Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn điển cố trong thơ ca phật giáo thời lý trần...

Tài liệu Luận văn điển cố trong thơ ca phật giáo thời lý trần

.PDF
161
104
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---***--- NGUYỄN ĐÀO NGUYÊN ĐIỂN CỐ TRONG THƠ CA PHẬT GIÁO THỜI LÝ TRẦN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC 140tr, bìa mận chín, 6 quyển HÀ NỘI - 2011 LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Ban chủ nhiệm Khoa Tâm lý học và toàn thể các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Hoàng Mộc Lan đã dành nhiều thời gian, tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn này. Cuối cũng, tôi cũng cảm ơn bạn bè, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi về thời gian, ủng hộ tôi trong suốt tiến trình học tập và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 30 tháng 06 năm 2011 Tác giả Tạ Thị Hằng BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ viết tắt Xin đọc là ĐHKHTN Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHKHXH&NV Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn QHTD Quan hệ tình dục QHTDTHN Quan hệ tình dục trước hôn nhân LTQĐTD Lây truyền quan đường tình dục TNCS Thanh niên cộng sản NXB Nhà xuất bản SD Độ lệch chuẩn ĐTB Điểm trung bình P Mức ý nghĩa X2 Hệ số tương quan AIDS Acquired Immune Deficiency Syndrom (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải) HIV Human Immune Deficiency Virus (Siêu vi khuẩn gây suy giảm miễn dịch ở người) DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Đặc điểm của khách thể. Bảng 3.1: Các nguồn thông tin của sinh viên về QHTDTHN. Bảng 3.2: Sinh viên xem phim ảnh, sách báo khiêu dâm. Bảng 3.3: Nhận thức của sinh viên về bệnh LTQĐTD và HIV-AIDS. Bảng 3.4: Đánh giá của sinh viên về kiến thức sức khỏe sinh sản của bản thân. Bảng 3.5: Nhận thức của sinh viên về mối quan hệ giữa tình yêu và tình dục. Bảng 3.6 : Sinh viên hiểu về quan hệ tình dục. Bảng 3.7: Nhận thức của sinh viên về QHTD trước khi hứa hôn. Bảng 3.8: Nhận thức về QHTD sau khi hứa hôn. Bảng 3.9: Nhận thức của sinh viên về QHTDTHN đối với nam. Bảng 3.10: Nhận thức của sinh viên về QHTDTHN đối với nữ. Bảng 3.11: Nhận thức của sinh viên về đạo đức của nữ giới. Bảng 3.12: Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết lên án của xã hội đối với QHTDTHN. Bảng 3.13: Nhận thức về nhóm có QHTDTHN trong sinh viên. Bảng 3.14: Đối tượng QHTDTHN. Bảng 3.15: Nhận thức về biện pháp tránh thai trong QHTDTHN của sinh viên. Bảng 3.16: Nhận thức của sinh viên về một số đặc điểm của sinh viên nam có QHTDTHN. Bảng 3.17: Nhận thức của sinh viên về một số đặc điểm của sinh viên nữ có QHTDTHN. Bảng 3.18: Biểu hiện nhu cầu của QHTDTHN. Bảng 3.19: Hoàn cảnh QHTDTHN của sinh viên. Bảng 3.20: Địa điểm tiến hành QHTD của sinh viên. Bảng 3.21: Lựa chọn của sinh viên khi QHTDTHN dẫn đến mang thai. Bảng 3.22: Nguyên nhân sinh viên không QHTDTHN. Bảng 3.23: Nguyên nhân khách quan QHTTHN của sinh viên. Bảng 3.24: Nguyên nhân chủ quan QHTDTHN. Bảng 3.25: Nhận thức của sinh viên về hậu quả QHTDTHN. Bảng 3.26: Những cảm xúc của QHTDTHN theo đánh giá của sinh viên. Biểu đồ 3.5: Thái độ của sinh viên đối với người yêu có QHTDTHN với người khác. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1: Đánh giá của sinh viên về mức độ hiểu biết tình dục của thanh niên. Biểu đồ 3.2: Nhận thức của sinh viên về trinh tiết của người yêu trước khi kết hôn. Biểu đồ 3.3: Lý do sinh viên không dùng biện pháp tránh thai khi QHTD lần đầu tiên. Biểu đồ 3.4: Thái độ của sinh viên với bạn bè có QHTDTHN. Biểu đồ 3.5: Thái độ của sinh viên đối với người yêu có QHTDTHN với người khác MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................ 4 1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân của thanh niên ...................................................................................................................... 4 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh niên ở nước ngoài. ..................................................................... 4 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh niên ở trong nước. ..................................................................... 6 1.2. Một số khái niệm cơ bản ........................................................................... 10 1.2.1. Nhận thức .......................................................................................... 10 1.2.2. Sinh viên ........................................................................................... 14 1.2.3. Quan hệ tình dục................................................................................ 19 1.2.4. Quan hệ tình dục trước hôn nhân ....................................................... 25 1.2.5. Nhận thức về quan hệ tình dục trước hôn nhân .................................. 30 CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ..................................................... 36 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................................... 36 2.1. Nghiên cứu lý luận ..................................................................................... 36 2.2. Nghiên cứu thực tiễn.................................................................................. 36 2.2.1. Mẫu nghiên cứu ................................................................................. 36 2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu ............................................................. 39 2.2.3. Các giai đoạn nghiên cứu ................................................................... 42 CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................ 43 3.1. Nhận thức của sinh viên về QHTDTHN ................................................... 43 3.1.1. Các nguồn thông tin của sinh viên về QHTDTHN ............................. 43 3.1.2. Nhận thức của sinh viên về mối quan hệ tình yêu và tình dục ............ 50 3.1.3. Nhận thức của sinh viên về thực trạng QHTDTHN ............................ 63 3.2. Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân và hậu quả QHTDTHN. ........ 79 3.2.1. Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân QHTDTHN ....................... 79 3.2.2. Nhận thức của sinh viên về hậu quả QHTDTHN ............................... 90 3.3. Cảm xúc và thái độ của sinh viên về QHTDTHN .................................... 92 3.3.1. Cảm xúc sau khi QHTDTHN ............................................................. 92 3.3.2. Thái độ của sinh viên đối với bạn bè và người yêu có QHTDTHN .... 95 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................ 100 1. KẾT LUẬN ................................................................................................. 100 2. KIẾN NGHỊ ................................................................................................ 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 106 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, do tác động của nền kinh tế thị trường, sự phát triển vượt bậc của Kinh tế - Văn hoá – Chính trị đặc biệt là sự phát triển vượt bậc của ngành công nghệ thông tin đã đem lại những thành tựu đáng ghi nhận cho nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu ấy chúng ta phải đối diện với mặt trái của nó đó là sự du nhập của nhiều quan niệm, khuynh hướng phát triển khác nhau từ Phương Tây. Các vấn đề xung quanh lối sống của thanh niên đang được nhiều nhà nghiên cứu, các nhà giáo dục quan tâm, xem xét. Xã hội có nhiều sự biến đổi theo hướng hiện đại đòi hỏi thế hệ trẻ cũng phải thay đổi để thích ứng được với sự biến đổi đó. Những quan điểm, lối sống, thái độ của giới trẻ đã thay đổi rất nhiều so với lối sống truyền thống. Những cái mới đã xuất hiện, len lỏi vào đời sống của con người. Thậm chí những quan điểm, lối sống mới du nhập, đan xen ngay cả khi những cái cũ vẫn còn đang tồn tại, tạo ra những mâu thuẫn trong lòng con người. Trong thời buổi hiện nay, những quan điểm về quan hệ nam nữ, tình yêu, hôn nhân và gia đình đã có nhiều sự thay đổi. Dường như mọi cái không còn khắt khe như trước, không phải chịu nhiều quy định, lễ giáo như trước, mọi người có thể tự do, thoải mái hơn trong các mối quan hệ. Đó cũng là một lý do khiến cho các giá trị bị bào mòn và mất đi, không còn được tôn trọng và giữ gìn như trước. Thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi học sinh, sinh viên, đang có những cách nhìn nhận sai lệch về sự hiện đại của những lối sống mới. Đây cũng là nhóm dễ chịu sự ảnh hưởng, tác động của những biến đổi nhất định. Hiện nay, do có sự biến đổi nhanh chóng về nhận thức và tư duy dẫn đến việc nảy sinh nhiều hiện tượng ở giới trẻ như: Sống thử, quan hệ tình dục trước hôn nhân, hiện tượng nạo phá thai… Quan hệ tình dục của học sinh, sinh viên hiện nay đang có xu hướng gia tăng và trở thành vấn đề được xã hội hết sức quan tâm bởi những hậu quả mà nó gây ra cho một bộ phận không nhỏ sinh viên. Một thực tế đang được chứng minh, đó là giới trẻ hiện nay quan hệ tình dục khá sớm, có khi chỉ ở độ tuổi 15 - 16, các em đã rất “sành điệu” trong lĩnh vực này. Quan hệ tình dục sớm dẫn đến cuộc sống không an toàn, bỏ học, khép mình, dễ buồn chán, lo lắng, bất an, sức khỏe suy giảm, hung 1 bạo, có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai, vô sinh… Đó là những hậu quả không tốt để bản thân mỗi người bước vào ngưỡng cửa cuộc đời. Những tác động khách quan bên ngoài của đời sống xã hội là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều sinh viên sớm có quan hệ tình dục với bạn khác giới. Ảnh hưởng từ sách báo, phim ảnh và nhất là internet có nội dung đồi trụy đối với mọi người là rất lớn. Việc xem những cảnh phim “nóng” không còn lén lút như trước mà có thể xem công khai trên các website. Công tác giáo dục giới tính vào trong nhà trường còn thiếu về sức khoẻ sinh sản của thanh thiếu niên. Như vậy, quan hệ tình dục trước hôn nhân đang là vấn đề cần được quan tâm, xem xét vì nó dẫn tới gia tăng hiện tượng có thai ngoài ý muốn và nạo phá thai, ảnh hưởng đến sức khoẻ thể chất, gây ra lo âu, tổn thương tinh thần của thanh niên. Những thông tin thu được từ việc tìm hiểu nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân sẽ giúp nâng cao sự hiểu biết của họ về tình dục, giúp họ lựa chọn lối sống lành mạnh trong tình yêu và có biện pháp phòng tránh các nguy cơ quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đồng thời, kết quả nghiên cứu góp phần bổ sung về lý luận nhận thức của lứa tuổi thanh niên, sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân” để làm đề tài luận văn cho mình. 2. Mục đích nghiên cứu - Phát hiện thực trạng nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. - Đề xuất những kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức, giúp sinh viên lựa chọn lối sống lành mạnh trong tình yêu, biết cách phòng tránh QHTDTHN. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. 3.2. Khách thể nghiên cứu - Khách thể là 368 người bao gồm - Trường ĐHKHXH&NV (184 sinh viên) bao gồm: Khoa Tâm lý học (92 sinh viên), Khoa Du lịch (92 sinh viên). - Trường ĐHKHTN (184 sinh viên) bao gồm: Khoa Môi trường (92 sinh viên), Khoa Toán tin (92 sinh viên). 2 + Trong 368 sinh viên có 184 khách thể là nam, 184 khách thể là nữ. Trong 368 sinh viên có 64 sinh viên đã QHTD. 4. Giả thuyết nghiên cứu - Quan hệ tình dục trước hôn nhân diễn ra tương đối phổ biến trong sinh viên. - Không có sự khác biệt trong nhận thức giữa sinh viên bốn năm học, giữa sinh viên nam và nữ. QHTDTHN ở nam giới cao hơn nữ giới. QHTDTHN chịu tác động của các đặc điểm cá nhân sinh viên và các yếu tố bên ngoài như gia đình, nhóm bạn bè, nhà trường và các phương tiện truyền thông. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về quan hệ tình dục. - Làm rõ các khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài: Nhận thức, quan hệ tình dục trước hôn nhân, sinh viên, hôn nhân. - Nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên về QHTDTHN và một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng này. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao nhận thức giúp sinh viên lựa chọn lối sống lành mạnh trong tình yêu, biết cách phòng tránh QHTDTHN. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Giới hạn phạm vi địa bàn: Quận Thanh Xuân – Hà Nội. - Giới hạn phạm vi nội dung: + Nghiên cứu thực trạng QHTDTHN ở sinh viên. + Nhận thức về QHTDTHN. + Nhận thức về biểu hiện tâm lý của thanh niên sinh viên có QHTDTHN. + Nhận thức về hậu quả QHTDTHN. + Nhận thức về các yếu tố tác động đến QHTDTHN. - Giới hạn phạm vi khách thể: Trong đề tài này chúng tôi nghiên cứu 368 sinh viên thuộc 2 Trường Đại học: Trường Đại học KHXH & NV, Trường Đại học KHTN. 7 . Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. - Phương pháp phỏng vấn sâu. - Phương pháp thống kê toán học. 3 CHƢƠNG 1: CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân của thanh niên Nguồn gốc của các nghiên cứu về hoạt động tình dục đã có từ xa xưa trong lịch sử văn mình của loài người. Có thể kể đến các tác phẩm thần thoại, truyền thuyết cổ đại và các khảo luận về tình yêu như “Kama – Sutra” của Ấn Độ, “Nghệ thuật yêu” của Ovidius, “Bữa tiệc” của Platon…không những đặt cơ sở các chuẩn mực về đạo đức và tôn giáo cho tình yêu mà còn cung cấp những kiến thức nhất định về sinh học và tâm lý học trong hoạt động tình dục. Việc nghiên cứu một cách khách quan các vấn đề tình dục chỉ thực sự được tiến hành ở thời kỳ Phục Hưng khi mà bộ môn giải phẫu sinh lý người bắt đầu phát triển. Phương diện đạo đức và giáo dục của tình dục đã được người ta nghiên cứu tới. Vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, các đề tài nghiên cứu được mở rộng. Các nhà xã hội học nửa cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 như J.J. Bachofen (Thụy Sĩ), J. Mac – Lenan (Anh), E. Westermack (Phần Lan), A. Espinas (Pháp), L.H. Morgan (Mỹ), X.M. Kovalevsky (Nga)…không những đã gắn sự phát triển quan hệ tình dục với các dạng hôn nhân, mà còn gắn với những yếu tố khác của chế độ xã hội và văn hoá. Tuy vậy, ngay đến giữa thế kỷ 20, các công trình nghiên cứu về tình dục vẫn còn vấp phải sự đối kháng của các nhà cầm quyền như ở Nga, Anh và kể cả ở Mỹ. Các cuộc điều tra tính dục lớn trong sinh viên hầu như đều gặp những trở ngại, điển hình như việc sáu nghìn bản điều tra do một uỷ ban dưới sự điều khiển của D.N.Zabanov và V.I. Iakovenko phân phát cho nữ sinh các trường đại học và cao đẳng ở Maxcơva, phần lớn đã bị cảnh sát tịch thu [17, tr 48]. Ngày nay, trước sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hoạt động tình dục đã được nghiên cứu phổ biến hơn và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, xuất phát từ những mục đích khác nhau. 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân của thanh niên ở nƣớc ngoài. Ở nước ngoài, ngay từ những năm 1930, giáo dục giới tính, giáo dục tính dục đã được đưa vào nhà trường. Hầu hết các nước châu Âu đều coi vấn đề QHTD thuộc quyền tự do cá nhân của mỗi người, và điều đó cần phải được tôn trọng. Khi nói đến 4 vấn đề QHTDTHN, điều mà các nước quan tâm trước nhất chính là vấn đề sức khoẻ chứ không phải là các chuẩn mực, định kiến của xã hội. Các nghiên cứu gần đây thường đề cập đến kiến thức, thái độ, hành vi tình dục của giới trẻ, các ảnh hưởng tác hại của QHTD sớm, hiểu biết và việc sử dụng các biện pháp tránh thai, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhu cầu cung cấp thông tin về lĩnh vực giới tính, tình dục cho giới trẻ…Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: - “Hành vi tình dục và sử dụng thuốc tránh thai trong độ tuổi 15 – 24 ở Uganda” – 1992 của Agyei W.K.A và Elizabeth J. Epema. - “Thái độ, hành vi tính dục và sử dụng thuốc tránh thai của nữ thanh niên ở Bangkok”-1996 của Amara Soonthorndhada. -“Tôn giáo, AIDS và kiến thức, thái độ, niềm tin và thói quen tình dục của sinh viên đại học năm thứ nhất ở Nam phi” – 1995 của Lionel Nicholas và Kevin Durrheim… Từ đó hầu như các nước phát triển đều coi giáo dục tính dục là một vấn đề lành mạnh, đem lại tự do cho con người, vì thế cần phải nói rõ cho mọi người hiểu biết những quy luật hoạt động tình dục. - Nghiên cứu “Giáo dục tình dục đạt tới sức khoẻ trong các trường công ở Mêxicô” – 1994 của Field Briefings, nhấn mạnh vai trò của việc giáo dục giới tính đối với sức khoẻ cộng đồng. - “Giáo dục giới tính: Những khái niệm và chương trình giảng dạy”- 1970 của John T.Burt và Linda Brower Meeks định hướng cho giáo dục giới tính và giáo dục tình dục trong nhà trường, đề cập chủ yếu đến giới tính, quan hệ giới tính, định hướng giá trị về tình dục. Ngoài ra còn có một số sách viết về đề tài có liên quan, qua đó các tác giả thể hiện quan điểm thái độ của mình. - Khi hai người yêu nhau thực sự và tự nguyện trao thân cho nhau, họ không có lỗi gì cả. Điều đó mang lại hạnh phúc cho cả hai, anh ấy và cô ấy. Nếu anh ấy thương yêu săn sóc cô ta, tại sao lại lên án họ. Bởi vậy bản thân hoạt động sinh lý không phải là xấu. Nó chỉ xấu và thiếu đạo đức khi là kết quả của những cuộc chia lìa, yêu đương phóng túng. Nó nặng nề cho kẻ chiến bại và không vinh quang cho kẻ 5 chiến thắng. Điều này thể hiện tác giả có thái độ chấp nhận QHTDTHN nếu như đó là kết quả của tình yêu mãnh liệt. - Cuốn sách “Đừng dại dột trong tình yêu” dày 275 trang của Dr. Laura Schlessinger – 1997 là những lời trò chuyện của một bác sĩ tâm lý học dành cho phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ đang yêu trong đó nhà Tâm lí học chỉ ra 10 điều nên tránh bao gồm những điều như: Sự dâng hiến dại dột, những quyết định mù quáng, sự thụ thai, sự khuất phục ngu ngốc. Tác giả cho thấy những yếu đuối, dại dột, sai lầm người phụ nữ thuờng mắc phải và từ đó họ tự làm hỏng cuộc đời của mình. Tác giả muốn người phụ nữ phải can đảm đối mặt với những yếu đuối hiện tại để rèn luyện trở nên mạnh mẽ và hạnh phúc trong tương lai. Như vậy, nếu như trước kia vấn đề tình dục dường như bị người ta kiêng kỵ, né tránh, coi nó như một cái gì đó rất xấu xa phàm tục thì ngày nay, với sự phát triển của khoa học, vấn đề tình dục đã được nghiên cứu một cách công khai trên các phương diện sinh lý, tâm lý và đạo đức. Tuy vậy, xoay quanh vấn đề QHTDTHN đã có những nhận thức, thái độ đánh giá khác nhau tuỳ theo góc độ và điều kiện khác nhau. Xã hội ngày nay đã có cách nhìn thoáng hơn về QHTDTHN, nhất là ở các nước Phương Tây, vấn đề tình dục trong tình yêu nam nữ gần như đã trở thành bình thường, và ngay cả ở nước ta cũng dần trở nên phổ biến. Nhưng nhìn chung, rất nhiều người, nhiều tác giả có thái độ không chấp nhận QHTDTHN vì những lý do như: chuẩn mực đạo đức, giữ gìn hạnh phúc trong hôn nhân sau này…và đặc biệt là vấn đề sức khoẻ đang được quan tâm hàng đầu. Ở Việt Nam hiện nay, giới trẻ thanh niên sinh viên dường như còn rất thờ ơ, chưa quan tâm đúng đắn đến những gì liên quan đến sức khoẻ tình dục của mình vì họ chưa nhận thức đầy đủ và hiểu biết còn rất mơ hồ. Mảng đề tài nhận thức nói chung và nhận thức về QHTDTHN của sinh viên cần phải được nghiên cứu thêm. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về quan hệ tình dục trƣớc hôn nhân của thanh niên ở trong nƣớc. Cho đến thời điểm này, nghiên cứu nhận thức về QHTDTHN hầu như rất ít. Các đề tài nghiên cứu về nhận thức của sinh viên thường hướng vào nghiên cứu nhận thức liên quan đến học tập, nghề nghiệp. 6 Riêng đối với việc nghiên cứu nhận thức của sinh viên về quan hệ tình dục trước hôn nhân còn rất ít, thường chỉ là một phần nhỏ trong các nghiên cứu xã hội học, tâm lý học. Do bị ảnh hưởng của một số quan niệm Á Đông nào đó, những vấn đề liên quan đến hoạt động tình dục, sức khoẻ tình dục, giáo dục giới tính theo đúng nghĩa của nó trước đây hầu như bị né tránh hoặc thả nổi hoặc lãng quên hoặc có đề cập đến nhưng rất sơ lược, qua loa. Từ đầu thập niên 90, hoà nhập vào chương trình của Quỹ Dân Số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) về vấn đề dân số, sức khoẻ sinh sản, Đảng và Nhà nước ta đã xem chiến lược dân số, giáo dục dân số là công tác thuộc chiến lược con người. Từ đó, những vấn đề liên quan đến nhận thức, thái độ, hành vi tính dục được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. + Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quý Thanh “Về hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân” trên sinh viên Hà Nội năm 1994 (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 1/1997) ghi nhận một tỷ lệ chấp nhận QHTDTHN lên đến 40 % trong đó khối sinh viên ngành khoa học xã hội chiếm tỉ lệ cao hơn sinh viên khối ngành khoa học tự nhiên (49,3% so với 34 %). Và nghiên cứu này cũng cho thấy tiêu chuẩn “chữ trinh” trong vấn đề chọn bạn đời được đặt sau những tiêu chuẩn khác như thông minh, khoẻ mạnh, hiền, đẹp, trung thực… + Nghiên cứu “Tình bạn, tình yêu và tình dục tuổi vị thành niên” của Nguyễn Linh Khiếu (Trung tâm nghiên cứu khoa học về Gia đình và Phụ nữ) năm 1998 cho thấy quan hệ tình dục vị thành niên nhìn chung là chưa phổ biến nhưng không phải là hiện tượng hiếm như trước đây. Ở nông thôn thì đa số rơi vào nhóm thôi học, ở thành phố thì mang tính phổ biến hơn và bước đầu đã có biểu hiện của QHTD lệch lạc. + Luận văn thạc sĩ khoa học y dược của tác giả Nguyễn Đăng Hanh “Nghiên cứu kiến thức, thái độ, hành vi tính dục của sinh viên lứa tuổi 18 – 24 chưa lập gia đình tại thành phố Hồ Chí Minh” năm 1999. Qua nghiên cứu này, kết quả đáng chú ý là sự tồn tại một thái độ khá cởi mở về mối QHTDTHN và tỷ lệ các sinh viên có tham gia vào QHTDTHN trong nghiên cứu này so với trước đây là cao hơn khá rõ. Tuổi tham gia hoạt động tình dục sớm nhất cho cả nam và nữ là 16 tuổi. 7 + Báo cáo “Vấn đề tình dục trong thanh thiếu niên” của Phạm Thị Nguyệt Lãng (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 2 – 1995) nêu lên một số hậu quả trong QHTD của thanh thiếu niên như: Nạo hút thai, phạm tội hiếp dâm của nam thanh thiếu niên, tình hình yêu đương ở tuổi học sinh, sinh viên. Sau đó đưa ra một số nguyên nhân và giải pháp cho tình trạng trên. Tuy nhiên chưa có số liệu để chứng minh cụ thể. + Nguyễn Quang Lập, Phạm Khắc Chương có bài viết “Quan hệ giới tính, tình dục đối với lớp trẻ - nỗi lo của gia đình và xã hội” (Tạp chí Khoa học về phụ nữ, số 4 – 1995) đã so sánh tuổi dậy thì trong cơ chế thị trường hiện nay với tuổi nữ thập tam, nam thập lục trước đây. Cuộc sống văn minh tiến bộ, khoa học kỹ thuật phát triển, kinh tế thị trường du nhập nền văn minh Âu Mỹ mới lạ vào, cùng với những yếu tố có mục đích hay tự giác đều làm tăng thêm nỗi bùng cháy quan hệ giới tính và ham muốn tình dục ở tuổi dậy thì nói riêng và ở giới trẻ nói chung. Đây là vấn đề nổi cộm làm nhiều quốc gia quan tâm lo ngại. Tác giả đã đưa ra một vài kiến nghị phải kiên quyết loại trừ văn hoá phẩm khiêu dâm kích dục. Cần phải tạo dư luận xã hội phê phán gay gắt hiện tượng QHTDTHN dù dưới bất kỳ hình thức nào. + “Hành vi tình dục ở tuổi vị thành niên”, báo cáo khoa học của Bác sĩ Huỳnh Thị Trong tại Hội thảo giới và sức khoẻ - 1997. Tác giả nêu lên kinh nghiệm nghiên cứu của bác sĩ ở Mỹ, đưa ra một vài lý thuyết về tỉ lệ hoạt động tình dục của thanh thiếu niên Mỹ. Đáng lưu ý, những thanh thiếu niên đã trải qua quá trình giáo dục tình dục ít có khả năng quan hệ tình dục hơn những người không được giáo dục tình dục (17% so với 26%). Sự giáo dục ở nhà thờ, bởi cha mẹ và xã hội là những yếu tố quyết định ảnh hưởng đến thanh thiếu niên nhiều hơn là nhà trường. Hầu hết thanh thiếu niên QHTD chỉ nghĩ đến hậu quả thai kỳ, không chú ý nhiều đến hậu quả các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong khi những bệnh đó vẫn tang nhanh chưa từng thấy. + Đặc biệt đáng chú ý còn có nghiên cứu “Tình yêu của chúng em không có giới hạn” (năm 2000), là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa Trung tâm Nghiên cứu Thông tin Tư liệu Dân số (CPSI) thuộc Uỷ ban Quốc gia Dân số Kế hoạch hoá Gia đình với trường Đại học Copenhagen, về những vấn đề liên quan tới nạo thai trước hôn nhân. Những kết quả chính của nghiên cứu là: 8 - Nhiều cô gái trẻ chưa lập gia đình đã có quan hệ tình dục, mà lại không sử dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả. - Thanh niên chưa lập gia đình không được giúp đỡ, hướng dẫn về các vấn đề liên quan đến tình dục và sinh sản. - Để thanh niên Việt Nam có khả năng tiếp cận quan hệ tình dục an toàn và có trách nhiệm mà họ cảm thấy đã đầy đủ điều kiện, thì cần phải có được thái độ tích cực hơn về mặt đạo lý đối với quan hệ tình dục. - Việc sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại không được khuyến khích do quan niệm đạo đức chiếm ưu thế hiện nay đối với vấn đề tình dục. - Các cô gái có nguy cơ gặp rủi ro do hoạt động tình dục trước hôn nhân gây ra nhiều hơn. + Tài liệu “Tổ chức Y Tế thế giới thúc đẩy việc giáo dục giới tính trong nhà trường nhằm ngăn chặn AIDS” của Tổ chức Y Tế thế giới (1998) đề cập đến mối quan hệ giữa thái độ đối với tình dục và việc lây nhiễm HIV. Theo kết quả của một cuộc thăm dò cho chương trình toàn cầu về AIDS của Tổ chức Y Tế thế giới tiến hành, việc giáo dục giới tính trong trường học không hề đưa đến hoạt động tình dục trước tuổi hay gia tăng hoạt động tình dục ở giới trẻ mà giúp cho họ tự bảo vệ mình không bị nhiễm HIV. Bác sĩ Merson nói: “Chúng ta có thể có một thay đổi thực sự và ngăn chặn đúng đường dây lây nhiễm HIV nếu chúng ta biết cởi mở và thẳng thắn về vấn đề này cho giới trẻ. Những quốc gia nào thẳng thắn nhất khi nói về tình dục thường có tỉ lệ sinh sản thấp nhất và số người có thai ở thanh thiếu niên cũng ít hơn…Việc phổ biến rộng khắp chương trình giáo dục giới tính sẽ góp phần rất lớn trong việc bảo vệ con em chúng ta khỏi nguy cơ nhiễm HIV hiện nay”. + Năm 1998, Trung tâm Tư vấn tình yêu – tình bạn – hôn nhân – gia đình đã tiến hành điều tra xã hội học về “Tình bạn – tình yêu – hôn nhân – gia đình” trong đó có một phần nghiên cứu về nhận thức của thanh niên về quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đề tài này đã rút ra được kết luận là: Trong điều kiện hiện nay, đã có một sự biến đổi trong nhận thức và thái độ của giới trẻ về QHTDTHN, biến đổi theo chiều hướng “thoáng” hơn, nhưng không phải họ hoàn toàn buông thả, nhận thức về 9 quan hệ tình dục trước hôn nhân còn chưa đầy đủ, các hiểu biết về giới tính và an toàn tình dục của họ còn hạn chế. + Ngô Đặng Minh Hằng và các cộng sự thuộc Viện nghiên cứu giáo dục Việt Nam đã “giới thiệu việc nghiên cứu đưa chương trình giáo dục đời sống gia đình vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông” trong chương trình VIE 88/P09. Tác giả đã trình bày một số lý luận của việc nghiên cứu để đưa giáo dục đời sống gia đình vào giảng dạy ở nhà trường. Trong đó có bốn phần nhỏ nói về hiện tượng QHTDTHN, có thai ngoài ý muốn, tốc độ lây lan các bệnh tình dục như lậu, giang mai, AIDS…Điều đáng quan tâm là tác giả đưa ra được số liệu nói lên nguyện vọng tha thiết của giới trẻ (90%) muốn học hỏi chính thức những thông tin về quan hệ lứa đôi. Như vậy, các nghiên cứu trong và ngoài nước mới chỉ đề cập được một số khía cạnh về QHTDTHN. Hầu hết các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở phạm vi khảo sát thực tiễn. Mặc dù số lượng chưa nhiều nhưng những công trình nghiên cứu này đã có nhiều đóng góp trong giai đoạn bước đầu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng nhận thức về QHTDTHN của thanh niên, sinh viên ở Việt Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề này là thực sự cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Nhận thức Nhận thức là một trong ba mặt cơ bản của đời sống tâm lý con người (nhận thức, tình cảm và hành động). Nó quan hệ chặt chẽ với các mặt kia nhưng không ngang bằng về nguyên tắc. Nó cũng có quan hệ mật thiết với các hiện với các hiện tượng tâm lý khác của con người. Một đời sống tâm lý được coi là cân bằng khi có sự thống nhất giữa nhận thức, tình cảm và hoạt động. Theo quan điểm của Tâm lý học hoạt động thì hoạt động có đối tượng là khái niệm cơ bản của Tâm lý học, và chính hoạt động có đối tượng cấu thành nên các quá trình tâm lý trong đó có quá trình nhận thức. Nhận thức là một trong những yếu tố cấu thành nên ý thức con người. Đó là quá trình khám phá, lĩnh hội, hiểu biết về những đặc điểm của đối tượng và làm chủ hoạt động cũng như bản thân mình. Platônôp cho rằng: “Nhận thức là quá trình thu nhận những tri thức chân thực từ thế giới khách quan thông qua quá trình hoạt động xã hội”. 10 Theo từ điển Tiếng việt: “Nhận thức là sự hiểu biết sự vật ở bên ngoài hay điều người ta nhận được ở ngoại giới”[16, Tr774]. Dưới góc độ Tâm lý học nhìn nhận khái niệm “nhận thức” như sau: Theo quan điểm của K.K. Platônôp – nhà Tâm lý học Liên xô: “Nhận thức là quá trình thu nhận những tri thức chân thực trong thế giới khách quan trong quá trình hoạt động xã hội” [11]. Nói đến nhận thức tức là nói đến tính tích cực của con người, nói đến khả năng phản ánh những thuộc tính của sự vật, hiện tượng, mối quan hệ của chúng trong hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Con người sống trong những điều kiện tự nhiên và môi trường xã hội nhất định, đòi hỏi con người phải nhận thức được các quy luật của tự nhiên, cải tạo xã hội phục vụ cho mục đích của con người. Tóm lại, nhận thức là quá trình phản ánh, tái hiện hiện thực khách quan vào đầu óc con người trong quá trình hoạt động, giao tiếp xã hội, qua đó con người biểu thị thái độ, tình cảm và hành động của mình. 1.2.1.1. Các mức độ của nhận thức Trong việc nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ trừu tượng đến cụ thể. Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau như: Cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng… Những quá trình này sẽ cho chúng ta sản phẩm khác nhau như: hình ảnh, biểu tượng, khái niệm [ 7, tr67]. Có thể chia hoạt động nhận thức thành hai mức độ, nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) và nhận thức lý tính (tư duy và tưởng tượng). a. Nhận thức cảm tính Quá trình nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng của con người, sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh trực quan, cụ thể về thế giới. Cảm giác là cơ sở của hoạt động tâm lý. Sự nhận thức hiện thực xung quanh bắt đầu từ cảm giác [18, tr144]. Theo Phạm Minh Hạc, cảm giác được hiểu “là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta”[12]. 11 “Tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan ta” [12, tr119]. Tri giác không phải là số cộng đơn giản các cảm giác, vì tri giác còn bị chế ước bởi các kinh nghiệm đã có. Chính dựa vào các kinh nghiệm đã có mà người ta mới có thể kết hợp các thuộc tính riêng lẻ đã cảm giác được thành hình ảnh hoàn chỉnh. Từ đó, mới xác định được đối tượng hiện có là sự vật gì. Vì thế tri giác không chỉ là quá trình tạo ra hình ảnh cảm tính về sự vật, hiện tượng mà còn là hoạt động tích cực của con người. Tuy nhiên, tri giác cũng chỉ là cảm tính. Vì vậy, nó cũng thiếu chính xác và không sâu sắc. Khi tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó là ta tạo ra trong đầu một hình ảnh về nó. Tuy nhiên, hình ảnh đó không phải là hoàn toàn khách quan, mà nó được chụp thông qua lăng kính “đời sống tâm lý của ta”. b. Nhận thức lý tính Nhận thức lý tính phản ánh những thuộc tính bên trong những mối liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà con người chưa biết. Do đó, nhận thức lý tính có vai trò quan trọng trong việc hiểu biết bản chất những mối liên hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng tạo điều kiện để con người làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân mình. Phương thức phản ánh của nhận thức lý tính là phản ánh một cách gián tiếp. Đó không chỉ là sự phản ánh hiện tại mà còn cả quá khứ và tương lai. Nhận thức lý tính (tư duy, tưởng tượng) là mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính, bao gồm hai quá trình tư duy và tưởng tượng. Sản phẩm của nhận thức lý tính là những khái niệm, những biểu tượng. “Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong, có tính chất quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết” [12, tr149. Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri giác. “Tưởng tượng là quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có” [12, tr167] c. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính Hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. V.I. Lênin đã từng kết luận rằng: “Từ trực quan sinh động đến tư 12 duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [19, tr189] . Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính lại thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở của nhận thức lý tính, không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính. Trái lại, nếu chỉ có nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, cần phát triển nhận thức cảm tính lên nhận thức lý tính, nhận thức lý tính sẽ giúp nhận thức cảm tính trở nên chính xác hơn. Trên thực tế, hai quá trình này diễn ra đan xen bổ sung cho nhau. Như vậy, nhận thức mang lại cho con người hiểu biết về thế giới khách quan. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, chúng tôi xem xét nhận thức về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân của sinh viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay. Nhận thức của sinh viên về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân được đề cập đến như là một quá trình hiểu biết của họ về thực trạng đó, nhận thức về những hậu quả của việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, cũng như một số biện pháp nâng cao nhận thức để khắc phục tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân hiện nay. 1.2.1.2. Mối quan hệ giữa nhận thức và các hiện tƣợng tâm lý khác có liên quan a. Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm Giữa phản ánh nhận thức và phản ánh xúc cảm, tình cảm có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Phản ánh nhận thức là tiền đề cho phản ánh xúc cảm, tình cảm. Ngược lại thì xúc cảm, tình cảm cũng có vai trò tác động, củng cố nhận thức để nhận thức hoàn thiện và sâu sắc hơn. Xúc cảm, tình cảm là động lực kích thích con người nhận thức, thúc đẩy mạnh mẽ con người tìm tòi chân lý. Có thể nói, xúc cảm, tình cảm nảy sinh trên cơ sở nhận thức, nhưng khi đã nảy sinh, hình thành thì xúc cảm, tình cảm lại tác động trở lại nhận thức, thậm chí có thể làm biến đổi nhận thức. b. Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi Trong mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi, có thể nói rằng nhận thức có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên thái độ và thực hiện hành vi của con người. Nhận thức là tiền đề, là sự định hướng và sự điều chỉnh hành vi của cá nhân 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan