Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đề tài gia đình trong tiểu thuyết của ma văn kháng, dạ ngân, nguyễn bắc...

Tài liệu Luận văn đề tài gia đình trong tiểu thuyết của ma văn kháng, dạ ngân, nguyễn bắc sơn

.PDF
106
116
110

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÝ THỊ KIM DUNG ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG, DẠ NGÂN, NGUYỄN BẮC SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội – Năm 2018 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÝ THỊ KIM DUNG ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG, DẠ NGÂN, NGUYỄN BẮC SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60220121 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ DỤC TÚ Hà Nội – Năm 2018 LỜI CẢM ƠN Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi rất kính trọng và chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo! Đặc biệt, tôi xin ngỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lê Dục Tú, người thầy đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Trong quá trình làm luận văn, tôi đã học tập được ở cô phương pháp nghiên cứu khoa học và tác phong làm việc nghiêm túc. Tôi xin được gửi lời tri ân đến cô! Hà Nội, tháng 6 năm 2018 Lý Thị Kim Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 4 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................ 9 4. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 10 5. Đóng góp của luận văn.............................................................................. 10 6. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 10 Chƣơng 1: MỐI QUAN HỆ TRONG GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG.... 11 1.1. Mối quan hệ vợ - chồng ......................................................................... 11 1.2. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái ................................................... 17 1.3. Các mối quan hệ khác ............................................................................ 25 Chƣơng 2: MỐI QUAN HỆ TRONG GIA ĐÌNH HIỆN ĐẠI ................. 32 2.1. Những tác động của đời sống hiện đại đến gia đình......................... 32 2.2. Sự lệch pha giữa vợ và chồng ................................................................ 40 2.2.1. Sự lệch pha về tình dục ........................................................................ 41 2.2.2. Sự lệch pha về tính cách, lối sống, quan điểm sống .......................... 46 2.3. Sự lệch pha giữa cha mẹ và con cái ...................................................... 54 Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU THỂ HIỆN ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH .................................................................. 63 3.1. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 63 3.1.1. Không gian ngôi nhà ........................................................................... 64 3.1.2. Không gian căn phòng ......................................................................... 68 3.1.3. Không gian mảnh vườn ....................................................................... 69 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 71 3.2.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình..................................................... 72 3.2.2. Xây dựng nhân vật qua nội tâm .......................................................... 75 1 3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu ....................................... 82 3.3.1. Ngôn ngữ .............................................................................................. 82 3.3.2. Giọng điệu ............................................................................................ 87 3.3.2.1.Giọng triết lí ........................................................................................ 88 3.3.2.2. Giọng trữ tình .................................................................................... 91 KẾT LUẬN .................................................................................................... 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 99 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gia đình là cội nguồn của mỗi con người, là tế bào và là hạt nhân của xã hội. Mỗi gia đình hạnh phúc bền vững sẽ tạo thành một xã hội phát triển bền vững. Từ những năm 30 của thế kỉ XX một số tác giả của Tự lực văn đoàn đã viết về đề tài gia đình khi tập trung phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân để giành quyền sống cho người phụ nữ, chống lại những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến. Đến những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ những vấn đề của đời sống gia đình tạm lui để nhường chỗ cho những vấn đề xã hội lớn lao. Đất nước ta đang trong xu thế toàn cầu hóa và “Không lúc nào bằng lúc này vấn đề gia đình đƣợc đặt ra với ý nghĩa phổ quát... Nó không chỉ mang tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp phần quyết định với tƣơng lai” [32, tr. 13]. Hiện nay những biến đổi trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa, kinh tế…cũng tác động đến và tạo ra những biến đổi trong gia đình. Bên cạnh những thay đổi có ý nghĩa tích cực, gia đình cũng đang phải đối mặt với rất nhiều những vấn đề phải suy nghĩ. Không chỉ có kiểu gia đình truyền thống (gia đình mở rộng) hay gia đình hạt nhân, hiện nay đã xuất hiện một loạt kiểu hộ gia đình biến thể: kiểu gia đình cha hoặc mẹ đơn chiếc (Single-parent family); kiểu gia đình sống thử- sống với nhau như vợ chồng trong thời gian không định trước, không hôn thú…Từ sau năm 1986, đề tài gia đình một lần nữa trở thành mối quan tâm của các nhà văn. Tiểu thuyết viết về gia đình với những vấn đề của nó trở thành tâm điểm sáng tác của rất nhiều cây bút, là mối quan tâm của giới nghiên cứu và được đông đảo độc giả đón nhận nồng nhiệt. Những tác phẩm nổi bật viết về gia đình gắn với tên tuổi của các nhà văn như: Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông của Lê Lựu; Đám cƣới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng; Bến không chồng của Dương 3 Hướng; Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường; Gia đình bé mọn của Dạ Ngân; Luật đời và cha con, Lửa đắng, Gã tép riu, Vỡ vụn của Nguyễn Bắc Sơn…. Chủ đề gia đình là một trong những chủ đề chính trong các sáng tác của Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn. Bên cạnh những khác biệt, cả ba nhà văn đều có điểm gặp gỡ tương đồng trong cách nhìn nhận và giải quyết những vấn đề gia đình trong các tác phẩm: Mùa lá rụng trong vƣờn, Đám cƣới không có giấy giá thú( Ma Văn Kháng); Gia đình bé mọn( Dạ Ngân); Luật đời và cha con, Gã tép riu, Vỡ vụn( Nguyễn Bắc Sơn). Thông qua những tiểu thuyết viết về gia đình của ba nhà văn mà thấy được quá trình đổi thay, phát triển của gia đình Việt Nam theo thời gian từ truyền thống đến hiện đại. Những tác phẩm viết về vấn đề gia đình của họ đều được bạn đọc quan tâm đón nhận. Từ những vấn đề này chúng tôi nhận thấy những đóng góp của họ cho sự phát triển và đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Chọn đề tài nghiên cứu là Đề tài gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn chúng tôi muốn đi sâu vào một trong những vấn đề đang được quan tâm của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trong việc phát hiện, phản ánh, nhận thức những vấn đề của con người và cuộc sống. Cùng với nhà văn, chúng tôi cũng hy vọng sẽ góp thêm tiếng nói trên con đường xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững cho xã hội. 2. Lịch sử vấn đề Giữ vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của con người và xã hội, gia đình trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như: xã hội học, kinh tế học, y học, tâm lý học... Mỗi ngành khoa học có cách nhìn, cách nghiên cứu về gia đình với những mục đích khác nhau. Một số bài viết về gia đình đăng trên các sách, báo, tạp chí như: Gia đình Việt Nam trong cơn bão của thời đại (Nguyễn Hồng Mai- Tạp chí nghiên cứu văn hóa Đại học Văn hóa Hà Nội ), Gia đình Việt Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện đại 4 (Tamvocviet.vn), Một số vấn đề về quan hệ gia đình qua báo chí( Nguyễn Hồng Thái- Xã hội học số 4(72),2000), Gia đình- vấn đề lớn của quốc gia (Vĩnh Khánh- Văn hóa Ngệ An, tháng 6 năm 2012), Gia đình Việt Nam trên con đƣờng công nghiệp hóa và hiện đại hóa( Vũ Khiêu- Gia đình trong tấm gương xã hội học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội)… Gia đình trong con mắt của những nhà văn, nhà nghiên cứu văn học được nhìn một cách đa diện. Chúng tôi xin điểm qua một số bài viết liên quan về đề tài này. Trần Bảo Hưng đã có những phân tích, nhận xét về những vấn đề phức tạp của đời sống gia đình trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vƣờn: “Cuốn sách đã đi vào một đề tài có thể nói là khá khiêm tốn, nhƣng lại là vấn đề quan thiết của nhiều ngƣời: gia đình- những mối quan hệ trong gia đình với những cung cách, lối sống, quan niệm vừa thống nhất vừa mâu thuẫn vừa rõ ràng, cụ thể vừa rối rắm phức tạp”[9, tr.8]. Nhà nghiên cứu văn học Trần Đăng Suyền khi bàn về Mùa lá rụng trong vƣờn đã khẳng định vấn đề tác giả Ma Văn Kháng quan tâm chính là vấn đề gia đình: “Trong Mùa lá rụng trong vƣờn, điểm nhìn của nhà tiểu thuyết tập trung chủ yếu vào gia đình” [39, tr. 29]. Bàn sâu hơn về tác phẩm, Trần Đăng Suyền cũng chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến sự vận động biến đổi phức tạp của gia đình: “Chính hoàn cảnh xã hội thời kì quá độ nhiều khó khăn, lắm tiêu cực hiện nay đã tác động mạnh mẽ tới từng cá nhân trong gia đình, tạo nên những mâu thuẫn, xung đột về cách nhìn cuộc sống, về lối sống khác nhau” [39, tr.31]. Trong một bài viết liên quan đến Mùa lá rụng trong vƣờn, tác giả Ngô Thu Thủy đề cập đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái xung quanh cách giáo dục con của những người cha, người mẹ: “Cha mẹ luôn là những ngƣời có ảnh hƣởng sâu sắc đến quá trình phát triển nhân cách của con cái… dạy dỗ, giáo dục con luôn là một bài toán khó với các bậc phụ huynh…nếu cha mẹ áp đặt con cái từ cách suy nghĩ đến lối sống, nếu con cái không bao giờ đƣợc phép làm bất cứ việc gì trái ý cha mẹ, dù đúng hay sai…thì kết cục tất yếu sẽ là bi kịch” [57]. 5 Tác phẩm Gia đình bé mọn của Dạ Ngân ra đời cũng nhận được nhiều ý kiến đánh giá từ những người yêu văn học nghệ thuật. Tác giả Hoài Nam cho rằng đây là “cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia đình” mà ở đó “tác giả cho thấy một mẫu hình phụ nữ chủ động chèo lái con thuyền cuộc đời mình” [33, tr. 327]. Hoàng Thị Quỳnh Nga trong lời Cảm ơn Dạ Ngân đã bình về “Những câu chuyện trong cuộc sống gia đình bộn bề cơm áo?...về số phận của một nữ nhà văn tên Tiệp. Có cá tính, nhan sắc và khát vọng yêu đƣơng mãnh liệt- điều mà Tuyên, chồng cô không thể mang lại, Tiệp đã sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc bề ngoài giả tạo ngột ngạt để đến với ngƣời mình yêu” [33, tr. 297-298]. Nhà phê bình văn học quá cố Hoàng Ngọc Hiến từng nhận định về tiểu thuyết Gia đình bé mọn của nhà văn Dạ Ngân kể chuyện một gia đình, nhưng đằng sau nó là cả một bối cảnh xã hội lớn của một thời với rất nhiều vấn đề đặt ra. Từ những vấn đề gia đình, nhà văn Nhật Tuấn khẳng định “Gia đình bé mọn của Dạ Ngân thật ra chẳng bé mọn chút nào, nó chứa đựng một dung lƣợng đồ sộ về đời sống xã hội Việt Nam đƣơng đại”[33, tr.318-319]. Từ khi tác phẩm Luật đời & cha con, Gã Tép Riu, Vỡ vụn của Nguyễn Bắc Sơn ra mắt bạn đọc đã gây được nhiều sự chú ý. Phần lớn các ý kiến( Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Bích Thu, Hoàng Minh Tường…) đề cập đến mối quan hệ gia đình, nguyên nhân đổ vỡ gia đình và những hệ lụy. Nhà văn Hoàng Minh Tường trong một bài viết thuộc Phần dƣ luận của tác phẩm Luật đời & cha con đã nhận định, tác phẩm “xoay quanh trục thế hệ bố-con-cháu: Lê Hòe- Lê Đại- Lê Cƣờng trong một gia đình công chức thành phố, Nguyễn Bắc Sơn muốn cho độc giả thấy con đƣờng hình thành, phát triển và biến động của những thế hệ nối tiếp trong khoảng thời gian 50 năm qua” [35, tr. 547]. Bàn về tác phẩm, nhà nghiên cứu văn học Bích Thu đã chỉ ra sự vận động của gia đình: “Mảng gia đình với ba thế hệ cùng chung sống, ở mỗi thế hệ đều mang đƣợc những đặc trƣng riêng của thế hệ mình và dấu 6 ấn của mỗi giai đoạn lịch sử cứ lần lƣợt hiện lên mà đậm đặc nhất là ở giai đoạn đổi mới” [35, tr. 556-557]. Đặng Văn Sinh cho rằng: “Đạo đức nhân cách đã bị tha hóa. Gia đình, thành lũy cuối cùng của con ngƣời đang bị công phá…Luật đời và cha con còn là hồi chuông cảnh báo sự tan vỡ gia đình không phƣơng cứu chữa” [59]. Nhà văn Nguyễn Đăng Điệp nhận rõ sự tác động của xã hội tới gia đình và ngược lại: “Nguyễn Bắc Sơn đã nhìn những chuyển động của lịch sử qua ba thế hệ trong một gia đình. Từ gia đình mà nhìn thấy luật đời, dòng đời với vô vàn các quan hệ chồng chéo, phức tạp thậm chí nhiêu khê, khó lƣờng” [35, tr. 563]. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên rất có lí khi nhận ra từ những vấn đề gia đình, tác phẩm Luật đời & cha con đã đặt ra nhiều vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu rộng: “Chuyện cha con trong một gia đình ba thế hệ nhƣng là chuyện cả xã hội. Và luật đời mà tác giả gửi gắm trong tên truyện chính thực là qui luật của cuộc sống, của nhân sinh, và sống là phải theo luật, phải làm đúng luật, nếu không sẽ bị thất bại và trả giá” [53]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Long đã chỉ nguyên nhân tan vỡ gia đình trong tác phẩm Gã Tép Riu( Nguyễn Bắc Sơn): “Sức hút nội lực giữa hai ngƣời không còn đủ mạnh, trong khi sức hút ngoại lực lại mạnh hơn( ngƣời thứ ba chen vào).Mâu thuẫn về mục đích sống, lối sống không thể dung hòa đƣợc ” [27, tr. 77]. Nhà văn Ma Văn Kháng khi bàn về tác phẩm Gã Tép Riu cũng đưa ra nhận định: “Gã Tép Riu là câu chuyện về quá trình tan vỡ hôn nhân của một cặp vợ chồng công chức nhà nƣớc” [18, tr. 17]. Đồng thời nhà văn cũng phân tích, lí giải về câu chuyện đổ vỡ gia đình trong tác phẩm: “Không còn là chuyện cả thèm chóng chán, ông ăn chả bà ăn nem. Xung đột gia đình Tùng- Thủy là xung đột nhân cách” [18, tr. 17]. Bùi Việt Thắng trong bài viết Bi kịch lạc quan đã bàn về “mối tình tay ba đẫm nƣớc mắt” cùng những nguy cơ tan vỡ hạnh phúc gia đình trong tác phẩm này. Bùi Việt 7 Thắng cũng chỉ ra những vấn đề đời tư khá tế nhị của các cặp vợ chồng mà Nguyễn Bắc Sơn đề cập trong cuốn tiểu thuyết: “Nhà văn không ngần ngại đi sâu vào miêu tả cái hạnh phúc bình thƣờng của con ngƣời, của đời sống tình dục chồng vợ vốn vô cùng bí ẩn và tinh tế trong phần bản năng gốc của nó” [54] và cũng chỉ ra: “Trong tiểu thuyết Gã Tép Riu cái “hang ổ” của TùngDiệu Thủy tiêu biểu cho cái gia đình hiện đại khi nó đứng trƣớc nguy cơ tan vỡ” [54]. Khi giới thiệu về cuốn Vỡ vụn, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn đã từng tâm sự: “Khi bắt tay vào cuốn Vỡ vụn, tôi đau đáu một suy nghĩ tan vỡ hôn nhân trong đời thƣờng là khá phổ biến. Khi thời mặn nồng đã qua, mọi chân tơ kẽ tóc đã biết hết, nếu không thay đổi thì dễ chán, rất dễ “ông ăn chả bà ăn nem”, anh đi đằng anh, tôi đi đằng tôi... Nhƣng có trƣờng hợp hôn nhân tan vỡ vì mâu thuẫn chính kiến mà trong văn học còn ít ngƣời đề cập đến. Có thể là mâu thuẫn về thần tƣợng, về tín ngƣỡng… và nhiều vấn đề khác. Thực tế ngày nay, những phụ nữ chọn cuộc sống đơn thân không còn là cá biệt” [60]. Những trăn trở của nhà văn Nguyễn Bắc Sơn về vấn đề gia đình cũng là những điều mà các nhà phê bình, nghiên cứu văn học quan tâm khi bàn về tác phẩm. Đoàn Trọng Huy trong một bài viết đã chỉ ra nội dung nổi bật của cuốn tiểu thuyết: “Vỡ vụn đi sâu vào thế sự, nói chuyện muôn đời là gia đình, tình yêu và hôn nhân… Một sự thật đời sống khác lần đầu tiên đƣợc thể hiện trong Vỡ vụn là quan niệm sống đơn thân của một phụ nữ thời hiện đại. Đây cũng là một quan niệm sống mạnh dạn, táo bạo (và có thể phiêu lƣu?) trong đời sống hôn nhân và gia đình” [49]. Tác giả Việt Hà cũng có những nhận định từ tác phẩm: “Hôn nhân không chỉ có màu hồng, mà để cuộc hôn nhân ấy bền vững, cả hai phải tự điều chỉnh, thậm chí tự giáo dục, đổi mới mình thì mới mong không đào sâu thêm khoảng cách” [47]. Hà Dương trong bài viết Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn: Tiếp tục ngòi bút dấn thân chỉ ra mối liên hệ về các vấn đề gia đình mà Nguyễn Bắc Sơn đặt ra trong hai cuốn tiểu thuyết Vỡ 8 vụn và Gã Tép Riu: “Dễ thấy trong "Vỡ vụn" có sự trở lại của mô týp cặp vợ chồng Tùng - Thủy ở tiểu thuyết "Gã tép riu" mà giờ đây là cặp nhân vật Chính - Thu. Trong đó, có những mâu thuẫn giữa những điều "sách vở" và "thực tế", giữa những giá trị thật và cái giả dối bề ngoài…”[46]. Vấn đề gia đình cũng đã được một số luận văn đề cập đến. Luận văn Đề tài gia đình trong tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn [42] đã tìm hiểu những biểu hiện, những vấn đề khác nhau của gia đình thời hiện đại trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn trên các phương diện nội dung và nghệ thuật. Luận văn Tiểu thuyết về gia đình hiện đại (Qua tác phẩm của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Dạ Ngân) [30] chỉ ra những tác nhân xâm hại gia đình thời hiện đại và những giá trị tốt đẹp, bền vững của gia đình trong xã hội hiện đại. Bên cạnh đó, các tác phẩm trên còn nhận được nhiều sự quan tâm của bạn đọc bằng những lời bình về các vấn gia đình mà các tác giả đặt ra. Chúng tôi nhận thấy một số tác giả đã đề cập đến các vấn đề gia đình qua các bài báo, các công trình nghiên cứu. Để có cái nhìn toàn diện, hệ thống hơn, chúng tôi khai thác đề tài này để tiếp tục khảo sát những vấn đề của gia đình truyền thống và gia đình hiện đại trong các tác phẩm của các nhà văn Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn. 3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tìm hiểu các vấn đề của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, một số phương thức nghệ thuật để thể hiện vấn đề gia đình trong tiếu thuyết của ba nhà văn Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn. Ghi nhận những thành công và đóng góp của ba nhà văn cho nền văn học Việt Nam. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề của đời sống gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn 9 Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn. 3.3 . Phạm vi nghiên cứu Tập trung khai thác một số tiểu thuyết của - Ma Văn Kháng : Mùa lá rụng trong vƣờn (1986), Nxb Phụ nữ, Hà Nội Đám cƣới không có giấy giá thú (2016), Nxb văn học - Dạ Ngân: Gia đình bé mọn (2006), Nxb Phụ nữ, Hà Nội - Nguyễn Bắc Sơn: Luật đời & cha con (2009), Nxb Văn học, Hà Nội Gã Tép Riu (2013), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Vỡ vụn (2015), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn này có nhiều phương pháp nghiên cứu được sử dụng đan xen nhưng chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp lịch sử- xã hội. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về các vấn đề của đời sống gia đình trong một số tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn. Luận văn cũng làm rõ cái tài, cái tâm và bản lĩnh sáng tạo nghệ thuật của mỗi nhà văn khi viết về những vấn đề xã hội và con người. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Mối quan hệ trong gia đình truyền thống Chương 2: Mối quan hệ trong gia đình hiện đại Chương 3: Một số phương thức nghệ thuật tiêu biểu thể hiện đề tài gia đình 10 Chƣơng 1: MỐI QUAN HỆ TRONG GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước với vốn văn hóa bản địa cùng với việc ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa ngoại lai đặc biệt là tư tưởng Nho giáo đã hình thành nên nếp nghĩ, lối sống của người Việt. Gia đình truyền thống của người Việt Nam được xây dựng trên nền tảng văn hóa đó. Trong những gia đình truyền thống thường có nhiều thế hệ cùng sinh sống theo kiểu tam, tứ, ngũ đại đồng đường nên có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống. Theo các nhà nghiên cứu, kiểu gia đình này phổ biến nhiều nhất ở vùng nông thôn Đồng bằng Bắc Bộ. Gia đình truyền thống luôn hướng tới sự chuẩn mực về đạo đức. Những chuẩn mực này không được quy định thành văn bản nhưng được tồn tại và tiếp nối trong tâm khảm, lối sống của các thế hệ trong gia đình tạo thành gia phong, gia đạo, gia lễ... Kiểu gia đình này được tổ chức có tôn ti, trật tự, trên kính dưới nhường, luôn đặt quyền lợi, danh dự gia đình, dòng tộc lên trên hết. Mọi thành viên trong gia đình đều lấy sự ổn định, bền vững của gia đình, lấy tình nghĩa, đạo hiếu làm trọng. Gia đình truyền thống ở Việt Nam là gia đình phụ quyền: “Trong chế độ phụ quyền, ngƣời đàn ông làm chủ gia đình (gia trƣởng) là ngƣời có quyền uy tuyệt đối…Về nguyên tắc ngƣời phụ nữ, tức ngƣời vợ hoặc ngƣời mẹ, tất không có quyền gì cả” [19, tr. 12-13]. Hiện nay kiểu gia đình truyền thống này vẫn thể hiện được ưu điểm nhưng cũng tồn tại không ít những bất cập. Với cái nhìn nhạy bén và tài năng, các tác giả Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Bắc Sơn đều thể hiện các vấn đề của gia đình truyền thống trong tác phẩm của mình thông qua hàng loạt các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. 1.1. Mối quan hệ vợ - chồng Có thể nói quan hệ vợ chồng là mối quan hệ cơ bản, nền tảng tạo nên sự hình thành, tồn tại và phát triển của gia đình. Những quy tắc, chuẩn mực 11 đạo đức của gia đình truyền thống đã quy định cách ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng. Trong quan hệ vợ chồng nghĩa tình, thủy chung được coi là những giá trị đạo đức căn bản để có được cuộc hôn nhân hạnh phúc, bền vững. Những tình cảm quý báu này có được là nhờ sự quan tâm, gắn bó, yêu thương, cùng nhau chia sẻ gánh vác công việc gia đình giữa vợ và chồng. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vƣờn, Ma Văn Kháng xây dựng một gia đình thành thị ở thời kỳ đầu đổi mới có ba thế hệ cùng sinh sống: thế hệ ông bà (ông bà Bằng), các con (các cặp vợ chồng: Tường- Hoài, Đông- Lý, LuậnPhượng, sau này là Cần- Vân), các cháu (Dư- con trai của vợ chồng Đông Lý, Nga- con gái vợ chồng Luận Phượng, Quân anh, Quân em- con trai của Cừ). Trong gia đình lớn ấy, gia đình nhỏ của Phượng và Luận là một gia đình lí tưởng. Gia đình Phượng – Luận ở trong một căn phòng hẹp nhưng “Đây là vũ trụ thu nhỏ, ở đó sống chung hai con ngƣời hiểu nhau, tôn trọng nhau và dắt dìu nhau. Ở đây có cả hạnh phúc chăn gối thân mật mà không suồng sã thô bạo…Chị là sự dịu dàng, êm ái, bản năng nhân từ, tinh tế, bền bỉ, sâu kín. Anh, thông minh, khách quan, ý chí, duy ngã, mạnh mẽ” [16, tr. 126]. Cả hai hài hòa, đắp đổi cho nhau, tạo nên mối quan hệ bền vững. Hai vợ chồng đều là cán bộ công nhân viên chức trong thời kì bao cấp, cuộc sống của họ về vật chất còn thiếu thốn đủ thứ: Luận đi một đôi giày rách hết mõm, quần áo của Phượng thì cũ kĩ, sờn rách. Lấy nhau nhưng phải sống xa nhau tới chín năm vì Luận đi bộ đội, Phượng về tỉnh nhỏ công tác. Tưởng chừng cuộc sống thiếu thốn, xa cách ấy sẽ làm mai một đi tình cảm vợ chồng nhưng ngược lại họ sống với nhau rất tình nghĩa, thủy chung. Trong cuộc sống khó khăn, họ nhường nhịn nhau từng miếng ăn, luôn quan tâm, chăm sóc cho nhau: “- Anh Luận, anh về ăn cơm đi Luận nhìn vợ, tràn ngập yêu thƣơng: - Anh ăn rồi. Em về ăn đi. Sao em cứ nhịn nhƣờng cho anh thế? - Em ăn thật rồi mà. 12 - Phƣợng, em nói dối anh phải không?” [16, tr. 192]. Luận luôn tâm sự, sẻ chia với vợ để cả hai cùng hiểu nhau hơn. Anh đã từng nói với Phượng: “Dân tộc mình sống có nghĩa, có tình sâu sắc, một nghĩa tình gừng cay muối mặn, tao khang, vì đã qua lửa đạn, gian truân. Em cứ nghĩ mà xem: không có lòng nhân hậu, vị tha, sự hy sinh và nhẫn nại thì sao mà có tình yêu đƣợc, làm sao biết sống làm ngƣời đƣợc” [16, tr. 138]. Đây không chỉ là quan niệm mà nó đã trở thành cách sống, lối sống của Luận trong cách ứng xử vợ - chồng. Anh muốn khẳng định tình cảm vợ chồng thiêng liêng như cha ông ta từng sống “tay bƣng chén muối đĩa gừng/ gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Đó là cái tình, cái nghĩa vợ chồng rất mặn mà, son sắt. Ở Phượng toát lên hình ảnh của người vợ dịu hiền, hết mực thương yêu chồng. Chị biết hy sinh, chịu đựng, biết lo toan, gánh vác công việc của nhà chồng. Phượng đã cùng Luận cưu mang vợ con Cừ, sống hài hòa với mọi người trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ. Bởi vậy Luận lại càng thương yêu, tôn trọng Phượng. Từ đó tình cảm vợ chồng càng khăng khít, bền chặt hơn. Gia đình vợ chồng Luận- Phượng là mẫu gia đình lí tưởng trong thời buổi kinh tế thị trường khi mà đồng tiền có sức mạnh chi phối mọi mặt trong đời sống. Xây dựng mối quan hệ vợ chồng Luận- Phượng, Ma Văn Kháng muốn ca ngợi vẻ đẹp, sức sống của văn hóa truyền thống dân tộc trong việc xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Ông Bằng trong tác phẩm cũng được coi là hình mẫu của một người sống hết mình với đạo đức truyền thống dân tộc. Là nhân viên bưu điện, nhà giáo, nhà báo, giờ ông Bằng đã nghỉ hưu, sống quây quần bên con cháu. Với ông, những gì thuộc về truyền thống đều tốt đẹp. Ông luôn có ý thức giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống. Trong mối quan hệ vợ chồng cũng vậy, từ ngày bà Bằng mất cùng với tuổi già, sức yếu, ông Bằng cảm thấy cô đơn, hụt hẫng và trống trải. Mặc dù đã kết bạn với bà lang Chí mong để tìm được người sẻ chia khi về già nhưng tình nghĩa vợ chồng ông không bao giờ quên. Bởi vậy, trong những ngày cuối cùng trên giường 13 bệnh, hình ảnh người vợ vẫn hiện về trong ông với bao kỉ niệm: “Cái tình cái nghĩa vợ chồng dẫu có cách lìa đôi ngả vẫn cứ ngàn năm sắt vàng…Ông nhớ lại toàn bộ chi tiết cuộc sống chung của vợ chồng ông. Ông nhớ cái buổi đầu tiên ông gặp bà…Ông nhớ ngày bà bị ốm, rụng hết tóc, ông ngồi cạnh giƣờng bà, đọc cho bà nghe cuốn truyện nôm “Tống Trân- Cúc Hoa”, mắt bà ƣớt nhoèn nƣớc mắt” [16, tr.235]. Bà lang Chí cũng là một người vợ, người phụ nữ hiện thân cho vẻ đẹp truyền thống văn hóa và đạo đức. Bà không được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống vợ chồng. Nhưng người vợ ấy vẫn nhớ đến tình nghĩa vợ chồng với nhau. Những ngày giỗ chồng bao giờ bà cũng lo lắng chăm chút chu đáo. Như vậy vợ - chồng ăn ở có tình có nghĩa không chỉ là khi còn sống mà cả khi đã lìa xa cõi đời thì họ vẫn nặng lòng với nhau. Ma Văn Kháng đã rất có lý khi ông cho rằng chừng nào con người còn gìn giữ được những nét đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc thì “Sự bền vững của các mối quan hệ tình cảm gia đình là tự nhiên, vốn có. Chồng yêu quý vợ. Cha yêu con. Cái tình đƣơng nhiên ấy cũng ngàn năm tồn tại, vĩnh hằng tồn tại, nhƣ tình yêu đất nƣớc, giống nòi vậy thôi” [16, tr. 235]. Trong các tiểu thuyết viết về đề tài gia đình, Nguyễn Bắc Sơn chú ý nhiều hơn đến các vấn đề của gia đình hiện đại. Tuy nhiên các vấn đề của gia đình truyền thống vẫn được nhà văn nhìn nhận và phản ánh.Tiểu thuyết Vỡ vụn, viết về mối quan hệ của vợ chồng Chính- Thu, một cuộc hôn nhân không có hạnh phúc dẫn đường. Chính và Thu đều làm công tác giảng dạy. Thu hơn hẳn Chính về bằng cấp, chị là Phó giáo sư của một Viện nghiên cứu, Chính chỉ là giảng viên bình thường. Nhưng Thu lại thua xa chồng về hiểu biết thực tế đời sống xã hội. Họ sống bên nhau nhưng trở thành những người xa lạ. Thậm chí ở cùng nhà nhưng chẳng ai nhìn ai, một “khu phi quân sự” đã hình thành trong ngôi nhà của họ. Chính gặp Thảo, họ có con với nhau, Thu mắc bệnh không có khả năng nói và đi lại được nữa. Tưởng rằng Chính sẽ li dị Thu để sống bên Thảo. Nhưng chính lúc này cái nghĩa vợ chồng ăn ở với 14 nhau đã không cho phép Chính làm như vậy. Có thể Chính giữ thể diện như lời của Thảo: “Bởi thầy giáo còn có danh dự, uy tín xã hội, họ tộc, nhà trƣờng, sinh viên nữa cơ mà…” [38, tr. 395]. Nhưng đây có lẽ chưa phải là những lí do quyết định việc Chính vẫn ở lại bên Thu trong lúc này. Tình yêu, sự hòa hợp vợ chồng không còn nhưng giữa hai người là cái nghĩa vợ chồng: “Chính từ chối tất cả những học phần dài ngày ở xa. Hằng ngày, lên lớp hay đi đâu, làm việc gì anh đều về nhà ngủ. Ngày nào cũng nhƣ ngày nào, ít nhất hai lần vào thăm vợ trƣớc khi đi đâu hoặc trƣớc khi đi ngủ. Những lúc ấy mắt chị sáng lên lấp lánh niềm vui và biết ơn” [38, tr. 386]. Anh thấy không thể sống ích kỉ, hẹp hòi, bỏ rơi vợ để có được hạnh phúc mới cho riêng mình trong hoàn cảnh này. Chính vẫn muốn làm hết trách nhiệm của một người chồng với Thu. Trong cuốn Luật đời & cha con, Nguyễn Bắc Sơn rất ca ngợi về tình nghĩa, thủy chung của cặp vợ chồng Thảo Tần và Trần Kiên. Trần Kiên là một bí thư Quận ủy tài năng và tâm huyết với công việc. Bởi vậy Thanh Diệu- cấp dưới của anh rất ngưỡng mộ và say mê anh. Khi Thanh Diệu gặp trục trặc trong cuộc hôn nhân với Vũ Sán, chị rất đau buồn và chị tìm thấy niềm an ủi, động viên khi ở bên Trần Kiên. Thanh Diệu luôn nghĩ mình đã yêu Trần Kiên, chị chỉ mong muốn được thổ lộ tình cảm của mình với anh. Trần Kiên hiểu rõ tình cảm mà Thanh Diệu dành cho mình, anh cũng cảm mến chị. Nếu không phải là người chồng chung thủy, coi trọng tình nghĩa vợ chồng Trần Kiên đã phản bội vợ mình. Nhưng anh luôn biết dừng lại đúng mức để gìn giữ hạnh phúc gia đình. Trần Kiên đã thể hiện quan điểm của mình trong lần tâm sự với con, anh cho rằng mình sẽ rất buồn nếú mỗi khi đi làm về “không có mẹ đợi bố về cùng ăn, không có những lần cả nhà ta cùng đi xem nghệ thuật, cùng đi về thăm ông bà nội, ông bà ngoại”, hay “một gia đình chỉ có bố không có mẹ, hay chỉ có mẹ không có bố” [35, tr. 458]. Trong lần Thảo Tần gặp chuyện bất bình ở nơi làm việc, chị đã chia sẻ với với chồng. Trần Kiên rất hiểu và cảm thông cho vợ: “ôm vợ vào lòng, nhƣ muốn 15 nhập mình vào tâm trạng của vợ để cùng chia sẻ, cùng day dứt, lo lắng, băn khoăn” [35, tr. 462-463]. Sự quan tâm, chăm sóc, yêu thương là những tình cảm quý báu mà mỗi cặp vợ chồng cần trao cho nhau. Đây là những nét đẹp trong đạo vợ chồng của cha ông ta. Viết về mối quan hệ vợ chồng giữa ông Hòe và bà Mận, Nguyễn Bắc Sơn lại đề cập đến một thái cực khác trong mối quan hệ vợ- chồng ở vùng nông thôn Việt Nam trước đây. Ông Hòe trước khi lấy bà Phụng đã có vợ và một con trai. Bà Mận - người vợ đầu của ông vì nhẹ dạ cả tin, tố điêu địa chủ hiếp dâm mình nên bị ông Hòe ghẻ lạnh, hắt hủi. Không đoái hoài gì đến vợ, Ông Hòe nghi ngờ Lê Hồi không phải là con mình. Dù sau này ông có nhìn nhận lại Lê Hồi, tìm cách bù đắp lại lỗi lầm bằng việc chuyển Hồi sang làm lính thể thao nhưng cái ngày ông cưới chui bà Phụng cũng là ngày Hồi chết khi tham gia hội thao quân khu. Bà Mận như chết đứng khi phải chịu nỗi đau mất mát này: “Từ khi chồng bỏ lửng, bà chỉ biết âm thầm sống với con. Con đi bộ đội, bà lủi thủi một mình một bóng, nhƣ một cái xác không hồn. Dân làng không thấy bà khóc, cũng không kể lể than vãn với bất kì ai câu gì. Từ đấy ngƣời đàn bà cam phận câm tịt cho đến khi theo con đi” [35, tr. 61]. Người đàn bà nông thôn ấy đã cam chịu một đời thiệt thòi. Bà đã quên đi bản thân mình, hết lòng lo lắng, yêu thương con, chăm lo mẹ già. Quan niệm xưa cho rằng hôn nhân là do số phận sắp đặt, người phụ nữ may mắn thì hạnh phúc, nếu không may thì họ phải chấp nhận, gắng chịu. Ca dao xưa cũng có rất nhiều bài nói về nỗi khổ của người phụ nữ: Thân em nhƣ giếng giữa đàng/ Ngƣời khôn rửa mặt, ngƣời phàm rửa chân”, “Thân em nhƣ hạt mƣa xa/ Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”. Nguyễn Du cũng cảm thương cho số kiếp bi kịch của người phụ nữ: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều). Có lẽ thấu hiểu điều này nên bà Mận không lời than phiền mà lặng lẽ cam chịu một đời. Như vậy, trong gia đình truyền thống, mối quan hệ vợ chồng cũng có 16 nhiều biểu hiện. Các tác giả đều ca ngợi, trân trọng, muốn duy trì những nét đẹp của truyền thống nhưng họ cũng không quên nhắc đến những hệ lụy, tàn dư của nó. Đây là những vấn đề gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc hôm nay. 1.2. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái Quan hệ cha mẹ- con cái là mối quan hệ máu mủ, thiêng liêng nhất. Nhà nghiên cứu Đào Hùng trong bài viết Biến đổi của gia đình Việt Nam thời hiện đại đã trích dẫn trong sách Luân lý giáo khoa thƣ lớp sơ đẳng do các nhà giáo dục Nho học biên soạn có đoạn: “Tôn kính cha mẹ là phải giữ lễ phép với cha mẹ. Cách ăn nói, lúc đứng ngồi, phải giữ gìn ý tứ, không làm điều gì mất lòng và trái ý ngƣời. Vâng lời cha mẹ là khi cha mẹ bảo điều gì là phải nghe, không đƣợc cƣỡng lại. Cha mẹ là ngƣời đã trải việc đời, dạy bảo ta điều gì, là mong cho ta hay. Vậy ta phải vâng lời cha mẹ. Ngƣời con biết tôn kính và vâng lời cha mẹ, là ngƣời con hiếu thảo” [19, tr. 14-15]. Theo quan niệm truyền thống, con cái có bổn phận phải phục tùng, thành kính, phụng dưỡng cha mẹ. Con cái phải luôn biết ơn công lao sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ. Cha mẹ còn sống thì con cái phải phụng dưỡng, chăm sóc đặc biệt là khi cha mẹ ốm đau, già yếu. Cha mẹ mất, con cái có trách nhiệm ma chay, chôn cất, thờ cúng, tưởng nhớ công ơn của cha mẹ. Không chỉ chăm lo về vật chất, con cái luôn làm cho cha mẹ được vui vẻ, yên lòng. Con cái có trách nhiệm làm rạng rỡ tổ tiên. Hiếu thảo với cha mẹ là đạo lớn nhất của người con vì thế bất hiếu cũng là tội “Trời chu đất diệt”. Trong văn hóa ứng xử phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, lòng yêu thương con cái của người làm cha làm mẹ lớn lao không gì có thể sánh được. Họ chấp nhận hy sinh cả cuộc đời vì con, luôn bao dung, độ lượng với con cái. Cha ông ta có câu “Cá chuối đắm đuối vì con”, “Mẹ già trăm tuổi thƣơng con tám mƣơi” hay “Con dại cái mang” cũng là để nói về tình cảm này. Cha mẹ không chỉ là người sinh dưỡng mà phải có trách nhiệm dạy bảo con cái nên người. Trong gia đình truyền 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan