TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
VŨ THỊ THÙY
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO
TRONG TANG THƯƠNG NGẪU LỤC
CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ VÀ NGUYỄN ÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======
VŨ THỊ THÙY
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIÁO
TRONG TANG THƯƠNG NGẪU LỤC
CỦA PHẠM ĐÌNH HỔ VÀ NGUYỄN ÁN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TÍNH
HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo TS. Nguyễn Thị Tính - người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình làm khóa luận.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ
Văn – Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận
Vũ Thị Thùy
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp
của cô giáo - TS. Nguyễn Thị Tính. Tôi xin cam đoan:
- Đây là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi.
- Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất cứ tác giả nào khác.
Hà Nội, ngày 14 tháng 05 năm 2018
Tác giả khóa luận
Vũ Thị Thùy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu............................................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 5
5. Phạm vi nghiên cứu................................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận.......................................................................... 5
8. Bố cục của khóa luận .............................................................................. 6
NỘI DUNG ..................................................................................................... 7
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO
GIÁO VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM TANG THƯƠNG NGẪU LỤC .............. 7
1.1. Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo ảnh hưởng đến văn học Việt Nam . 7
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Tang thương ngẫu lục ....................... 10
1.2.1. Tác giả “Tang thương ngẫu lục” ................................................. 10
1.2.2. Tác phẩm “Tang thương ngẫu lục” ............................................. 14
Chương 2. TANG THƯƠNG NGẪU LỤC - TÁC PHẨM CHỊU ẢNH
HƯỞNG SÂU SẮC TƯ TƯỞNG NHO GIÁO ............................................ 19
2.1. Những tấm gương kẻ sĩ trị quốc, bình thiên hạ .................................. 19
2.2. Bức tranh tả thực về cuộc sống xã hội thời Lê mạt đảo lộn cương
thường, đạo lý ............................................................................................ 25
2.2.1. Cuộc sống xa hoa, lũng đoạn trong phủ chúa .............................. 25
2.2.2. Cuộc sống bi hài của dân chúng................................................... 28
2.2.3. Những chuyện kì quái - biểu hiện của sự biến loạn xã hội .......... 32
KẾT LUẬN ................................................................................................... 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 44
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tang thương ngẫu lục là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể
dâu. Tác phẩm thuộc kiểu “sách ngoài”, chủ yếu ghi chép những chuyện tai
nghe mắt thấy trong xã hội đương thời. Theo Trúc Khê, “Vì nghĩ là bộ sách
xưa, có bổ trợ cho nền sử học nên chúng tôi đem phiên dịch in ra” [1, tr.5].
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án sinh ra ở cuối đời Cảnh Hưng. Thời đại đã
khơi nguồn cảm hứng về sự tang thương cho họ chắp bút và đặt nhan đề cho
sáng tác của mình là Tang thương ngẫu lục.
Đó là giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Sự thật xảy ra
nơi phủ chúa, kinh vua không thể che mắt bịt tai mà lờ đi đươc. Phạm Đình
Hổ và Nguyễn Án cũng không thể mũ ni che tai. Đúng là một thời đại bão
táp! Cơn giông tố đã tích tụ từ mấy trăm năm kể từ ngày Lê Duy Ninh (sau
này là ông Lê Trung Hưng đầu tiên) được Nguyễn Kim đưa lên ngôi từ năm
1533 với danh nghĩa “Phù Lê diệt Mạc”. Kể từ đó cho đến năm 1786 xã hội
phong kiến Việt Nam có biết bao biến động dữ dội. Chiến tranh liên miên,
đầu tiên là nội chiến Đàng trong - Đàng ngoài (1545 - 1592), rồi xung đột
Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672), kế đến là thời kỳ tranh giành chấp chính giữa
vua Lê - chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng, khiến cho kết cục vua Lê chỉ còn
tồn tại trên danh nghĩa, trở thành bù nhìn, mọi quyền hành đều nằm trong tay
nhà chúa.
Hiện thực xã hội giai đoạn này hiện lên với nhiều mặt. Đó là tình trạng
rối ren, hỗn loạn về chính trị xã hội làm nảy sinh đấu tranh giai cấp quyết liệt .
Nội bộ hàng ngũ giai cấp phong kiến phân tranh giữa các phe phái Trịnh Nguyễn, Lê - Trịnh… Sau đó là những gì vua Lê cố sức vun đắp rồi bỗng
chốc tan thành mây khói. Cuộc sống đế vương xa hoa của tầng lớp quý tộc, lũ
người hám danh, ăn chơi thỏa thích, đập phá cho sướng tay, quan lại nhũng
1
nhiễu ngang nhiên lộng hành. Hậu quả là nhân dân cơ cực, đói khổ, chiến
tranh liên miên, thuế khóa nặng nề, vô lí, ruộng đất bị kẻ trên chiếm đoạt. Sử
sách đã ghi lại hiện thực trên rất rõ. Chúa Trịnh cũng phải thừa nhận: “Ruộng
đất tư của dân nghèo phần nhiều rơi vào tay hào phú, dân nghèo không có
miếng đất cắm rùi” [13, tr.91].
Cuối cùng đạo đức xã hội sa sút từ già đến trẻ, từ dân thường đến quan lại…
Thu vào cõi mắt tang thương là cuộc sống hiện thực bị đảo lộn, giá trị
văn hóa, phong tục lễ nghĩa bị xuyên tac, nhân tình thế thái bị suy đồi…
Kéo theo sự đảo lộn đó là sự suy thoái về về các lĩnh vực khác trong
đời sống.
Dưới thời Lê, Nho giáo rất phát triển, các vua rất sùng đạo Nho và dùng
đường lối này làm tư tưởng chính thống để cai trị quốc gia. Tuy nhiên, Nho
giáo đến thế kỷ XVI thì bắt đầu suy thoái và mất dần ảnh hưởng của nó. Dưới
thời Lê mạt - Nguyễn sơ Nho giáo lại có ảnh hưởng lớn đến văn học. Tang
thương ngẫu lục là tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo.
Việc tìm hiểu Tang thương ngẫu lục sẽ giúp hiểu rõ hơn về tư tưởng Nho
giáo trong văn học và hiểu hơn về thế kỷ mà sau này chúng ta thường bắt gặp
khá nhiều trong văn học hiện đại.
Với tất cả những lý do trên đây khuyến khích tôi lựa chọn đề tài: “Ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ
và Nguyễn Án” làm vấn đề nghiên cứu cho khóa luận của mình”.
2. Lịch sử vấn đề
Tuy không được chú ý nhiều, nhưng tác phẩm Tang thương ngẫu lục
cũng đã có một số nhà nghiên cứu chú ý quan tâm. Sau đây tác giả khóa luận
xin trích một số nhận xét tiêu biểu như sau:
Theo Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm khen ngợi rằng:
Tang thương ngẫu lục cùng với Vũ trung tùy bút đều là những tài liệu quý
2
dùng để khảo cứu về lịch sử, địa lý, điển lễ, phong tục ở cuối đời Lê
[tr329-330].
Bài tựa của Phùng Dực Bằng Sô in ở đầu tập Tang thương ngẫu lục cho
biết: “Bởi những cuộc tang thương, khiến cho người ta có cảm khái tang
thương, ấy sở dĩ tập sách này tang thương là như thế đó”. Và theo Trúc Khê:
“Cũng vì chép nhiều chuyện biến thiên của thời ấy nên tên sách đặt là Tang
thương ngẫu lục nghĩa là câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu”
(Trích tiểu dẫn của Trúc Khê ở đầu sách Tang thương ngẫu lục).
Cuốn Từ điển tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường (Nhà
xuất bản Đại học Sư Phạm) có nhận xét: “Cũng như Vũ trung tùy bút, Tang
thương ngẫu lục vừa có giá trị văn học, vừa có giá trị sử học, xã hội học…”
[12, tr.331].
Trần Đình Việt trong tạp chí Văn học và tuổi trẻ (tháng 3/1994) có ý
kiến như sau: “Tang thương ngẫu lục không vượt được Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô gia văn phái và phần nào đó của Vũ trung tùy bút, nhưng trên
những nét riêng biệt, Tang thương ngẫu lục quả có đóng góp đáng kể trong
việc ghi lại những biến động của xã hội Lê - Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn
những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” [17, tr.35].
Nguyễn Phương Chi trong công trình Từ điển văn học (Nhà xuất bản
Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1984) đã nhận định: “Nét đặc sắc làm nên giá trị
của Tang thương ngẫu lục là ở chỗ, dưới màu sắc hoang đường, tác phẩm đã
ghi lại được những hình ảnh của một thời đại đầy biến động. Với lối văn kể
chuyện giản lược, ngắn gọn và súc tích người viết rõ ràng đã tiến rất gần đến
bút pháp hiện thực. Tuy nhiên cũng cần thấy tư tưởng trung quân mù quáng,
tư tưởng bi quan và thoát tục còn chi phối họ quá nặng” [2, tr.332]. Mặt khác,
Nguyễn Phương Chi còn nói lên được mặt hạn chế của tác phẩm Tang thương
ngẫu lục: “Do chỗ còn phải dùng đến thủ pháp hoang đường quái dị, nên giá
3
trị hiện thực của tác phẩm ít hay nhiều còn bị hạn chế. Tang thương ngẫu lục
tuy chưa thể xếp ngang hang với Vũ trung tùy bút, song cũng là một tập
truyện ký có giá trị văn học và sử học đáng kể [5, tr.332].
Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam (Nhà
xuất bản Đại học Quốc Gia, Hà Nội) cho rằng: “Tang thương ngẫu lục không
thấy xếp vào đâu cả. Theo chúng tôi chính là tạp ký” [18, tr.273].
Trong Từ điển bách khoa toàn thư (bản điện tử) có nhận xét về tác phẩm
như sau: “Cuốn Tang thương ngẫu lục viết chung với Phạm Đình Hổ là một
tập ký sự như Vũ trung tùy bút, kể chuyện đời, mắt thấy tai nghe nhưng hoang
đường, gạt phần mê tín dị đoan tác phẩm cho biết nhiều chuyện về các nhân
vật tiếng tăm trong nước: Vua chúa, đại thần các vị trạng nguyên, tiến sĩ, toàn
những chuyện lý thú, giai thoại về việc riêng tư, không ghi hành trạng”.
Khi giới thiệu tác phẩm Tang thương ngẫu lục Trương Chính viết: “Sách
Tang thương ngẫu lục có tính chất ký sự hơn tiểu thuyết” theo [19, tr.66].
Vẫn tác giả Trương Chính trong bài viết nhận định: “Có điều tập ký sự
này lại giàu chất hoang đường” theo [19, tr.60].
Qua những tư liệu nhận định trên, các nhà nghiên cứu đã phản ánh
những vấn đề phong phú trong Tang thương ngẫu lục và khẳng định vai trò
của tác phẩm trong nền văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam
nói chung. Họ đã gợi mở những nội dung phản ánh trong Tang thương ngẫu
lục như: các tác giả đã ghi chép lại những giai thoại về những nhân vật lịch
sử, những danh nhân có công lao lớn đối với dân tộc, những tấm gương kẻ sĩ
trị quốc, bình thiên hạ, bức tranh tả thực về cuộc sống xã hội thời Lê mạt với
đầy đủ những chuyện bi hài, kì quái cho đến sự xa hoa trong phủ chúa…Đặc
biệt đây là tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo. Với tất cả
những nhận xét, đánh giá trên tác giả khóa luận xin trân trọng tiếp thu những
ý kiến đóng góp đó để bổ sung hoàn thiện đề tài trong quá trình nghiên cứu.
4
3. Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài “Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong Tang
thương ngẫu lục” của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án, tác giả khóa luận hi
vọng góp phần làm cho mọi người biết thêm về một tác phẩm trung đại và
hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong tác phẩm. Đồng
thời nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí tác phẩm trong lịch sử phát triển văn
hóa của cha ông.
4. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, đối tượng nghiên cứu của khóa luận là những ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo biểu hiện trong tác phẩm Tang thương ngẫu lục
của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Tác phẩm Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án.
Tác phẩm gồm 90 thiên truyện và thơ đề sau tập truyện.
- Tang thương ngẫu lục là tác phẩm chữ Hán, có rất nhiều dịch giả khác
nhau, chúng tôi chọn văn bản do Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch (Nhà xuất bản
Văn học 2001). Đó là văn bản được nhiều người biết đến và được đa số các
nhà nghiên cứu có uy tín sử dụng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài tôi thực hiện một số phương pháp sau:
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp so sánh
Cùng với các phương pháp trên, khóa luận kết hợp các thao tác phân
tích, miêu tả... để hoàn thành tốt hơn đề tài.
7. Đóng góp của khóa luận
Thông qua triển khai đề tài khóa luận, tôi hi vọng giúp bạn đọc tìm hiểu
tư tưởng của Nho giáo ảnh hưởng đến tác phẩm Tang thương ngẫu lục của
5
Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án. Đồng thời giúp bạn đọc có cái nhìn thấu đáo
hơn khi đánh giá tác phẩm, hiểu thêm về Nho giáo, giúp ích cho công việc
giảng dạy, cũng như nghiên cứu sau này.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
khóa luận gồm 2 chương như sau:
- Chương 1. Khái quát về những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và tác
giả, tác phẩm Tang thương ngẫu lục.
- Chương 2. Tang thương ngẫu lục - Tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc
của tư tưởng Nho giáo.
6
NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
VÀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM TANG THƯƠNG NGẪU LỤC
1.1. Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo ảnh hưởng đến văn học Việt Nam
Nho giáo là học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ trung đại.
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ I TCN, dưới
thời Xuân Thu. Những tư tưởng của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách
kinh điển: Tứ thư và Ngũ kinh. Tứ thư có: Trung dung, Đại học, Luận ngữ,
Mạnh Tử. Ngũ kinh có: thi, thư, lễ, dịch, xuân thu. Hệ thống kinh điển đó hầu
như viết về chính trị, xã hội, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu
hướng biện luận về xã hội, về chính trị đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của
Nho giáo.
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to
lớn của đạo đức đối với xã hội. Theo Khổng Tử: “Đạo là năm mối quan hệ xã
hội cơ bản của con người được gọi là nhân luân”, Mạnh Tử gọi là ngũ luân:
vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản
nhất Đổng Trọng Thư gọi là Tam cương - ba sợi dây ràng buộc con người từ
trong quan hệ gia đình đến ngoài xã hội đó là: vua-tôi, cha-con, chồng-vợ.
Đức chính là phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần phải có để thực
hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên.
Cương - thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng, thước ngọc để
đánh giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương - thường góp phần
điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ
lễ pháp của nhà Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra.
Cương - thường là nhân tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là
cơ sở đảm bảo quyền thống trị của thiên tử.
7
Năm phạm trù đạo đức mà Nho giáo đề cập đến là: nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín. Những phạm trù này đều đánh giá đạo đức làm người và là thước đo đánh
giá phẩm hạnh của con người.
Ra đời và tồn tại đến nay đã hơn 2500 năm . Trong suốt thời gian tồn tại,
Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Sự ảnh hưởng này được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh
vực văn học.
Trước tiên, Nho giáo ảnh hưởng đến đối tượng sáng tác. Nho giáo với tư
tưởng “trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ phải “tam tòng tứ đức” đã thổi
vào đời sống xã hội của nước ta một không khí mang nặng hệ tư tưởng bất
bình đẳng, nó ảnh hưởng rõ nét nhất đến đối tượng sáng tác. Bởi vậy, hầu hết
các nhà thi sĩ, văn sĩ có tài đều là nam nhân. Trong thời kì đầu tiên của văn
học, đối tượng sáng tác chủ yếu là quý tộc quan lại như: vua Lý Công Uẩn
(Thiên đô chiếu), Trần Quốc Tuấn (Hịch tướng sĩ). Thời gian sau đó, do việc
học tập mở rộng nên có thêm nhiều nho gia, ẩn sĩ như: Phạm Ngũ Lão,
Nguyễn Trãi...Mãi tới sau này tới đầu thế kỉ XVIII, một số nhà thơ nữ mới bắt
đầu xuất hiện, điển hình là: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan.
Không những ảnh hưởng đến đối tượng sáng tác mà Nho giáo còn ảnh
hưởng đến nội dung của các tác phẩm văn học. Trước hết, ta có thể nhận thấy
rằng các tác phẩm văn học ảnh hưởng rất nhiều bởi Tứ thư - Ngũ kinh, học tập
rất nhiều điển tích, điển cố...để làm phong phú và sâu sắc hơn cho nội dung, ý
nghĩa tác phẩm. Ví dụ như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn “Xưa nhà Thương
đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời
đô...hay Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng điển cố “quả mai ba bảy” lấy ý
từ Kinh thi trong câu thơ: “Quả mai ba bảy đương vừa, / Đào non sớm liệu xe
tơ kịp thời.” để chỉ việc làm đám cưới nên vợ nên chồng.
8
Không chỉ vậy văn học còn tiếp thu và đề cao chữ “Nhân” trong Nho
giáo, biến nó thành một trong những đề tài sáng tác chủ đạo trong thi ca, tiểu
thuyết, truyện. Nhân tức là tình người, là chữ hiếu, là tình yêu thủy chung son
sắt: ta đã từng say mê chữ hiếu của một Thúy Kiều bán mình chuộc cha, một
Kim Trọng sắt son lời thề trong thi phẩm Truyện Kiều hay một tấm lòng đồng
cảm với nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du và thổn
thức cho nàng Vũ Nương bi kịch trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Nhân cũng có nghĩa là nhân dân, là con người. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô
đại cáo cũng đã từng đề cao chữ nhân trong đạo trị nước: “Việc nhân nghĩa
cốt ở yên dân”.
Tiếp theo, văn học trung đại còn thể hiện sự bất bình đẳng mà Nho giáo
đã khẳng định “trọng nam khinh nữ”. Thân phận người phụ nữ trong xã hội
xưa bị coi rẻ như cánh bèo lênh đênh trên sóng nước: nhân vật Thị Kính (vở
chèo Quan Âm Thị Kính) hay Bánh trôi nước (Hồ Xuân Hương). Đồng thời
tư tưởng “phản dân chủ” của Nho giáo đã ảnh hưởng tới văn thơ Việt Nam
trung đại, chỉ đề cao cái “ta” mà gần như triệt để bỏ đi cái “tôi” của bản thân.
Trong văn chương, các hình tượng nhân vật trung tâm còn chịu ảnh
hưởng rõ nét của Nho giáo với nhiều quan niệm về đạo đức - lễ nghĩa. Là
người đàn ông phải là người quân tử, có tài, có đức, có trí lớn, có sự nghiệp...
Là người phụ nữ phải giữ lễ nghĩa, công dung ngôn hạnh, phải biết tam tòng
tứ đức...
Tư tưởng trung quân ái quốc với cảm hứng ý thức độc lập tự chủ, lòng
căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, lòng tự hào đất nước con người... như
trong Bình ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)...hay
tư tưởng “nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho giáo cũng ảnh hưởng đến nội
dung văn học thời kì này.
Tóm lại, có thể thấy sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến văn học là
rất lớn: Nho giáo khích lệ sự phát triển của văn học.
9
1.2. Khái quát về tác giả, tác phẩm Tang thương ngẫu lục
1.2.1. Tác giả “Tang thương ngẫu lục”
Phạm Đình Hổ sinh năm Mậu Tý (1768) trong một gia đình Nho học, tự
Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ tiên sinh.
Nguyên quán tại hương Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, trấn
Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông
là nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX.
Sinh ra trong một gia đình khoa bảng, cha ông là Phạm Đình Giáp hiệu
Diệc Hiên tiên sinh, giỏi cả văn lẫn võ và thông thạo lý số. Phạm Đình Giáp
nhiều lần đi thi nhưng chỉ đỗ Hương cống. Đến năm 1756, khi đỗ khoa tuyển
cử, làm việc trong phủ chúa. Ông từng làm hiến sát Nam Định, thăng tuần
phủ Sơn Tây và được thăng chức Hoằng Tín đại phu Thái bộc Tự Khanh. Mẹ
Phạm Đình Hổ là Phạm Thị Xuyến - cháu nội của bảng nhãn Phạm Quang
Trạch, người làng Đông Ngạc.
Phạm Đình Hổ sớm mồ côi cha, 9 tuổi ông đã đọc Hán tự, 12 tuổi cha
mất việc học hành trở nên chểnh mảng. Tuy học và đọc rất nhiều sách nhưng
ông chỉ đỗ đến sinh đồ (tức đỗ tú tài) vào khoảng cuối đời Chiêu Thống.
Găp buổi loạn lạc, vua Lê Chiêu Thống cho người chạy sang cầu cứu
nhà Thanh, rồi triều đình Lê - Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên cầm quyền .
Suốt thời gian này Phạm Đình Hổ sống đời hàn nho, dạy học ở quê.
Đến khi Gia Long lên ngôi, cho khôi phục việc học hành thi cử, ông có đi
thi Hương 3 lần nhưng đều không đỗ. Hồi ấy ông đang dạy học ở phường Thái
Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long. Hàng ngày rèn luyện học trò
và biên soạn sách. Ở đây ông đã kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Năm Canh Thìn (1820), có chỉ triệu ông và Phan Huy Chú vào Huế đợi
mệnh cất dùng, nhưng vì ốm ông không vào được.
10
Năm Tân Tỵ (1821) vua Minh Mạng ra Bắc. Khi ấy Phạm Đình Hổ ở
tuổi 53, ông được vua mời đến hỏi về học vấn, tình hình thi cử và nhân tài của
đất Bắc. Vua lại khuyên hễ có sách tiền triều, sách trước thuật thì nên đem
tiến trình. Ông bèn dâng lên nhà vua những sách do mình biên soạn. Do trình
độ học vấn uyên bác nên ông được triệu vào Huế làm Hành tẩu viện Hàn lâm,
được ít lâu xin thì ông xin từ chức.
Năm Minh Mạng thứ 7 (1926), vua lại triệu ông ra làm quan thừa chỉ
Viện Hàn Lâm. Nhà vua đã có lời khen với Phạm Đình Hổ rằng: “Văn học
vượt trội, tính tình ngay thẳng không xu phụ quyền trọng”. Sau hơn một tháng
thăng tiếp lên chức Tế Tửu Quốc Tử Giám. Năm sau thì xin nghỉ bệnh rồi từ
chức luôn. Sau ông lại vào sung chức, được thăng Thị giảng học sĩ (đây là
trường hợp đặc biệt vì một người chỉ có học vị tú tài lại được cất nhắc lên vị
trí cao của một trường học như vậy).
Năm Nhâm Thìn (1832), ông xin về hưu luôn. Năm Kỷ Hợi (1839)
Phạm Đình Hổ mất tại quê nhà, thọ 72 tuổi.
Như vậy, qua hành trình về con đường khoa cử, công danh của Phạm
Đình Hổ, ta có thể nhận ra nhân cách cao đẹp và thái độ ứng xử của ông trước
thế cuộc. Bởi ngay từ nhỏ Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: Làm người con trai
phải lập thân hành đạo…lấy thơ văn nổi tiếng ở đời…Ông là một nhà nho
thấu hiểu sâu sắc lẽ xuất tử - hành tàng. Khi đất nước có chiến tranh loạn lạc
thì ông ẩn cư về dạy học. Nhưng khi việc thi cử được khôi phục thì ông cũng
mang lều chõng đi thi với mong muốn phò vua giúp nước. Phạm Đình Hổ có
công lao to lớn đối với đất nước không chỉ trên lĩnh vực chính trị mà còn trên
lĩnh vực văn hóa.
Về sáng tác: Phạm Đình Hổ là người có ý thức để lại sự nghiệp cho hậu
thế trước thư lập ngôn và đã để lại một tài sản tương đối lớn. Ông có hai tập là
Vũ trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục (viết chung với Nguyễn Án) bằng
chữ Hán.
11
Về thơ, ông có Đông Dã học ngôn thi tập và Tùng cúc hiên mai tứ hữu
bằng chữ Hán. Về khảo cứu địa lý, lịch sử, văn hóa ông để lại các sách: An
Nam chí, Ô Châu Lục, Ai Lao sứ Trình, Lê triều hội điển, Bang giao điển lễ,
Kiền khôn nhất lãng, Nhật dụng thường đàm….
Riêng lĩnh vực văn chương, thơ văn Phạm Đình Hổ rất đặc sắc mặc dù
tất cả đều viết bằng chữ Hán. Cũng như Vũ trung tùy bút, Tang thương ngẫu
lục viết chung với Nguyễn Án được ông viết bằng tất cả tâm huyết văn
chương chân thực về người và cảnh, về cuộc sống nhân tình thế thái rất đa
dạng, phong phú.
Nguyễn Án sinh năm 1770 tự Thanh Ngọc, hiệu Kính Phủ, cũng có hiệu
Ngu Hồ, có vài tài liệu ghi là Ngu Hồ Khách và Giang Bắc Cối. Là một danh
sĩ sống dưới cuối thời Lê mạt đầu thời Nguyễn sơ, dưới triều vua Gia Long.
Quê gốc làng Viêm Điềm sau rời sang Du Lâm huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn, thị trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh).
Nguyễn Án sống vào thời kì biến động nhất của lịch sử dân tộc và cũng
được chứng kiến phần nào tình hình đất nước ổn định dưới triều Nguyễn.
Song có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất của ông là tình trạng rối ren cuối thời Lê, chỉ
trong vòng chưa đầy hai mươi năm mà đất nước đổi triều đại tới ba lần.
Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng truyền thống. Ông cố là tiến
sĩ Nguyễn Kham, ông nội là tiến sĩ Nguyễn Ý, thân phụ là Nguyễn Chí Hoàn.
Ngoài ra bà con thúc bá đều xuất thân đại khoa từ hậu Lê.
Nguyễn Án là người thông minh, hiếu học, kiến thức sâu rộng, hiểu biết
nhiều hay đi đây đó, từng trải nhiều và là người chứng kiến nhiều đổi thay của
đất nước. Lớn lên trong thời đại ly loạn, việc học hành, thi cử lỡ dở. Ông đã
sống gần như ẩn dật ở đất Thăng Long, trú ngụ trên mảnh đất của người khác
và kiếm sống vất vả bằng nghề dạy học, làm thuốc, tìm niềm an ủi ở thiên
nhiên và những người bạn văn chương.
12
Rồi triều Tây Sơn suy vong, nhà Nguyễn lên ngôi. Năm Gia Long thứ 4
(1805) lúc đã 35 tuổi, do được tiến cử, ông được bổ làm chức tri huyện Phù
Dung (nay là huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng).
Năm Ất Hợi (1815) ông mất sớm tại nhiệm sở lúc vừa tròn 45 tuổi.
Về sáng tác văn ông có hai tác phẩm là Phong lâm minh lãi thi tập và
Tang thương ngẫu lục (viết chung với Phạm Đình Hổ).
Thơ chữ Hán của Nguyễn Án không có gì đặc sắc nhưng tập ký viết
chung với Phạm Đình Hổ gồm những thiên ký sự chân thực sinh động. Bằng
tâm huyết văn chương của mình, Tang thương ngẫu lục là tác phẩm tiêu biểu
cho ngòi bút Nguyễn Án, làm rạng danh dòng tộc.
Như vậy, có thể thấy cả hai tác giả cùng sống trong một giai đoạn lịch sử
có nhiều biến động. Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án sinh ra và lớn lên khi tấn
bi kịch của giai cấp phong kiến ở vào giai đoạn suy thoái nhất và bi đát nhất.
Họ sớm ý hợp tâm đầu, có nhiều nét tương đồng về con đường đời, khả năng
văn chương và nếp cảm, nếp nghĩ, tình cảm, thái độ đối với xã hội đương
thời. Có lẽ ngoài chuyện tuổi tác, nhà cửa còn có một điều cơ bản là cùng
chung số phận trước các biến cố lịch sử. Cùng chứng kiến một triều đại mất
hết kỉ cương, luân thường đảo ngược, phủ chúa trở thành nơi làm hề với đủ
mặt chân dung... Chính vì thế từ vua chúa, quan lại, danh nhân cho đến những
con người bình thường đều đã trở thành đối tượng phản ánh trong sáng tác
của hai tác giả, đặc biệt ở trong Vũ trung tùy bút và Tang thương ngẫu lục.
Xét trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam nói chung, văn xuôi tự
sự cuối Lê đầu Nguyễn nói riêng không có cuốn sách nào mà hoàn cảnh sống
của hai tác giả lại gần giống nhau và hình thức tự sự trong tác phẩm lại gần
gũi, liên quan với nhau đến như thế. Và chính vì sự giống nhau đó đã tạo nên
một tác phẩm ký xuất sắc cho văn học trung đại mà tới nay người ta vẫn còn
nhắc đến - Tang thương ngẫu lục.
13
1.2.2. Tác phẩm “Tang thương ngẫu lục”
Tang thương ngẫu lục nghĩa là “ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu” là
tập ký bằng chữ Hán do đôi bạn thân là Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cùng
hợp soạn vào khoảng Lê mạt - Nguyễn sơ, tức khoảng cuối thể kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX tại Việt Nam.
Bài Tựa in ở đầu tập Tang thương ngẫu lục cho biết bởi những cuộc tang
thương, khiến người ta tất có cái cảm khái tang thương, ấy tập sách Tang
thương sở dĩ có là vì thế đó. Và theo Trúc Khê, cũng vì chép nhiều chuyện
biến thiên của thời ấy (cuối Lê) cho nên có cái tên sách là Tang thương ngẫu
lục, nghĩa là những câu chuyện ghi chép tình cờ trong cuộc bể dâu.
Ban đầu Tang thương ngẫu lục chỉ có bản viết tay trong một thời gian
gần trăm năm. Đến năm Bính Thân (1896), niên hiệu Thành Thái thứ 8, Tiến
sĩ Gia Xuyên Đỗ Văn Tân đang là Tổng đốc Hải Dương, quyên tiền khắc ván,
từ đó mới có bản in.
Năm 1943, nhà xuất bản Tân Dân cho in Tang thương ngẫu lục bản tiếng
Việt do nhà văn Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch.
Trong lời tựa I ở đầu tác phẩm Phùng Sực Bằng Sô có ghi như sau: “Từ
Lý, Trần, Lê, Trịnh tới nay trên dưới mấy trăm năm, có những điều quốc sử
chưa ghi, dã sử chưa ghi chép, hai ông đều thu cả vào cõi mắt tang thương mà
quên đi. Thì phỏng những chuyện ấy được mấy lâu mà mai một đi mất. May
mà lấy ngòi bút tang thương mà ghi chép, nên nó còn là cánh bè trở bến mê,
ngọn đèn soi nhà tối, đặt tên Tang thương ngẫu lục, ý nghĩa có thể nhận biết
được vậy” [1, tr.13].
Tang thương ngẫu lục là tập ký mang nặng tính chất truyền kỳ. Trừ một
số ít truyện nói về các đời trước, còn đa phần đều viết về thời Lê mạt. Sách
được chia làm hai quyển: quyển Thượng có 40 bài, quyển Hạ có 49 bài
(không kể thơ đề sau của người khác). Có một số bài ghi mỗi tên tác giả. Căn
14
cứ theo bản in năm 2000 do Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin in lại theo bản
của nhà xuất bản Tân Dân (1943) thì:
Ở quyển Thượng có 13 bài và quyển Hạ có 19 bài đề tên Kính Phủ, tức
Nguyễn Án.
Ở quyển Thượng có 10 bài và ở quyển Hạ có 23 bài đề tên Tùng Niên,
tức Phạm Đình Hổ.
Số bài còn lại không đề tên, nên không rõ của ai hay do hai ông cùng
hợp soạn.
Căn cứ nội dung từng truyện, Dương Quảng Hàm đã xếp chúng thành 5
mục sau:
Tiểu thuyết các danh nhân: Nguyễn Duy Thời, Chu Văn An, Nguyễn Trãi,
Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm…
Thắng cảnh: Bài ký chơi núi Phật Tích (Chùa Thầy), Núi Dục Thúy…
Di tích: Bia núi Thành Nam, Tháp chùa Báo Thiên, Thành cũ Trào
Khẩu, Miếu Thanh Cẩm…
Việc cuối đời Lê: Chuyện cũ trong phủ chúa, Thi hội…
Chuyện hay, chuyện lạ: Thần Tông hoàng đế, Hiển Tông hoàng đế, Hồ
Gươm, Ông Nguyễn Văn Giai, Người nông phu ở Như Kinh, Người nông phu
ở An Mô…
Điều cần nói ngay là: Viết Tang thương ngẫu lục với tâm trạng của một
kẻ hoài Lê ghét Trịnh và chấp nhận triều Nguyễn các tác giả còn có nhiều ẩn
ý khác. Khởi nghĩa Tây Sơn làm kinh thiên động địa nhưng thời đại ấy, chưa
đủ hoặc chưa thể làm cho các ông tin theo. Nay ta đọc Tang thương ngẫu lục
phần viết về triều đại Nguyễn Huệ không có bao nhiêu. Chủ yếu là các truyện
ghi lại cảm quan trước thiên nhiên như: Chùa Tiên Tích, Bài ký chơi núi Phật
Tích, Đền Trấn Vũ, Tháp Báo Thiên… xem truyện đủ biết là Phạm Đình Hổ
và Nguyễn Hán hòa vào thiên nhiên, tôn giáo để quên đi cuộc đời. Cũng như
Nguyễn Du viết:
15
- Xem thêm -