểu”, nhiệm vụ của phê bình là phát hiện cho được cái hay, cái tuyệt vời, hoàn mỹ mà chúng ta cần phải vươn tới để nâng cao trình độ thẩm mĩ cho người đọc. Thành tựu phê bình nghiên cứu văn học lớn về khối lượng và xuất sắc về chất lượng, cũng nói rằng Xuân Diệu đã sử dụng một hệ thống phương pháp có hiệu quả. Chúng ta có thể thống kê một số phương pháp chính sau: 1.2.1.1. Phương pháp “mắt xanh điểm huyệt vào chất văn” Là nhà thơ của “tôi giàu đôi mắt”, của “cái nhìn”, Xuân Diệu rất hay nói đến “mắt xanh”. Trong quan niệm của Xuân Diệu “đôi mắt là cái giác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan