Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Luận văn đề tài chiến tranh trong thơ phạm tiến duật, hữu thỉnh, nguyễn đức mậu...

Tài liệu Luận văn đề tài chiến tranh trong thơ phạm tiến duật, hữu thỉnh, nguyễn đức mậu

.PDF
135
113
125

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- NGUYỄN THỊ ĐIỆP ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- NGUYỄN THỊ ĐIỆP ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU (TỪ 1965 ĐẾN NAY) LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.01.21 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƢU KHÁNH THƠ HÀ NỘI – 2014 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là các thầy cô giáo trong khoa Văn học đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt khóa học. Em xin gửi lời biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS. Lưu Khánh Thơ. Cô đã định hướng đề tài, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Gia đình, Tập thể lớp Cao học Văn khóa 2011 - 2014, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn. Hà Nội, ngày 26 tháng 06 năm 2014 Người viết Nguyễn Thị Điệp i MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... i 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 2.1. Phạm Tiến Duật.......................................................................................... 4 2.2. Hữu Thỉnh .................................................................................................. 7 2.3. Nguyễn Đức Mậu ....................................................................................... 8 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 10 3.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 10 3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 10 4. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11 6. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12 7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 12 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 13 CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG MỸ VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ CHỐNG MỸ ............... 13 1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ .................................................... 13 1.2. Thế hệ các nhà thơ trẻ chống Mỹ ............................................................. 16 1.2.1. Sự xuất hiện của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước........................... 16 1.2.2. Các chặng đường thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước ......................... 18 1.2.2.1. Chặng đường thứ nhất: từ 1964 đến 1968 ......................................... 18 1.2.2.2. Chặng đường thứ hai: từ 1969 đến 1972............................................ 20 1.2.2.3. Chặng đường thứ ba: từ 1973 đến 1985............................................. 21 1.3. Khái quát về nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu .. 23 1.3.1. Nhà thơ Phạm Tiến Duật....................................................................... 23 ii 1.3.2. Nhà thơ Hữu Thỉnh ............................................................................... 26 1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu .................................................................... 28 CHƢƠNG 2: CÁI NHÌN CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU ............................................ 32 2.1. Đôi nét so sánh giữa thơ miền Nam và thơ miền Bắc cùng thời kỳ (1955 - 1975) 32 2.2. Hiện thực đời sống chiến trường .............................................................. 33 2.2.1. Hiện thực mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca ........ 34 2.2.2. Sự khốc liệt của chiến tranh………………………………………… 41 2.2.3. Hiện thực của sự hi sinh gian khổ. ........................................................ 48 2.2.4. Tội ác của kẻ thù ................................................................................... 53 2.3. Hình tượng người lính .............................................................................. 57 2.3.1. Lạc quan yêu đời, trẻ trung tinh nghịch ................................................ 58 2.3.2. Tình yêu đối với Tổ quốc và Nhân dân anh hùng................................ 62 2.3.3. Dũng cảm chiến đấu, ý chí quật cường ................................................. 67 2.3.4. Tình đồng đội ........................................................................................ 69 2.3.5. Tình yêu đôi lứa .................................................................................... 71 2.4. Cái nhìn về chiến tranh sau chiến tranh ................................................... 74 CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, HỮU THỈNH, NGUYỄN ĐỨC MẬU. .....................81 3.1. Thể thơ. .................................................................................................... 81 3.1.1. Thể thơ tự do. ........................................................................................ 81 3.1.2. Thơ lục bát............................................................................................. 86 3.1.3. Trường ca .............................................................................................. 90 3.2. Biểu tượng ................................................................................................ 94 3.2.1. Khái niệm biểu tượng ............................................................................ 94 3.2.2. Một số biểu tượng tiêu biểu trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu ............................................................................................ 95 3.2.2.1. Biểu tượng ngọn lửa, ngọn đèn .......................................................... 95 iii 3.2.2.2. Con đường .......................................................................................... 98 3.2.2.3. Cỏ ..................................................................................................... 102 3.2.2.4. Cây súng ........................................................................................... 105 3.2.2.5. Cánh rừng ......................................................................................... 107 3.2.2.6. Máu................................................................................................... 109 3.3. Ngôn ngữ ................................................................................................ 111 3.3.1. Ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày, giàu chất hiện thực đời sống 112 3.3.2. Ngôn ngữ giàu chất trí tuệ, chính luận ................................................ 116 3.4. Phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ ............................ 118 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 123 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 126 iv PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Năm 1945, A.TonXtoi – nhà văn chuyên viết về đề tài chiến tranh của Nga Xô Viết đã phỏng đoán: “Trong 100 năm tới, chiến tranh vẫn là cảm hứng sáng tạo cho toàn bộ nghệ thuật – từ bi kịch sử thi cho đến cả những bài thơ tứ tuyệt, trữ tình . . .” Trong văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, mặc dù chưa ai thống kê được chính xác có bao nhiêu tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng nhưng có một điều chắc chắn, đó là nguồn cảm hứng sáng tạo lớn của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ. Những tính cách cao đẹp xuất hiện trong chiến tranh không những không mất đi mà còn thể hiện ở nhiều khía cạnh trong nhiều bài văn, bài thơ có sức hấp dẫn lớn. Một loạt những nhà văn, nhà thơ trưởng thành từ sau chiến tranh, đã thực sự chiếm lĩnh được sự tin cậy của độc giả. Đề tài chiến tranh luôn được phản ánh tinh tế với nhiều khía cạnh sâu sắc. Đề tài chiến tranh không chỉ là nguồn cảm hứng sáng tạo vô tận của nền văn học thế giới mà đối với nền văn học Việt Nam đề tài lịch sử dân tộc, đề tài chiến tranh chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống thể loại của nền văn học mới nói chung và thơ ca nói riêng. Hiện thực mà đề tài này mô tả chính là cuộc sống đấu tranh của toàn dân tộc . Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã khơi nguồn cảm hứng cho thơ, lôi cuốn một lực lượng sáng tác đông đảo. Thơ chống Mỹ đã góp phần không nhỏ trong việc phản ánh một thời kỳ lịch sử đầy gian lao, thử thách nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc. Các thế hệ làm thơ cùng có mặt bên nhau trong trận tuyến đánh Mỹ ác liệt. Lớp nhà thơ trưởng thành trước cách mạng Tháng Tám như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên… đã nâng cao tầm tư tưởng, phản ánh kinh nghiệm, trẻ trung trong tâm hồn, khỏe trong sức viết, khẳng định được hướng đi lên, đã “truyền lửa” cho thế hệ sau. 1 Lớp nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ là một đội ngũ đông đảo, đa phần trong số họ là những người vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ. Có thể kể đến rất nhiều gương mặt tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ nói riêng, cho thơ kháng chiến chống Mỹ nói chung như: Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm… Và sẽ thiếu sót lớn nếu không nói đến Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu - là những người lính, nhà thơ đã gắn bó sâu nặng với tuyến đường Trường Sơn lịch sử, cũng là một trong những chiến trường ác liệt của đất nước ta thời kỳ chống Mỹ. Các anh sinh ra là để làm thơ và trở thành đỉnh cao của thơ ca thời kỳ này. Từ mỗi góc nhìn, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đã cung cấp cho người đọc nhiều góc độ khác nhau về cuộc chiến tranh, đó là niềm vui và nỗi đau, số phận con người trong và sau cuộc chiến, chất anh hùng ca… Đặc biệt ở giai đoạn hiện nay, khi chiến tranh đã lùi xa mấy mươi năm vẫn có không ít tác phẩm hay viết về chiến tranh, điều đó đã chứng minh đề tài về chiến tranh, về người lính vẫn mãi có sức lay động lòng người, đánh thức lương tri con người và niềm khát khao một cuộc sống hòa bình. Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu thành công ở nhiều đề tài khác nhau, trong các đề tài ấy chiến tranh là một ám ảnh đối với các anh. Đã có nhiều công trình, những bài nghiên cứu về thơ của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu nhưng phần lớn chỉ dừng lại ở việc giới thiệu, đánh giá từng tập thơ hay những nét chính trong những phong cách nghệ thuật… Xét đến cùng thì đề tài chiến tranh nói chung và trong thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ nói riêng vẫn luôn là nỗi ám ảnh đầy nhức nhối, những dư âm của cuộc chiến tranh vừa qua vẫn là nguồn cảm hứng to lớn cho những người cầm bút như các anh. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đề tài chiến 2 tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu.Vì vậy ở luận văn này chúng tôi đi vào một phương diện mới đó là Đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay). Thiết nghĩ đây là một việc cần thiết và có ý nghĩa trong việc khẳng định vị trí, tài năng của các nhà thơ. Đồng thời cho chúng ta một hướng tiếp cận mới về mảng đề tài chiến tranh luôn mang tính thời sự, qua cái nhìn đa chiều của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Bên cạnh đó, với việc lựa chọn đề tài này, chúng tôi cũng mong muốn vận dụng những lý thuyết truyền thống kết hợp với lý thuyết hiện đại để đi sâu tìm hiểu những yếu tố đặc sắc trong thơ, mong tìm ra được những mạch ngầm nội tại làm nên sức sống bền vững vượt thời gian trong mỗi tác phẩm của các anh. 2. Lịch sử vấn đề Thế hệ nhà thơ chiến sỹ - nhà thơ trẻ đem lại cho thơ sức sáng tạo mới, trẻ trung, trong sáng, gợi cảm, họ mang đến cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi nổi, mới mẻ, duyên dáng, đặc sắc của riêng lứa tuổi trẻ mà thế hệ nhà thơ trước không thể nói thay được. Thơ bám sát hiện thực sôi động của cuộc kháng chiến và nhanh chóng phản ánh kịp thời những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh sự dũng cảm hi sinh quên mình vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, thống nhất nước nhà. Không ít các tài năng đã được sớm chú ý và khẳng định như Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu và rất nhiều nhà thơ trẻ khác nữa. Họ nhận thức được rằng: “Thế hệ này chứ không phải ai khác đã tự hiểu, tự nhận thức một cách đúng đắn con đường đi của mình. Vừa cầm súng vừa cầm bút, họ đã viết về thế hệ mình một cách trân trọng, tự hào” (Hữu Thỉnh). Qua ngòi bút tài năng của Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, hình ảnh chiến tranh hiện lên một cách sắc nét, sinh động. Mỗi trang thơ thấm đấm chất anh hùng ca như một dòng sông hào hùng chảy xiết cùng năm tháng chiến đấu của dân tộc thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Qua khảo sát, thống kê chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài 3 viết liên quan tới đề tài. Nhìn vào những bài viết này, chúng tôi có thể khẳng định là cho đến nay những công trình, nghiên cứu, tìm hiểu về các nhà thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu đều thống nhất, đánh giá thơ các anh là những vần thơ viết về chiến tranh, về thế hệ những người lính, về Tổ quốc… thời kỳ kháng chiến chống Mỹ chân thực nhất, trong số phận của họ có số phận dân tộc. 2.1. Phạm Tiến Duật Phạm Tiến Duật là nhà thơ của chiến trường, trong vòng khói lửa. Thơ anh in đậm dấu ấn của cuộc chiến tranh, những vần thơ sử thi của một thời. Phạm Tiến Duật cũng có công giải tỏa cái khô khan, gò bó của thơ và thay vào đó là cách nói vui, nửa thực nửa hư, duyên dáng, nụ cười hóm hỉnh góp phần phản ánh sự đa dạng của đời sống trong chiến tranh, nhất là lớp trẻ trong chiến đấu. Đã có rất nhiều công trình, những bài nghiên cứu có tính chất khái lược về thơ Phạm Tiến Duật. Tiêu biểu là các tác giả Đỗ Trung Lai, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Văn Long, Hà Minh Đức, Vũ Quần Phương, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Ngọc Thiện, Trần Đăng Suyền, Đỗ Chu… Điểm lại một số bài viết, bài nghiên cứu, phê bình của các nhà nghiên cứu văn học về một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật, chúng tôi nhận thấy các bài viết đều thống nhất trong việc khẳng định tầm vóc, tài năng và những đóng góp lớn lao của Phạm Tiến Duật cho thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca thời kháng chiến. Phạm Tiến Duật có thơ đăng báo từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, nhưng thơ anh lúc này vẫn còn lẫn trong thơ nhiều người. Phải đến cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 - 1970, anh mới thực sự ghi được tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Chùm thơ đoạt giải nhất của anh gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả về một phong cách thơ rất lạ. Bắt đầu từ đây, nhiều cây bút, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan tâm đánh giá thơ anh. Một trong những bài viết đầu tiên về thơ Phạm Tiến Duật là Giữa chiến trƣờng nghe tiếng bom rất nhỏ (Tạp chí Văn nghệ 4 Quân đội, số 10, 1970 của Nhị Ca). Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn bài của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong cách thơ “rất lạ”, lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu. Nhà văn Nguyễn Minh Châu (Trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 7, 1972) có bài Ngƣời viết trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: “Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã làm xôn xao đời sống thơ ca vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật đã cổ vũ cho cuộc chiến đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía”. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật (In trên Tạp chí Văn học, số 4, 1974) đã khẳng định: “Hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật”. Ông cho rằng, thơ Phạm Tiến Duật “là tiếng nói khoẻ khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào hùng của dân tộc”. Và từ góc nhìn vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần Phương trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội vào nền thơ Việt Nam (Trong Tạp chí Văn học, số 6, 1979) đã chỉ ra sự kế thừa những kinh nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật. Theo Vũ Quần Phương, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật “đầy rẫy những chi tiết đời sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng...”. Năm năm sau, năm 1985, Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại (NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985), với tư cách là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ tình cách mạng. Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với nhan đề Một chặng đƣờng thơ Phạm Tiến Duật (Tạp chí Văn học, số 4, 1986) đã đánh giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm Tiến Duật. Nhà văn đã khẳng định vai trò của thực tiễn chiến tranh đối với sáng tác của Phạm Tiến Duật. 5 Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam viết: “Dưới bầu trời sinh tử của chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã làm một cuộc tự trải nghiệm, tự khám phá khắc nghiệt nhất và đã vươn lên làm một cuộc đột phá điển hình nhất, đưa thơ chống Mỹ lên đến đỉnh cao… thơ ca mang đến cho bạn đọc niềm vui lớn như những tin thắng trận từ tiền tuyến lớn. Độc đáo và vụt sáng, đầy sức lay động và ấm áp ngay cả trong những lúc cay nghiệt nhất của chiến tranh, đó là vẻ đẹp của thơ Phạm Tiến Duật.” [24, tr.11] Theo GS Nguyễn Văn Hạnh thì thơ Phạm Tiến Duật “không thiên về “tự biểu hiện”, về kỷ niệm, như thường thấy trong thơ các bạn trẻ, mà chú ý quan sát, suy nghĩ, “ghi chép” những người và việc xung quanh, phát hiện ra những khía cạnh bất ngờ, “lý thú”, “có cái nhìn riêng, giọng nói riêng” và “anh thành công nhất khi viết về những con người tham gia trực tiếp cuộc chiến đấu.” (Báo Văn nghệ số 363, 25-9-1970). Trong Lí luận văn học, GS Trần Đình Sử cho rằng thơ của Phạm Tiến Duật cũng đầy “mê hoặc” hấp dẫn, chứa đựng những điều sâu xa. Phạm Xuân Nguyên trong bài viết Chiến tranh nhìn từ nhiều phía cho rằng: “Phạm Tiến Duật nổi lên trong dàn thơ chống Mỹ với những bài thơ nói cái hiện thực trần trụi của chiến tranh, cái ngang tàng hiên ngang của người lính.” [30, tr.2] Tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đều đã đánh giá, khẳng định những đặc sắc và đóng góp của thơ Phạm Tiến Duật với thơ ca thời chống Mỹ cũng như thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Có thể nói đường Trường Sơn chống Mỹ là ý chí Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam và… Thơ Phạm Tiến Duật. Đó là những ý kiến vô cùng quý giá mà người viết có được để làm tiền đề mở đường trong việc triển khai các nội dung của đề tài luận văn này. 6 2.2. Hữu Thỉnh Hữu Thỉnh đã khẳng định được thế đứng trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại. Với hàng loạt các tập thơ được xuất bản và đạt được những giải thưởng văn học uy tín trong và ngoài nước. Hữu Thỉnh là một nhà thơ tiêu biểu có bản sắc riêng, đã thu hút được nhiều độc giả yêu thơ và giới phê bình. Trong bài viết về nhà thơ Hữu Thỉnh, tác giả Vu Gia đã giới thiệu Hữu Thỉnh với bạn đọc như là một cây bút đầy triển vọng: “Đọc tập thơ Hữu Thỉnh dày hơn 260 trang do nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, tôi càng hiểu thêm vì đâu ta có thể đánh và thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần và cũng vì đâu ta có được ngày hôm nay.” [14] Đã có nhiều bài viết, nghiên cứu nhắc đến Hữu Thỉnh như là một giọng thơ tiêu biểu trong đội ngũ các nhà thơ trẻ của thời kỳ chống Mỹ. Điều đó cũng là khởi nguồn để dẫn đến những thành công trên con đường sáng tạo thơ ca của anh. Nhà phê bình Trần Mạnh Hảo đã nhận xét: “Sự thành công của Hữu Thỉnh là nói ít, cảm nhiều, theo truyền thống thi pháp phương Đông Thi tại ngôn ngoại... cảm xúc của ông không hề biết chừng mực thường như nước vỡ bờ tràn ra ngoài trang giấy, tràn vào lòng, vào mắt người đọc. Song chữ nghĩa của ông lại khá chừng mực.” [18, tr.102] Hà Minh Đức cho rằng: “Hữu Thỉnh là nhà thơ biết chắt lọc, hút nhụy từ thơ ca dân gian hay rộng ra hơn là có tình quê, hồn quê qua những trang thơ về người lính. Hữu Thỉnh chắt lọc về ngôn từ và có những điểm nhấn ý vị.” [12, tr.182] Lý Hoài Thu đã nhận thấy: “Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn… Từ “cái nôi nghệ thuật” dữ dội, khốc liệt và thơ mộng là Trường Sơn ấy, hồn thơ Hữu Thỉnh tìm đến với những nguồn cảm hứng lớn về Tổ quốc, Nhân dân, về thế hệ những người cầm súng thời chống Mỹ.” [40] 7 Những bài thơ của Hữu Thỉnh “sẽ còn sống mãi với lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ như là trang thơ hào hùng nhất, bi tráng nhất của toàn bộ thơ ca Việt Nam.” [35] Từ trong cội nguồn dân tộc, hành trình thơ Hữu Thỉnh là hành trình đi tìm “mẫu số chung của sự đồng cảm”. Trước đây anh đã từng viết thật xúc động về chiến tranh, về lòng quả cảm và đức hy sinh của dân tộc Việt Nam. Sau này, anh vẫn trăn trở vui buồn cùng số phận con người, khắc khoải lo âu trước sự “mất mùa nhân nghĩa”. Thơ anh có sự kết hợp giữa phẩm chất dân tộc và tính hiện đại, giữa chiều sâu triết lý và độ xúc cảm tràn trào, giữa sự hiền hòa lắng đọng và mãnh liệt sục sôi, giữa khả năng viết những tác phẩm trường ca dài và thơ trữ tình ngắn. Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu, xuất sắc của nền thơ chống Mỹ đã khẳng định vị trí và bản lĩnh sáng tạo của mình qua hai chặng đường lớn: Thơ ca những năm chống Mỹ cứu nước và thơ ca đương đại Việt Nam. 2.3. Nguyễn Đức Mậu Đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ và là người lính của Sư đoàn 312, nhà thơ mang áo lính Nguyễn Đức Mậu đã có mặt ở những cánh rừng Lào, ở vùng đất khét mùi đạn bom của Quảng Trị… Sự khốc liệt dữ dội và mất mát khó kể xiết của chiến tranh không dập tắt được những giai điệu mạnh mẽ trong tâm hồn anh, ngược lại nó đã hừng lên và bốc cháy rừng rực từ hiện thực bi tráng của cảnh tượng, sự lựa chọn kỹ càng chi tiết, vừa anh hùng vừa lãng mạn, vừa thật vừa ảo, vừa mộc mạc, vừa lấp lánh mà tất cả những cái đó được thể hiện trên cái nền cảm xúc mạnh mẽ và chân thật của người cầm bút. Đó là thơ, cũng là cuộc sống, là cái chung nhưng cũng là cái riêng. Giai điệu tâm hồn của nhà thơ cũng là giai điệu của người công dân – chiến sĩ. Vào những năm 60, khi ngọn lửa chiến tranh đã lan tỏa ra cả nước, thơ Nguyễn Đức Mậu đã bắt đầu xuất hiện đều đặn trên báo Nhân dân. Chính sự trải nghiệm cuộc sống ở chiến trường, được chia sẻ với nhân dân những gian nan, 8 vất vả, đau thương, mất mát lại mở ra trước mắt nhà thơ một hiện thực phong phú, vô tận. Hà Minh Đức nhận xét: “Thơ Nguyễn Đức Mậu là cuốn từ điển bách khoa về người lính, chiến trường”. [12, tr.182] Ngô Vĩnh Bình trong bài viết Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu nhận thấy: “Con đường binh nghiệp của Nguyễn Đức Mậu song hành cùng con đường văn nghiệp… Là người lính bộ binh lại có mặt trong đội hình của sư đoàn chủ lực trong chiến tranh, cứ ngỡ Nguyễn Đức Mậu sẽ không còn tâm trí và thời gian để nghĩ đến văn chương, thơ phú nữa. Nhưng không, trước sau anh vẫn là người lính vừa cầm súng, cầm bút, vừa đánh giặc và làm thơ. Thơ anh là “thơ người ra trận”, ( Tạp chí Nhà văn, 12-2001) Hữu Đạt qua bài Nhân đọc Nguyễn Đức Mậu nghĩ về cũ và mới trong thơ có nhận xét: “Nguyễn Đức Mậu thuộc lớp nhà thơ trưởng thành thời chống Mỹ. Anh xác lập được vị trí của mình trong làng thơ nhờ những sáng tác viết về chiến tranh, trong đó nổi bật lên là hình tượng người lính và những kỷ niệm về quê hương.” [Văn nghệ Quân đội, 3-1999] Cũng bàn về vấn đề này, Phạm Khải trong bài viết Đôi điều về Nguyễn Đức Mậu đã cụ thể hơn: “Trưởng thành khi mà cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt nhất, lại mang trong mình phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ và tâm hồn tươi mát của một nhà thơ, Nguyễn Đức Mậu sớm vượt lên trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của lực lượng quân đội. Nhiều bài anh sáng tác trong giai đoạn ấy đã thực sự gắn bó máu thịt với cuộc sống chiến đấu được đông đảo bạn đọc (nhất là lính) mến yêu.” [22, tr.60]. Người lính hi sinh đã hóa thân vào non nước để sống tiếp một cuộc sống khác, xanh hơn, đằm dịu hơn và huyền ảo hơn. Theo dấu chân người lính, Nguyễn Đức Mậu đã có nhiều trang viết nóng hổi hơi thở cuộc sống chiến trường. Trong đó người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm. Nhà thơ Nguyễn 9 Đức Mậu tuy đã nổi tiếng nhưng anh luôn là người khiêm nhường, chịu khó đọc, chịu khó nghe và ham viết. Tuy các bài viết chưa bao quát hết được sự nghiệp thơ của Nguyễn Đức Mậu nhưng những ý kiến của những người đi trước đã là những gợi ý quý báu và định hướng cho chúng tôi trong khi thực hiện bản luận văn của mình một cách có hệ thống và sâu hơn. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Do luận văn nghiên cứu về ba tác giả nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát một số tập thơ tiêu biểu thể hiện rõ đề tài chiến tranh của từng tác giả. Cụ thể như sau: 3.1.1. Tác giả Phạm Tiến Duật luận văn khảo sát những tác phẩm in trong cuốn Phạm Tiến Duật toàn tập (Đỗ Trung Lai chủ biên, NXB Hội nhà văn, 2009). 3.1.2. Tác giả Hữu Thỉnh luận văn tập trung khảo sát ở tập Thơ Hữu Thỉnh (NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1998). 3.1.3. Tác giả Nguyễn Đức Mậu chúng tôi tập trung khảo sát qua bốn tập thơ: 1. Cánh rừng nhiều đom đóm bay (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998). 2. Từ trong lòng cuộc chiến (NXB Văn hóa thông tin, 2010). 3. Hoa đỏ nguồn sông (NXB Tác phẩm mới Hội nhà văn Việt Nam, 1987). 4. Mở bàn tay gặp núi (NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008) 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay), được triển khai theo phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ, phương thức chuyển nghĩa và sáng tạo hình ảnh thơ, thể thơ… Trong quá trình khảo sát và tìm hiểu đề tài chiến tranh trong thơ của ba tác giả chúng tôi luôn có sự đối sánh với nội dung, đời sống và tư tưởng của từng nhà thơ. 10 4. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm sáng tỏ vấn đề sau: - Cơ sở lý luận: Giới thuyết một số vấn đề về đề tài chiến tranh trong thơ kháng chiến chống Mỹ. Đề tài chiến tranh của nước ta cho đến nay vẫn là đề tài đa chiều, phức tạp và luôn mang tính thời sự. Chúng tôi không có tham vọng đưa ra những kiến giải mới, khác với ý kiến lý luận trước đó mà chỉ nhằm đi tìm một cách nhìn thiết thực hơn, cụ thể hơn về cuộc chiến tranh chống Mỹ giữ nước hào hùng của dân tộc. - Cơ sở thực tiễn: Tiếp nối những công trình nghiên cứu về đề tài chiến tranh ở nhiều góc độ khác nhau, chúng tôi muốn tìm hiểu một phương diện mới đó là đề tài chiến tranh trong thơ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua các tác giả Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu. Từ đó đề tài nhằm góp phần hoàn thiện bức chân dung về chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Để có thể nhận diện được Đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyển Đức Mậu (từ 1965 đến nay), chúng tôi đi sâu phân tích các tác phẩm thơ cụ thể ở các phương diện khác nhau như: Việc lựa chọn chi tiết, hình ảnh, biểu tượng, việc xây dựng hình tượng thơ, tứ thơ… Đây là nhiệm vụ chủ yếu của luận văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các biện pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp phân tích – tổng hợp Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp so sánh – đối chiếu Phương pháp cấu trúc – hệ thống 11 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đưa ra những nhận định về Đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu (từ 1965 đến nay). Từ đó khẳng định rõ hơn những đóng góp to lớn của các anh đối với thơ kháng chiến chống Mỹ và sự vận động của thơ hiện đại Việt Nam. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn được triển khai gồm ba chương: Chương 1: Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ và sự hình thành đội ngũ nhà thơ trẻ chống Mỹ Chương 2: Cái nhìn chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu Chương 3: Nghệ thuật thể hiện đề tài chiến tranh trong thơ Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu 12 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH TRONG THƠ CHỐNG MỸ VÀ SỰ HÌNH THÀNH ĐỘI NGŨ NHÀ THƠ TRẺ CHỐNG MỸ 1.1. Đề tài chiến tranh trong thơ chống Mỹ Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã làm thăng hoa những giá trị lớn của dân tộc, làm cho tên tuổi Việt Nam đồng nghĩa với chiến thắng, với lương tri thời đại. Trong những giá trị lớn ấy, có thành tựu của văn học, của thơ ca. Chưa bao giờ có sự thống nhất giữa sống và viết, giữa anh hùng và lãng mạn, giữa khoảnh khắc và trường tồn như thời kỳ ấy trong lịch sử văn học. Như một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học của dân tộc, thơ cũng như mọi thể loại khác trở thành vũ khí tinh thần, thành một sức mạnh tham gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của dân tộc, nhân dân. Từ thơ ca về chủ đề đấu tranh thống nhất chuyển sang chủ đề kháng chiến chống Mỹ dường như là một sự vận động liên tục, tự nhiên của nền thơ. Giặc Mỹ tấn công miền Bắc, đã chạm đến tình cảm sâu xa và thiêng liêng của mỗi người Việt Nam, làm bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí độc lập, tự do. Những tình cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch dồi dào cho cảm hứng thơ ca. Tạm rời bỏ một số đề tài và cảm hứng về đời sống thường ngày trong hòa bình, hay những vấn đề riêng tư, thơ tập trung vào một hướng lớn của đề tài và chủ đề là cuộc chiến đấu chống Mỹ của cả dân tộc ở hai miền Nam, Bắc. Nhưng sự thống nhất trong cảm hứng lớn và đề tài bao trùm không làm cho nền thơ rơi vào tình trạng nghèo nàn, đơn điệu. Đứng trước vận mệnh của dân tộc đang trong cơn thử thách lớn, các nhà thơ đều đáp lời kêu gọi của sông núi theo tiếng nói riêng. Xuân Diệu nói lên sự gắn bó ngàn đời với Nhân dân và lúc này, dường như mỗi giọt máu, mỗi tế bào của nhà thơ đều thuộc về Nhân dân: 13 Tôi cùng xương cùng thịt với Nhân dân tôi Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu Tôi sống với cuộc đời chiến đấu Của triệu nhiều người yêu dấu gian lao Bên cạnh thế hệ tiền chiến, là lớp nhà thơ sung sức cầm súng lên đường. Nguyễn Khoa Điềm nói lên sức mạnh của dân tộc đang được nhân lên trong những tháng năm đặc biệt: Trong thời gian không gian gian lao Ta điềm tĩnh nhân sức mình vô hạn Qua cuộc chiến đấu sẽ càng bộc lộ sức mạnh kỳ diệu của Nhân dân. Một dân tộc đã đi đầu giành độc lập giữa trùng vây của thực dân đế quốc, một dân tộc đã đánh tan đội quân viễn chinh thiện chiến của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ làm chấn động địa cầu, nhất định sẽ giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu mới. Một Việt Nam được bạn bè cảm phục, chia sẻ, ủng hộ. Các nhà thơ Việt Nam đã ghi lại được hình tượng Việt Nam trong thơ chống Mỹ. Các nhà thơ có dịp suy nghĩ về nhân dân và Tổ quốc mình. Chế Lan Viên nhận xét về ba năm thơ chống Mỹ: “Vạn sự khởi đầu nan. Trong một cuộc chiến tranh dữ dội, thơ dễ lâm vào một trong ba tình trạng sau này không còn thơ nữa. Khi đại bác gầm thì chim họa mi tắt tiếng. Có thơ nhưng đây là tiếng thét thất thanh của những khẩu hiệu có vần, cả ba trường hợp đó là dấu hiệu của thần kinh suy nhược. Vượt lên ba nguy cơ đó thơ miền Bắc tồn tại phát triển, tinh thần sảng khoái, da thịt hồng hào. Ba năm qua chúng ta đã xây nên một nền thơ chống Mỹ hẳn hoi với những thành tựu về mặt tác phẩm của nó với buổi đầu hoàn chỉnh về mặt lý luận của nó.” Không phải là một ước mong mà là một thực tế. Trong cuộc chiến đấu gian lao của Nhân dân ta có bạn bè gần gũi chia sẻ, như Mađơlen Righo – nữ phóng viên Pháp, Moonika – nhà văn nữ Ba Lan đều có mặt ở chiến trường Việt Nam, Giorit Iven đem ống kính vào vùng lửa đạn. Đimitrova - nhà thơ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan