Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Địa lý Lựa chọn biểu đồ trước khi vẽ...

Tài liệu Lựa chọn biểu đồ trước khi vẽ

.DOC
26
681
149

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TỈNH KHÁNH HÒA TRƯỜNG THPT TRẦN BÌNH TRỌNG  SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP “RÈN LUYỆN CHO HỌC SINH KĨ NĂNG LỰA CHỌN BIỂU ĐÔ THÍCH HỢP NHẤT TRƯỚC KHI VẼ” GIÁO VIÊN: HÔ THỊ MỸ HÔNG TỔ: SỬ- ĐỊA- CÔNG DÂN NĂM HỌC: 2012-2013 1 Phần thứ nhất NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.Lí do chọn đề tài: Trong bộ môn địa lí, biểu đồ trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong kênh hình. Có thể nói biểu đồ là một trong những “ngôn ngữ đặc thù” của bộ môn khoa học địa lí. Chính vì vậy mà kĩ năng thể hiện biểu đồ trở thành một yêu cầu không thể thiếu đối với người dạy và người học địa lí. Vì lí do trên nên kĩ năng thể hiện biểu đồ trở thành một nội dung đánh giá học sinh học môn địa lí. Trong vấn đề kiểm tra đánh giá học sinh lớp 10,11,12 ở cấp THPT thì nội dung kiểm tra đánh giá được chia thành 2 phần: phần lí thuyết và phần thực hành, trong đó phần lí thuyết chiếm 60%-70% tổng số điểm và phần thực hành chiếm khoảng 20%-30% tổng số điểm, phần lớn những kĩ năng thực hành đó chủ yếu là kĩ năng biểu đồ. Ở trường THPT hiện nay, khi dạy và học môn địa lí ta có thể sử dụng nhiều loại biểu đồ khác nhau như: biểu đồ hình cột, hình tròn, đường, miền,... Mỗi loại đều có chức năng thể hiện đối tượng phù hợp. Trong khi đó, việc rèn luyện kĩ năng thực hành về biểu đồ không chỉ yêu cầu học sinh vẽ đẹp mà phải vẽ đúng dạng biểu đồ theo yêu cầu của đề bài. Vì vậy từ những số liệu đã có, học sinh phải biết cách lựa chọn biểu đồ thích hợp với yêu cầu của câu hỏi, có làm được như vậy thì việc rèn luyện kĩ năng thực hành ( kĩ năng vẽ biểu đồ) mới đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phần lớn học sinh thường vẽ sai dạng biểu đồ, ví dụ cho 1 bài tập, học sinh phải vẽ biểu đồ hình tròn mới thích hợp, học sinh vẽ biểu đồ hình cột, hoặc một dạng biểu đồ khác, không phù hợp với nội dung yêu cầu. Điều này, học sinh không chỉ mắc sai lầm một lần, mà nhiều lần. Vì vậy, việc “hướng dẫn học sinh lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ”, là một việc làm rất quan trọng trong mỗi giáo viên dạy bộ môn địa lí. Nếu giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ thì kết quả của việc rèn luyện kĩ năng thực hành cho học sinh mới thực sự đem lại hiệu quả cao trong quá trình dạy và học. 2 Xuất phát từ thực tế trên, trong quá trình giảng dạy Địa lí ở trường THPT Trần Bình Trọng, Tôi rất băn khoăn, trăn trở tới kết quả đánh giá kĩ năng thực hành cho học sinh, tìm biện pháp phù hợp để “hướng dẫn học sinh lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ”, để các em thể hiện biểu đồ chính xác, đem lại kết quả cao trong học tập, tạo cho các em niềm say mê hứng thú học tập môn địa lí. Đó là lí do để tôi chọn đề tài này. 2. Mục đích của đề tài: Đưa ra kinh nghiệm hướng dẫn học sinh “kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ”. Với đề tài này sẽ giúp cho giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn đía lí THPT, đặc biệt giáo viên đang giảng dạy bộ môn địa lí lớp 10,11,12 sẽ có phương pháp cụ thể để hướng dẫn cho học sinh rèn kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ. Trong thực tế điểm thực hành của học sinh thường thấp là do kĩ năng thực hành địa lí của học sinh rất yếu, các em chưa được học tập có bài bản để hình thành kĩ năng thể hiện các loại biểu đồ. Muốn thực hiện tốt việc thể hiện biểu đồ, học sinh cần phải rèn luyện các kĩ năng sau: - Kĩ năng chọn biểu đồ thích hợp nhất. - Kĩ năng tính toán, xử lí các số liệu. - Kĩ năng vẽ biểu đồ. - Kĩ năng nhận xét, phân tích biểu đồ. Trong đó, kĩ năng chọn biểu đồ thích hợp rất quan trọng. Nếu học sinh nhận dạng sai dạng biểu đồ thì việc rèn kĩ năng biểu đồ không đạt kết quả, vì sau khi vẽ biểu đồ xong học sinh phải dựa vào biểu đồ đã vẽ để nhận xét, đánh giá,... để tìm ra mối quan hệ giữa các đối tượng địa lí. Vì vậy, việc rèn luyện kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ rất quan trọng, không thể thiếu trong các bước rèn kĩ năng biểu đồ. 3 Phần thứ hai CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN. 1. Cơ sở lí luận: Để phù hợp với đặc trưng bộ môn, đồng thời thực hiện tốt quá trình trao đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa các hoạt động của học sinh. Việc dạy và học môn Địa lí ở trường THPT muốn đạt chất lượng cao đi đôi với phần lí thuyết, việc rèn luyện kĩ năng thực hành là một yêu cầu bắt buộc và có tác dụng lớn nhằm phát huy tích cực,chủ động và tính thực tiễn của học sinh trong quá trình học tập. Mặt khác, nó còn giúp giáo viên tổ chức việc dạy học theo đặc trưng bộ môn có hiệu quả. Để làm được điều này việc rèn luyện kĩ năng về biểu đồ cho học sinh là rất quan trọng vì: biểu đồ là hình vẽ có tính trực quan cao, bên cạnh đó mỗi một loại biểu đồ còn thể hiện các đặc điểm sau: Để có thể dễ dàng phân biệt được các loại biểu đồ, ta có thể tạm xếp biểu đồ thành 2 nhóm với 7 loại biểu đồ . ● Nhóm 1. Hệ thống các biểu đồ thể hiện qui mô và động thái phát triển, có các dạng biểu đồ sau: - Biểu đồ đường biểu diễn: ▪ Yêu cầu thể hiện tiến trình động thái phát triển của các hiện tượng theo chuỗi thời gian. ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ một đường biểu diễn; Biểu đồ nhiều đường biểu diễn (có cùng một đại lượng); Biểu đồ có nhiều đường biểu diễn (có 2 đại lượng khác nhau); Biểu đồ chỉ số phát triển - Biểu đồ hình cột: ▪ Yêu cầu thể hiện về qui mô khối lượng của một đại lượng, so sánh tương quan về độ lớn giữa các đại lượng. ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ một dãy cột đơn; Biểu đồ có 2, 3,... cột gộp nhóm (cùng một đại lượng); Biểu đồ có 2, 3,...cột gộp nhóm (nhưng có hai hay nhiều đại lượng khác nhau); Biểu đồ nhiều đối tượng trong một thời điểm; Biểu đồ thanh ngang; Tháp dân số (dạng đặc biệt) - Biểu đồ kết hợp cột và đường. ▪ Yêu cầu thể hiện động lực phát triển và tương quan độ lớn giữa các đại lượng. 4 ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ cột và đường (có 2 đại lượng khác nhau); Biểu đồ cột và đường có 3 đại lượng (nhưng phải có 2 đại lượng phải cùng chung một đơn vị tính). ● Nhóm 2. Hệ thống các biểu đồ cơ cấu, có các dạng biểu đồ sau: - Biểu đồ hình tròn. ▪ Yêu cầu thể hiện: Cơ cấu thành phần của một tổng thể; Qui mô của đối tượng cần trình bày. ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ một hình tròn; 2, 3 biểu đồ hình tròn (kích thước bằng nhau); 2, 3 biểu đồ hình tròn (kích thước khác nhau); Biểu đồ cặp 2 nửa hình tròn; Biểu đồ hình vành khăn. - Biểu đồ cột chồng. ▪ Yêu cầu thể hiện qui mô và cơ cấu thành phần trong một hay nhiều tổng thể. ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ một cột chồng; Biểu đồ 2, 3 cột chồng (cùng một đại lượng). - Biểu đồ miền. ▪ Yêu cầu thể hiện đồng thời cả hai mặt cơ cấu và động thái phát triển của đối tượng qua nhiều thời điểm. ▪ Các dạng biểu đồ chủ yếu: Biểu đồ miền “chồng nối tiếp”; Biểu đồ miền “chồng từ gốc toạ độ”. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp chỉ dựa vào các chỉ số trong bảng số liệu học sinh có thể vẽ rất nhiều dạng biểu đồ khác nhau, tính hiệu quả khi nhận xét biểu đồ đã vẽ sẽ thấp vì biểu đồ đó không thể hiện chính xác được yêu cầu, như vậy lúc này chúng ta có thể thấy việc lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất chỉ có một, chính sự thích hợp đó mới thể hiện được tất cả các nội dung yêu cầu: thể hiện, nhận xét và phân tích biểu đồ... Vì vậy việc lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ là một việc làm rất quan trọng. Nó quyết định được sự thành công hay không thành công trong việc thể hiện kĩ năng biểu đồ của học sinh. 5 2. Thực trạng: Trong thực tế, điểm thực hành của học sinh thường thấp là do kĩ năng thực hành địa lí của học sinh rất yếu,các em chưa được học tập có bài bản để hình thành kĩ năng thể hiện các loại biểu đồ nên kết quả đánh giá của phần thực hành thường thấp vì theo yêu cầu của bảng số liệu và đề bài thì học sinh vẽ sai dạng biểu đồ, nên khi tến hành nhận xét, phân tích biểu đồ thường không chính xác. *Thực tiễn khảo sát trước khi áp dụng: Qua khảo sát về mức độ thực hiện các kĩ năng nhận dạng biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ, trước khi tác động được kết quả sau: Đối tượng khảo sát: học sinh lớp 12A9 và 12A10 tổng số học sinh được tiến hành khảo sát là 76 học sinh ở đầu học kì I ( qua phiếu thăm ở phần phụ lục) Số lượng (tỉ lệ) Kĩ năng Số lượng Tỉ lệ (học sinh) (%) Rất thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 3 3.9 Thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 10 13.1 Tương đối thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 20 26.3 Chưa thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 43 56.7 Từ kết quả trên cho thấy số lượng học sinh chưa thành thạo trong cách lựa chọn biểu đồ đúng để vẽ chiếm tỉ lệ tương đối cao.cho nên muốn giảng dạy môn Địa lí đạt kết quả cao và đặc biệt là phần kiểm tra đánh giá các bài thực hành về kĩ năng biểu đồ thì giáo viên phải hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ. Vì vậy nên tôi xin đưa ra một vài kinh nghiệm về “rèn luyện cho học sinh kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ”. Rất mong các bạn đồng nghiệp tham khảo và góp ý kiến cho tôi. 6 3. phương pháp thực hiện : Trong quá trình dạy các tiets thực hành kĩ năng vẽ biểu đồ. Tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm: định hướng cho học sinh cách nhận dạng biểu đồ phù hợp nhất trước khi vẽ, nhằm nâng cao kĩ năng vẽ biểu đồ cho học sinh. + Trong nội dung của bài thực hành về vẽ biểu đồ thường có : - Câu hỏi thực hành ( yêu cầu của đề bài) - Bảng số liệu thống kê ( bằng tỉ lệ % hoặc số tuyệt đối ) và đơn vị tính của số liệu như triệu ha, triệu tấn, tỉ đồng,... năm,... + Trong khi thực hiện kĩ năng học sinh cần theo các bước: - Xác định dạng biểu đồ . - Xử lí số liệu. - Vẽ. - Nhận xét. Trong sáng kiến này Tôi chỉ tác động cụ thể vòa bước xác định dạng biểu đồ phù hợp nhất trước khi vẽ, vì nếu như sai bước này thì việc thực hành kĩ năng khác của vẽ biểu đồ sẽ không đạt hiệu quả. Cụ thể : cách nhận dạng các loại biểu đồ. a.Biểu đồ hình tròn: * Tác dụng: thường được dùng để thể hiện cơ cấu của hiện tượng theo giá trị tương đối tức các thành phần trong một tổng thể( 100% ) và quy mô của đối tượng cần trình bày ( ứng với diện tích của hình tròn). * Cách nhận dạng biểu đồ hình tròn: Để nhận dạng đúng loại biểu đồ này học sinh cần chú ý đến câu hỏi thực hành và số liệu mà đề bài đã cho. Nhận dạng biểu đồ qua câu hỏi thực hành: Trong câu hỏi thực hành để nhận dạng các biểu đồ nói chung và biểu đồ hình tròn nói riêng thường có 3 dạng sau: + Câu hỏi chỉ định: câu hỏi xác định ngay loại biểu đồ phải vẽ. Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “ Vẽ biểu đồ hình tròn”. Ví dụ: 1. Bài tập 2 trang 102 sgk địa lí lớp 10 7 Vẽ bốn biểu đồ ( hình tròn) thể hiện cơ cấu ngành trong GDP của các nhóm nước, năm 2004. Khu vực Nông-Lâm- Công ( tỉ USD) Các nước thu 1253.0 Ngư nghiệp 288.2 Xây dựng 313.3 nhập thấp Các nước thu 693.0 2356.2 3880.8 6930.0 Các nước thu 32715.0 654.3 8833.1 23227.6 nhập cao Toàn thế giới 1635.9 13087.4 26174.7 nhập GDP nghiệp- Dịch vụ 651.5 trung bình 40898.0 Như vậy dựa trên yêu câù của đề bài học sinh phải xác định ngay dạng biểu đồ của bài tập này là biểu đồ hình tròn, vì trong đề bài yêu cầu cụ thể: “ vẽ biểu đồ hình tròn”. + Câu hỏi kín: không đưa ra một gợi ý nào. Ví dụ: “ Cho bảng số liệu sau: ... hãy vẽ biểu đồ thích hợp và nêu nhận xét” Với lời dẫn kín này học sinh phải nghiên cứu kĩ các thành phần sau của câu hỏi, đặc biệt học sinh phải chuyển sang tìm hiểu kĩ bảng số liệu và các đơn vị tính trong bảng số liệu. + Câu hỏi mở: học sinh cần chú ý bám vào một số từ gợi mở chủ đề, trong đề bao giờ cũng có các cụm từ như: “cơ cấu/tỉ lệ”,“tỉ trọng so với toàn phần” Ví dụ: Bài tập 3 trang 92 sgk địa lí lớp 10. Vẽ biểu đồ thể hiện cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế của một số nước, năm 2000( đơn vị %). Tên nước Pháp Mê-hi-cô Việt Nam Khu vực I 5.1 28.0 68.0 Khu vực II 27.8 24.0 12.0 8 Khu vực III 67.1 48.0 20.0 Như vậy dựa trên yêu cầu của đề bài học sinh phải xác định ngay dạng biểu đồ của bài tập này là biểu đồ hình tròn là thích hợp nhất, vì trong đề bài có cụm từ “cơ cấu”. Nhận dạng biểu đồ hình tròn dựa vào đặc điểm của bảng số liệu: Bảng số liệu phải có số liệu tương đối hoặc tuyệt đối của các thành phần hợp đủ giá trị tổng thể mới có đủ dữ kiện tính ra tỉ lệ cơ cấu ( % ) để vẽ biểu đồ hình tròn. Trong số liệu phải không có quá 3 mốc thời gian ( mốc năm), hoạt 3 đối tượng vẽ biểu đồ tròn là thích hợp nhất. Nếu như trong bảng số liệu có từ 4 mốc thời gian trở lên thì không thể lựa chọn biểu đồ hình tròn, mà lúc này học sinh nên chọn biểu đồ thể hiện cơ cấu khác như: biểu đồ miền, biểu đồ cột chồng. Ví dụ: Dựa vào bảng số liệu: Cơ cấu GDP của nước ta thời kì 1991-2002 (%) Năm 1991 1993 1995 1997 1999 2001 2002 Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nông,lâm,ngư nghiệp 40,5 29,9 27,2 25,8 25,4 23,3 23,0 Công nghiệp-xây dựng 23,8 28,9 28,8 32,1 34,5 38,1 38,5 Dịch vụ 35,7 41,2 44,0 42,1 40,1 38,6 38,5 Hãy vẽ biểu đồ thích hợp thể hiện cơ cấu GDP thời kì 1991-2002 Như vậy trong bảng số liệu này thì mốc thời gian quá nhiều ( 7 mốc thời gian ) vì vậy với bài này học sinh không nên lựa chọn biểu đồ hình tròn. b. Biểu đồ hình cột: * Tác dụng: Biểu đồ cột thường dùng để thể hiện sự khác nhau về quy mô, số lượng giữa một hay nhiều đại lượng khác nhau. Biểu đồ cột có thể dùng để thể hiện cả quy mô và động thái của hiện tượng ( nếu chuỗi số liệu theo thời gian ). Hoặc dùng để thể hiện cả quy mô và cơ cấu của hiện tượng. *Cách nhận dạng biểu đồ hình cột Nhận dạng biểu đồ hình cột qua câu hỏi thực hành: + Câu hỏi chỉ định: câu hỏi xác định ngay loại biểu đồ phải vẽ. 9 Ví dụ: Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “ Em hãy vẽ biểu đồ hình cột” thì học sinh không được vẽ biểu đồ dạng khác, mà bắt buộc học sinh phải vẽ biểu đồ dạng cột. Ví dụ: Bài tập 21 trang 112 sgk địa lí lớp 10 Cho bảng số liệu: sản lượng lương thực của thế giới, thời kì 1950-2003. Năm Sản lượng 1950 676.0 1970 1213.0 1980 1561.0 1990 1950 2000 2060.0 2003 2021.0 ( triệu tấn) Hãy vẽ biểu đồ cột thể hiện sản lượng lương thực thế giới qua các năm. Nhận xét + Câu hỏi mở: đề bài thể hiện sự hơn kém, nhiều ít, hoặc muốn so sánh các yếu tố Ta có thể dựa vào một số cụm từ gợi ý có trong đề bài như: “ Số lượng”, “sản lượng”, “so sánh”, “cán cân xuất nhập khẩu”. Hay khi đề bài yêu cầu vẽ về lượng mưa/năm của một địa phương, thì vẽ biểu đồ cột là thích hợp nhất. Ví dụ: “Vẽ biểu đồ thể hiện sản lượng lương thực bình quân theo đầu người trên toàn quốc, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long”. “ Vẽ biểu đồ so sánh diện tích và sản lượng cây cao su của nước ta qua các năm”. Ví dụ: Bài tập 2 trang 184 sgk địa lí 12: cho bảng số liệu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần.( đơn vị tỉ đồng) Giá trị sản xuất công nghiệp 1995 2005 Tổng số 50508 199622 Nhà nước 19607 48058 Ngoài Nhà nước 9942 46738 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 20959 104826 Vẽ biểu đồ thể hiện giá trị sản xuất công nghiệp phân theo thành phần kinh tế của Đông Nam Bộ. Học sinh vẽ biểu đồ cột là thích hợp nhất vì đọc yêu cầu biểu hiện về số lượng ở 3 khu vực kinh tế. 10 + Câu hỏi kín: Với câu hỏi kín “vẽ biểu đồ thích hợp” thì học sinh phải chú ý đến các đơn vị có dấu “/” như: kg/người, tấn/ha, USD/người,...và chú ý đến đặc điểm của bảng số liệu. *Nhận dạng biểu đồ hình cột dựa vào đặc điểm của bảng số liệu: Nếu dãy số liệu thể hiện giá trị tuyệt đối về quy mô, khối kượng của một hay nhiều đối tượng biến động theo một số thời điểm hay theo các thời kì( giai đoạn) thì lúc này ta nên chọn biểu đồ hình cột là tốt nhất. Nhưng giáo viên cần phải cho học sinh lưu ý: trong biểu đồ hình cột lại có nhiều dạng, mỗi dạng có cách thể hiện đối tượng địa lí khác nhau: + Biểu đồ cột đơn: các số liệu để vẽ loại biểu đồ này thường thể hiện quy mô khối lượng của một đối tượng qua các thời kì (giai đoạn) và nhiều đối tượng trong một thời điểm nhất định. Ví dụ: cho bảng số liệu: Mật độ điện thoại cố định (số máy/100 dân) Năm Số máy điện thoại 1991 0,2 1995 1,0 1997 3,0 1999 7,1 2002 2,1 Vẽ biểu đồ thích hợp thể hiện mật độ điện thoại cố định ở nước ta trong giai đoạn từ 1991-2002. + Biểu đồ thanh ngang: Trong bảng số liệu có nhiều đối tượng không gian (nhiều tỉnh, nhiều khu vực, hay nhiều nước,...) thì nên chọn biểu đồ thanh ngang. Ví dụ: Độ che phủ rừng của các tỉnh ở Tây Nguyên, năm 2003 Các tỉnh Kom Tum Gia Lai Đăk Lăk Lâm Đồng Độ che phủ rừng(%) 64,0 49,2 50,2 63,5 + Biểu đồ cột nhóm: Để vẽ loại biểu đồ này thì các số liệu thường thể hiện một số đối tượng có cùng đại lượng hoặc khác đại lượng trong một thời điểm nhất định hay trải qua các thời kì( giai đoạn) khác nhau. Ví dụ: bảng số liệu thể hiện 2 đối tượng có cùng một đại lượng trong thời kì từ 1975-1999 sau đây Diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm và hằng năm (đơn vị: Nghìn tấn) 11 Năm 1975 1980 1985 1990 Cây công nghiệp hằng năm 210,1 371,7 600,7 657,3 Cây công nghiệp lâu năm 172,8 256,0 470,3 542,0 1995 1999 716,7 892,9 902,3 1247,7 + Biểu đồ cột chồng: Nếu số liệu thể hiện quá nhiều thành phần và có từ 2 đến khoảng 4 mốc thời gian và có cụm từ <> Của một tổng thì học sinh nên chọn biểu đồ cột chồng. Đối với cấp THPT thì các giá trị thể hiện trên biểu đồ cột chồng thường sử dụng bằng giá trị tuyệt đối, và tương đối. Ví dụ: vẽ biểu đồ so sánh diện tích và sản lượng lúa so với diện tích và sản lượng cây lương thực ở Đồng bằng sông Hồng: Năm Diện tích cây lương thực 1985 1185 1989 1290 Trong đó lúa (nghìn ha) 1052 Sản lượng cây lương 3387 1058 4289 thực quy thóc 3744 Trong đó lúa( ngìn tấn) 3092 Học sinh lựa chọn vẽ biểu đồ cột chồng là thích hợp nhất c. Biểu đồ đường biểu diễn(đồ thị): * Tác dụng của biểu đồ: Biểu đồ đường biểu diễn được sử dụng để thể hiện tiến trình, động thái phát triển của một hiện tượng theo chuỗi thời gian. *Cách nhận biết dạng biểu đồ đường biểu diễn: Cách nhận dạng biểu đồ đường biểu diễn qua câu hỏi thực hành: + Dạng câu hỏi chỉ định: Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Em hãy vẽ đồ thị ...”, hay “Em hãy vẽ 3 đường biểu diễn...” thì lúc này học sinh bắt buộc phải vẽ biểu đồ đồ thị. 12 Ví dụ: Bài tập thực hành trang 133 sgk địa lí lớp 10 ( bài 34: thực hành)“Cho bảng số liệu: ...” Sản phẩm 1950 Than(triệu tấn) 1820 Dầu mỏ(triệu tấn) 523 Điện(tỉ kwh) 967 Thép(triệu tấn) 189 Vẽ biểu đồ ( đường) thể 1960 2603 1052 2304 346 hiện tốc 1970 2936 2336 4962 594 độ tăng 1980 1990 2003 3770 3387 5300 3066 3331 3904 8247 11832 14851 682 770 870 trưởng các sản phẩm công nghiệp của thế giới, thời kì 1950-2003 Học sinh lựa chọn vẽ biểu đồ đường là thích hợp nhất. Ví dụ: Bài 23 trang 98 sgk địa lí lớp 12( thực hành) Cho bảng số liệu sau: bảng 23.1 giá trị sản xuất ngành trồng trọt (theo giá trị so sánh 1994 đơn vị : tỉ đồng) Năm Tổng số Lương thực Rau đậu 1990 49604.0 33289.6 3477.0 1995 66183.4 42110.4 4983.6 2000 90858.2 55163.1 6832.4 2005 107897.6 63852.5 8925.2 Vẽ biểu đồ đường biểu diễn tốc độ Cây công Cây ăn Cây khác nghiệp quả 6692.3 5028.5 1116.6 12149.4 5577.6 1362.4 21782.0 6105.9 1474.8 25585.7 7942.7 1588.5 tăng trưởng giá trị sản xuất của các nhóm cây trồng. Như vậy câu hỏi trong bài tập này là dạng câu hỏi chỉ định, vì vậy học sinh phải lựa chọn dạng biểu đồ đường biểu diễn để vẽ. + Câu hỏi mở: Khi đề bài yêu cầu vẽ biểu đồ nhiệt độ từng tháng trong năm ở một địa phương nào đó, hoặc khi đề xuất hiện một trong các cụm từ: phát triển”, “tăng trưởng”, “tốc độ gia tăng”,... thì vẽ biểu đồ đường là tốt nhất. Ví dụ: Bài 6 trang 74 sách ôn tập tốt nghiệp địa lí lớp 12: Dân số và sản xuất lương thực ở đồng bằng sông Hồng. Chỉ số Dân số 1995 2000 16137 17039 13 2004 2005 17836 18028 ( nghìn người) Diện tích gieo trong cây lương thực có hạt 1117 1306 1246 1221 ( nghìn ha) Sản lượng lương thực có hạt 5340 6868 7054 6518 403 396 362 ( nghìn tấn) Bình quân lương thực có hạt theo đầu 331 người (kg) Vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện tốc độ tăng trưởng của các chỉ số có trong bảng số liệu, giai đoạn 1995-2005 Như vậy câu hỏi trong bài tập có cụm từ tốc độ tăng trưởng , vì vậy học sinh phải lựa chọn dạng biểu đồ đường biểu diễn để vẽ. + Câu hỏi kín: Với câu hỏi kín “ Cho bảng số liệu sau...... Hãy vẽ biểu đồ thích hợp và nêu nhận xét” thì học sinh phải chú ý đến đặc điểm của bảng số liệu. Nhận dạng biểu đồ đường biểu diễn qua đặc điểm của bảng số liệu: Số liệu thể hiện một hay nhiều đối tượng có cùng một hay nhiều đại lượng nhưng các hiện tượng đó được phát triển theo chuỗi thời gian. Lưu ý nếu trong trường hợp nhiều đối tượng nên có nhiều đại lượng tính khác nhau thì học sinh phải tính toán và chuyển các đại lượng đó thành một đại lượng duy nhất (%). Ví dụ: Cho bảng số liệu dưới đây: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa các năm của nước ta trong thời kì 1997-2000. Năm 1990 Diện tích(nghìn ha) 6042,8 Năng suất(tạ/ha) 31,8 Sản lượng(nghìn tấn) 19225,1 1993 6559,4 34,8 22836,5 1995 6765,6 36,9 24963,7 1997 7099,7 38,8 27523,9 1998 6362,7 39,6 29145,5 2000 7666,3 42,4 32519,5 Vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện tốc độ tăng trưởng về diện tích, năng suất và sản lượng lúa cả năm trong thời kì 1990-2000. 14 Như vậy câu hỏi trong bài tập có cụm từ tốc độ tăng trưởng , vì vậy học sinh phải lựa chọn dạng biểu đồ đường biểu diễn để vẽ. d. Biểu đồ miền: * Tác dụng của biểu đồ: Biểu đồ miền dùng để thể hiện sự thay đổi về cơ cấu ( còn gọi là chuyển dịch cơ cấu ) và động thái của sự biến đổi cơ cấu qua thời gian dài liên tục. *Cách nhận biết dạng biểu đồ miền: - Cách nhận dạng biểu đồ miền qua câu hỏi thực hành: + Dạng câu hỏi chỉ định: Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Em hãy vẽ biểu đồ miền......” Ví dụ: Trong chương trình sgk địa lí ôn tập lớp 12 trang 71 Vẽ biểu đồ miền về sự thay đổi cơ cấu giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của nước ta, giai đoạn 1990-2005. Năm 1990 Xuất khẩu 46.6 Nhập khẩu 53.4 Vơí yêu cầu cụ thể trên 1992 1995 1999 50.4 40.1 49.6 49.6 59.9 50.4 học sinh chỉ vẽ biểu biểu đồ miền là 2005 46.9 53.1 thích hợp nhất +Câu hỏi mở: Khi đề bài xuất hiện một trong những cụm từ: “thay đổi cơ cấu”, “chuyển dịch cơ cấu”, “thích hợp nhất để chuyển dịch cơ cấu”,... Ví dụ: Cho bảng số liệu saoo ( đơn vị %) Năm Nông, lâm, ngư nghiệp 1990 38,7 1995 27,2 1998 25,8 2000 24,5 2003 22,5 Công nghiệp-xây dựng 22,7 28,8 32,5 36,7 39,5 Dịch vụ 38,6 44,0 41,7 38,8 38,0 Vẽ biểu đồ thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu GDP của các ngành kinh tế ở nước ta trong thời kì 1990-2003. Như vậy trong câu hỏi có cụm từ “ sự chuyển dịch cơ cấu” nên học sinh lựa chọn biểu đồ miền là thích hợp nhất. - Nhận dạng biểu đồ miền qua đặc điểm của bảng số liệu: 15 Thông thường để vẽ được biểu đồ miền thì số liệu phải có ít nhất từ 2 số liệu và 3 thời điểm trở lên. Số liệu thích hợp nhất cho vẽ biểu đồ miền thường thể hiện có 3 đối tượng và 4 thời điểm trở lên.Ví dụ như bảng số liệu ở phần trên.Các số liệu này có thể là bằng giá trị tương đối, hoặc có thể bằng giá trị tuyệt đối. Nếu là giá trị tuyệt đối buộc học sinh phải xử lí số liệu: tính toán để chuyển từ giá trị tuyệt đối sang giá trị tương đối(%). e. Biểu đồ kết hợp: * Tác dụng của biểu đồ kết hợp: Thường kết hợp giữa biểu đồ cột và đường, được dùng để diễn tả mối tương quan về động lực phát triển giữa 2 đối tượng địa lí có kích thước đo khác nhau. * Cách nhận biết dạng biểu đồ kết hợp: (đường và cột) - Cách nhận dạng biểu đồ kết hợp qua câu hỏi thực hành: + Dạng câu hỏi chỉ định: Khi đề bài yêu cầu cụ thể: “Em hãy vẽ biểu đồ kết hợp...” Ví dụ: Cho bảng số liệu sau: Năm Diện tích (nghìn ha) 1980 22,5 1985 44,7 1990 119,3 1995 186,4 1997 270,0 Sản lượng (nghìn tấn) 8,4 12,3 92,0 218,0 400,0 Em hãy vẽ biểu đồ kết hợp ( cột, đường) thể hiện diễn biến diện tích và sản lượng cà phê giai đoạn 1980-1997. + Câu hỏi mở: Khi đề bài có cụm từ: “ Hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất....” Ví dụ: Dựa vào bảng số liệu trang 64 sgk địa lí ôn tập tốt nghiệp lớp 12 Số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị nước ta thời kì 1985-2003. Năm 1985 1990 1995 2000 2003 Tiêu chí Số dân thành thị(nghìn 11360,0 12880,3 14938,1 18771,9 20869,5 người) 16 Tỉ lệ dân thành thị(%) 18,97 19,51 20,75 24,18 25,80 Hãy vẽ biểu đồ kết hợp thể hiện sự thay đổi số dân thành thị và tỉ lệ dân thành thị nước ta thời kì 1985-2003. Như vậy câu hỏi trong bài tập có hai đối tượng với hai đại lượng khác nhau cho nên học sinh phải lựa chọn dạng biểu đồ kết hợp cột và đường để vẽ là phù hợp nhất. - Nhận dạng biểu đồ kết hợp qua đặc điểm của bảng số liệu: Trong bảng số liệu để thể hiện kĩ năng biểu đồ kết hợp thường có 2 đối tương , Với 2 đại lượng khác nhau (đơn vị tính khác nhau) và chỉ số đại lượng của các đối tượng đó thay đổi theo chuỗi thời gian. Ví dụ như các bảng số liệu ở 2 ví dụ trên . Như vậy muốn nhận dạng đúng biểu đồ trước khi vẽ học sinh phải nắm được cách nhận biết từng dạng biểu đồ. Phần thứ ba KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ: 1. Những kết qủa đạt được sau khi thực hiện các biện pháp nêu trên: Sau khi tiến hành rèn luyện cho học sinh “kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ” được lồng ghép trong các giờ thực hành và cuối các giờ học, tôi nhận thấy hiệu quả đem lại rất khả quan. Số lượng học sinh vẽ biểu đồ đúng và chính xác cao hơn. Vì vậy kết quả kiểm tra đánh giá trong các bài kiểm tra thực hành và các bài kiểm tra khảo sát chất lượng giữa kì, cuối kì của học sinh đạt kết quả cao hơn nhiều so với thời điểm chưa áp dụng biện pháp này. *Kết quả khảo sát sau khi tiến hành biện pháp hướng dẫn cho học sinh ki năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ ở bài khảo sát. Thời gian tiến hành thử nghiệm: ở học kì I sau khi tác động kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất. 17 Đối tượng thử nghiệm: học sinh lớp 12A9 và 12A10 tổng số học sinh khảo sát là 76 học sinh (qua phiếu thăm dò phụ lục) Số lượng (tỉ lệ) Kĩ năng Số lượng Tỉ lệ (học sinh) (%) Rất thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 20 26.3 Thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 50 65.9 Tương đối thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 6 7.8 Chưa thành thạo cách lựa chọn dạng biểu đồ 00 00 Qua bài kiểm tra 15 phút ( nội dung ở phần mục lục). Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm là TBC = 7.3, kết quả bài kiểm tra bài kiểm tra tương ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6.4. độ chênh lệch điểm số giữa hai nhóm là 0.9. Điều đó cho thấy điểm TBC của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng 18 Biểu đồ so sánh điểm trung bình trước tác động và sau tác động của nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Thông qua việc sử dụng phương pháp này giúp cho học sinh hiểu rõ hơn về ý nghĩa của kĩ năng biểu đồ, đặc biệt học sinh có thể vận dụng những kĩ năng đó vào làm các bài tập thực hành, các bài kiểm tra đánh giá đạt kết quả cao hơn, bên cạnh đó phương pháp này còn phát huy được tính tích cực sáng tạo và hứng thú của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức. 2. Kết luận: Căn cứ vào kết quả thực nghiệm “rèn luỵên cho học sinh ki năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ” ở trường THPT, cùng với sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này tôi thấy rằng việc ứng dụng kĩ năng trong quá trình giảng dạy Địa lí là một kinh nghiệm dạy học tích cực, phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Thông qua việc sử dụng phương pháp này sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn về ý nghĩa của kĩ năng biểu đồ, đặc biệt học sinh có thể vận dụng những kĩ năng đó vào làm các bài tập thực hành, các bài kiểm tra đánh giá đạt kết quả cao, bên cạnh đó phương pháp này còn phát huy được tính tích cực sáng tạo và hứng thú của học sinh trong việc lĩnh hội kiến thức. 19 3. Giải pháp đề xuất –kiến nghị: Giáo viên cần quan tâm tới việc rèn luyện kĩ năng Địa lí cho học sinh ngay từ đầu cấp, đặc biệt là “ kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ” bởi những kĩ năng này sẽ luôn theo sát các em trong cả chương trình học ở cấp THPT. Trong phương pháp vẽ biểu đồ nhiều giáo viên đôi lúc chưa xác định đúng các dạng biểu đồ thích hợp nhất trong quá trình giảng dạy nên đề nghị sở giáo dục có chương trình bồi dưỡng về “kĩ năng lựa chọn biểu đồ thích hợp nhất trước khi vẽ” để góp phần tích cực hơn trong đổi mới phương pháp dạy học. Các trường cần tăng cường các phương tiện dạy học tối thiểu, cần thiết cho việc giảng dạy và học tập bộ môn như: bản đồ kinh tế xã hội mới nhất , những bản phụ lục số liệu mới nhất về kinh tế xã hội ,…đặc biệt là các tài liệu tham khảo cho giáo viên để giáo viên có điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy và học tập Địa lí. Hiện nay có nhiều phần mềm vẽ biểu đồ hiện đại nhưng phần lớn giáo viên chưa sử dụng và khai thác để ứng dụng trong giảng dạy được đề nghị trường và sở giáo dục đào tạo tập huấn về phương pháp vẽ biểu đồ để giáo viên thực hiện tốt hơn trong công tác giảng dạy. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan