PHM QUNH
Logic häc
PhËt gi¸o
NHÀ XUT BN ĐI HC QUC GIA HÀ NI
2
Logic hc Ph
t giáo
Logic häc
PhËt gi¸o
Mc lc
3
Mc lc
Trang
LI GII THIU ..............................................................................................................5
Chương 1
LOGIC HỌC PHẬT GIÁO
- NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN ..................................... 11
1.1. Những tư tưởng Logic học Phật giáo thời kì tiền Dignāga............................ 17
1.2. Thực tại luận và nhận thức luận trong triết học Phật giáo ............................. 63
1.3. Cuộc canh tân Logic học cổ Ấn Độ của Dignāga và Dharmākirti................ 70
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LOGIC HỌC PHẬT GIÁO ..................... 89
2.1. Mục đích, phạm vi của Logic học Phật giáo ...................................................... 89
2.2. Hiện lượng và các loại hiện lượng ....................................................................... 99
2.3. Tỷ lượng và các loại tỷ lượng.............................................................................. 110
2.4. Phi lượng và các loại phi lượng .......................................................................... 149
Chương 3
GIÁ TRỊ NHẬN THỨC CỦA LOGIC HỌC PHẬT GIÁO ............................... 161
3.1. Giá trị của Logic học Phật giáo nhìn từ góc độ nhận thức luận .................. 161
3.2. Giá trị của Logic học Phật giáo nhìn từ góc độ Logic hình thức ................. 175
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
Logic hc Ph
t giáo
Li gii thiu
5
LêI GiíI THIÖU
Logic học Phật giáo (còn có tên gọi theo âm Hán - Việt là Nhân
Minh học Phật giáo,
因明學佛教) là một nội dung lớn trong hệ thống
triết học Phật giáo. Logic học Phật giáo vừa có sự phát triển nội tại do
nhu cầu truyền giáo có phương pháp, vừa có sự kế thừa những phương
pháp lập luận sẵn có của Ấn Độ cổ đại. Những phương pháp lập luận ấy
vốn là tinh hoa của triết học Ấn Độ, đến Phật giáo nó lại được “chưng
cất” một lần nữa để rồi có sức lan tỏa khắp lục địa châu Á. Logic học
Phật giáo cũng là một trong những phương pháp tư duy logic của người
phương Đông.
Vì vậy, nghiên cứu Logic học Phật giáo góp phần làm sáng tỏ một
trong những phương thức tư duy của người phương Đông. Hơn nữa,
nghiên cứu Logic học Phật giáo góp phần hiểu một cách sâu sắc hơn
triết học Phật giáo.
Việt Nam là một nước có số dân tin và theo Phật giáo chiếm tỷ lệ
khá lớn. Trong lịch sử cũng như hiện tại và tương lai, Phật giáo còn có
ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc. Những công trình nghiên cứu tiếp cận
Phật giáo với tư cách một tôn giáo, một hệ thống triết học ở nước ta đã
có khá nhiều, nhưng những công trình nghiên cứu về Logic học của
Phật giáo thì chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Phải chăng người
phương Đông không có Logic học? Hay là vì nó là chuyên ngành hẹp
không đáng để quan tâm nghiên cứu? Hay là chỉ có Logic học châu Âu
mới là duy nhất đúng đắn còn những phương thức suy luận khác thì
không có giá trị gì đáng kể? Sự thực không phải như vậy. Trong suốt
những năm đầu của thế kỷ XX đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều
Logic hc Ph
t giáo
6
công trình nghiên cứu về Logic học Phật giáo. Trước chân lý, mọi ngành
khoa học ở mọi châu lục đều bình đẳng. Đó là sự bình đẳng về mặt giá trị. Vì
vậy, nghiên cứu để tìm ra giá trị của Logic học Phật giáo là một nhu cầu
cấp thiết.
Trong lịch sử, trước khi có sự xâm lược của thực dân Anh vào Ấn Độ,
Trung Quốc… thì Logic học Phật giáo ở Ấn Độ và Trung Quốc, Nhật
Bản,… đã có lịch sử hàng nghìn năm nghiên cứu, chú giải. Sau khi
Dignāga (phiên âm Hán – Việt là Dignāga
陳那, khoảng 450 – 520) định
hình được cái gọi là Logic học Phật giáo trong hai tác phẩm Pramāņasamuccaya, Hetu-cakra-hamaru thì các thế hệ học trò của ông liên tục nghiên
cứu và phát triển môn khoa học này. Trong đó phải kể đến Dharmakīrti
(phiên âm Hán – Việt là Pháp Xứng
法稱, khoảng 635 – 695), học trò xuất
sắc gián tiếp của Dignāga, người được các học giả phương Tây ví như
Aristotle của Ấn Độ đã có công hoàn thiện Logic học Phật giáo. Ông
không những hiểu thấu đáo và chú giải hầu hết các tác phẩm của
Dignāga mà còn chỉ ra được những hạn chế và không nhất quán của
Dignāga. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XIV, tại
Ấn Độ liên tục xuất hiện các tác phẩm nghiên cứu, chú giải của các luận
sư Phật giáo, đặc biệt là các luận sư của phái Mũ Vàng Phật giáo Tây
Tạng, điển hình là Tsong-kha-pa (Tống Khách Ba 1357 – 1419), người đã
có công tìm thấy và chú giải một tác phẩm đặc biệt quan trọng của
Dharmakīrti. Đó là tác phẩm Pramāņa-varttika, một trong những tác phẩm
có trật tự kết cấu trái ngược hoàn toàn với quan điểm chung của triết
học Ấn Độ, gây nên sự chú ý lớn cho các nhà bình luận và chú giải thời
bấy giờ.
Tại Trung Quốc, những nghiên cứu về Logic học Phật giáo không
được phong phú bằng những nghiên cứu thuộc về các lĩnh vực tôn
giáo. Sau chuyến ‘Tây du’ kéo dài gần 17 năm, pháp sư Huyền Trang
(
玄奘 600 – 664) đã mang về Trung Quốc một số lượng kinh điển Phật
giáo đồ sộ, nhưng không hiểu vì lý do gì, ông chỉ tổ chức dịch hai tác
phẩm không mấy cơ bản của Logic học Phật giáo, đó là Nyāya-pravesa
Li gii thiu
7
(Chính lý môn luận bản) của Dignāga và Hetuvidya nyāya-pravesa-śāstra
(Nhân minh nhập chính lý luận) của Sankara Svāmin (khoảng 550 SCN),
mà không tổ chức dịch các tác phẩm quan trọng hơn. Hai tác phẩm này
thông qua con đường Hán dịch lại trở nên rất nổi tiếng ở Trung Quốc,
Nhật Bản và Việt Nam. Những người tiếp bước Huyền Trang dịch và
chú giải Logic học Phật giáo phải kể đến hai học trò kiệt xuất của ông
là Khuy Cơ, Huệ Chiểu...
Trong suốt chặng đường lịch sử hàng nghìn năm đó, những nghiên
cứu chủ yếu là của các nhà sư và đều có chung một đặc điểm là mang
tính chú giải, huấn hỗ, căn cứ vào từng câu, từng chữ của tác phẩm để
bàn chứ chưa vượt ra ngoài tác phẩm để đánh giá, nhận xét… Và một
điều rất dễ nhận ra là ngôn ngữ mà họ sử dụng đã quá cổ, mang đặc thù
Phật giáo, khiến người đọc, người học, người nghiên cứu rất khó khăn
khi tiếp cận.
Song song với việc áp đặt ách thực dân ở Ấn Độ, thực dân Anh tích
cực tổ chức nghiên cứu văn hóa Ấn Độ. Hàng loạt các học giả, với
phương pháp khá mới đã tìm thấy ở nơi đây mảnh đất văn vật còn
nguyên sơ, có đầy đủ các tố chất trên các lĩnh vực văn học, triết học, tôn
giáo, v.v... Logic học Ấn Độ, trong đó có Logic học Phật giáo cũng là một
trong những đối tượng được quan tâm nghiên cứu khá kỹ. Các tên tuổi
như TH. Stcherbatsky, G. Tucci, E. Steikellner, Rhys Davis, Pussin de
Valeé… là những người đầu tiên giới thiệu Logic học Phật giáo sang
châu Âu và đã gây được tiếng vang rất lớn. Điều đó càng kích thích các
học giả châu Âu, Mỹ, sau này là các học giả Trung Quốc, Ấn Độ nghiên
cứu sâu rộng hơn về Logic học Phật giáo. Một cách khái quát nhất,
chúng tôi có thể phân nhóm các lĩnh vực mà họ đã nghiên cứu với
những tác phẩm tiêu biểu như sau.
Nhóm thứ nhất là những tác giả có tác phẩm nghiên cứu về lịch sử
Logic học Phật giáo. Đó là các công trình nghiên cứu của: 1/ Hư Ngu:
Giản thuật quá trình phát triển của Nhân minh học, Hiện đại Phật học, 1958,
kỳ 1-2; 2/ Lã Trừng: Những bước phát triển đầu tiên của Nhân minh học tại
Logic hc Ph
t giáo
8
Trung Quốc, Giang Hải Phật San, 1962, kỳ 3; 3/ Chu Văn Anh: Lược sử
Logic học Ấn Độ, Giang Tây thư viện học báo, Triết xã bản, kỳ thứ 3 năm
1981 và kỳ thứ 3 năm 1982; 4/ Thẩm Kiếm Anh: Giản luận về Đông triết và
quá trình phát sinh, phát triển của Nhân minh học, Khoa học xã hội xuất bản xã,
1982; 5/ G. Tucci: Những văn bản logic Phật giáo tiền Dignāga từ nguồn Trung
Quốc, GOS, N0 XLIX, 1929; 6/ G. Tucci: Logic Phật giáo tiền Dignāga (Asańga,
Vasubandhu, Tarka-śāstra), JRAS, 1929, p.451-488; 7/ S.C. Vidyabhusana:
Lịch sử logic Ấn Độ (cổ đại, trung đại, hiện đại), Motilal Banarsidass, 1984,
Delhi; 8/ Alex Wayman: Một thiên niên kỷ Logic học Phật giáo, Motilal
Banarsidass, 2002, Delhi.…
Nội dung của những tác phẩm này tập trung giới thiệu các tác giả,
tác phẩm Logic học Phật giáo, trong đó ít nhiều có sự đánh giá, nhận
định so sánh Logic học Phật giáo với logic phương Tây. Đáng chú ý
nhất là tác phẩm của S.C. Vidyabhusana1, đây là một trong những tác
phẩm mang tính kinh điển cho những ai quan tâm đến Logic học Ấn
Độ nói chung và Logic học Phật giáo nói riêng. Tác phẩm này không
những là một khảo cứu sâu rộng về tất cả các trường phái Logic học ở
Ấn Độ từ cổ đại đến hiện đại, mà nó còn có những gợi ý quan trọng
giúp người nghiên cứu đi sâu hơn về từng lĩnh vực của Logic học Ấn
Độ, đặc biệt là Logic học so sánh. Chẳng hạn, trong Phụ lục B, ông đã
đưa ra một số luận điểm cho rằng Logic học Ấn Độ chịu ảnh hưởng
Logic học của Aristotle2.
Nhóm thứ hai là những tác giả có tác phẩm nghiên cứu bản chất của
Logic học Phật giáo và so sánh nó với Logic học phương Tây. Họ là
những tác giả có tác phẩm nghiên cứu về từng khía cạnh hoặc từng tác
phẩm riêng lẻ của các luận sư Logic học Phật giáo, chủ yếu là các tác
phẩm của Dignāga và Dharmakīrti. Bên cạnh đó, họ còn là những dịch
giả chuyển ngữ lần lượt các tác phẩm quan trọng của Logic học Phật
1
Tác phẩm ra mắt bạn đọc lần đầu tiên vào năm 1920, tại Calcutta.
2
Vidyabhusana, S.C., A History of Indian Logic (Ancient, Mediaeval and Modern
Schools), Motilal Banarsidass, Delhi, Indian, (1988), p.497.
Li gii thiu
9
giáo sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Trung
Quốc. Họ là những nhà Đông phương học nổi tiếng như: Stcherbatsky
(Nga), Pussin de Vallee (Pháp), vợ chồng ông bà Rhys Davids (Anh), E.
Steikellner (Đức), Lã Trừng (Trung Quốc), Thái Hư (Trung Quốc) …
Những học giả này đã thực hiện được những nghiên cứu quan trọng
như sau:
Một là, tổng quan về Logic học Phật giáo. Đó là công trình Buddhist logic
của Stcherbatsky. Trong hai tập đồ sộ, ông không những giới thiệu một
cách sâu rộng về Logic học Phật giáo mà còn chỉ ra tương quan của nó
với các trường phái triết học khác của Ấn Độ lúc bấy giờ. Ông không
những so sánh Logic học Phật giáo với một số tư tưởng Logic học
phương Tây mà còn cung cấp cho bạn đọc một công trình dịch thuật
xuất sắc tác phẩm Nyāya-bindu-tikka, một tác phẩm quan trọng của
Dharmakīrti được Dhamottara chú giải, thêm vào đó là trích dịch một số
văn bản triết học Phật giáo có liên quan đến Logic học Phật giáo… Đó là
công trình của: 1/Thái Hư: Nhân minh khái luận, pháp tướng duy thức học,
Thương vụ ấn thư quán, 1936; 2/ Lã Trừng: Nhân minh cương yếu, Nhân
minh nhập chính lý luận giảng giải,…in trong Tuyển tập các luận trước Phật
học của Lã Trừng, 1998; 3/ Thạch Thôn: Nhân minh thuật yếu, Trung Hoa
thư cục, Bắc Kinh, 1981;…
Hai là, nghiên cứu riêng từng tác phẩm của các luận sư Logic học Phật
giáo. Các tác giả thuộc nhóm này hầu hết là các giả tương đối thành thục
phương pháp nghiên cứu khoa học phương Tây, đặc biệt là Logic học.
Vì vậy, họ có nhiều kiến giải, đánh giá khá sâu sắc giá trị của Logic học
Phật giáo. Điển hình cho việc áp dụng logic mệnh đề, logic vị từ để
nghiên cứu khía cạnh logic hình thức của Logic học Phật giáo phải kể
đến công trình của Giáo sư R.S.Y. Chi: Buddhist Formal logic, Motilal
Banarsidass, Delhi, India, 1990. Tác giả vận dụng triệt để các kiến thức
logic toán, sơ đồ Venn để luận giải tính hợp lý cũng như không hợp lý
của lý thuyết Logic học của Dignāga. Dưới góc độ Logic học hình thức,
để nghiên cứu Logic học hình thức Phật giáo chưa có tác phẩm nào vượt
được tác phẩm này. Ngoài ra, còn có một số công trình như của M.R.
Logic hc Ph
t giáo
10
Chinchore: Lý thuyết Hetu - trung tâm phép suy luận của Dharmakīrti,
Delhi, 1989; B.K. Matilal: Đặc trưng của Logic học Ấn Độ, Oxford
University press, 1999; V. Peckhaus: Logic phát minh của Dignāga, I.N.S.A,
University of Delhi, New Delhi, 2001; G. Tucci: Ghi chú về tác phẩm
Nyāya-pravesa của Sankara Svāmin, J.R.A.S April 1931, p. 81-413;
S.C.Vidyabhushana Hetu-cakra-hamaru hay nhân luân luận của Dignāga,
J.A.S, vol. 3, 1907; K.K.Chakrabarti: Vấn đề tự nhân trong Logic học của
Dharmakīrti, Philosophy East & West, vol. 41, No 4, p. 477–491, 1991; Lã
Trừng: Bàn về Nhân minh của Pháp Xứng (Dharmakīrti), Nhân luân luận đồ
giải, Nhân luân luận quyết trạch, Tập lượng luận yếu giải… in trong Tuyển
tập luận trước Phật học của Lã Trừng, 1998;…
Riêng ở Việt Nam, theo như tác giả tìm hiểu, hiện nay có một số tác
phẩm viết về Logic học Phật giáo, như: Thích Thiện Siêu: Lối vào Nhân
minh, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1994; Thích Đổng Quán:
Nhân minh luận, Thành hội Phật giáo Hồ Chí Minh, 1996; Thích Trí Độ
và Tô Duy Hợp: Nhân minh học, Giáo hội Phật giáo Hà Tây, 1997; Nhất
Hạnh: Luận lý học Đông phương, Hương Quê xuất bản, 2000; Minh Chi:
Nhân minh học Phật giáo, Nxb Tôn giáo, 2005; Thích Kiên Định: Khảo sát
lịch sử và tư tưởng Nhân minh luận Phật giáo, Nxb Thuận Hoá, Huế,
2012; Nguyễn Khuê: Luận Lý học Phật giáo, Nxb Hồng Đức, 2013… Các
tác giả này hầu như chỉ căn cứ vào một tác phẩm duy nhất của Sankara
Svāmin (phiên âm Hán-Việt là Thương Yết La Chủ) – Nhân minh nhập
chính lý luận, một tác phẩm tóm tắt, mang tính nhập môn của Logic học
Phật giáo.
Như vậy, Logic học Phật giáo đã được nghiên cứu khá nhiều và ở
những mức độ khác nhau trên thế giới, từ góc độ lịch sử đến nội dung,
từ nội dung khái quát đến nội dung chi tiết…
Cuốn sách nhỏ này là những nỗ lực đầu tiên của tác giả trong quá
trình tìm hiểu giá trị của Logic học Phật giáo. Phật pháp mênh mông
như biển, những kiến giải của tác giả có điều gì chưa được chính xác, xin
độc giả chỉ giáo thêm.
Ch−¬ng 1
LOGIC HỌC PHẬT GIÁO
- NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
Logic học Ấn Độ là một trong ba hệ thống logic học truyền thống
trên thế giới. Logic học Ấn Độ có hai học phái logic học chủ yếu: Nyāya
(Chính lý) và Logic học Phật giáo (Nhân minh học). Chính lý là một loại
logic học, gồm cổ Chính lý và tân Chính lý. Nhân minh học là logic học
Phật giáo, xây dựng từ nền tảng từ cổ chính lý. Nhân minh cũng bao
gồm tân Nhân minh và cổ Nhân minh.
Trong quá trình nghiên cứu lý luận logic học, Chính lý phái chú
trọng việc đạt được những tri thức chính xác, thanh lọc những tri thức
sai lầm, từ đó nghiên cứu một cách sâu sắc đối tượng và phương pháp,
hình thức và quá trình, động cơ và tư liệu suy lý luận chứng cùng với
thuật biện luận… Đến thế kỷ thứ III - IV, học thuyết này đã được hệ
thống hoá thành Chính lý kinh (
正理經 Nyāya-sutra). Luận thức ngũ chi
tác pháp do Chính lý phái sáng lập bao gồm: Tôn, nhân, dụ, hợp, kết.
Thế kỷ thứ IV, đại sư của Đại thừa Du già hành tông là Vasubandhu
(phiên âm Hán Việt là Thế Thân
世亲, hoặc Thiên Thân 天亲) đã tiếp thu
và phát triển thành quả của Chính lý phái, bước đầu xây dựng hệ thống
tam chi tác pháp của Nhân minh học. Đến thế kỷ thứ V, Dignāga (phiên
âm Hán - Việt là Dignāga
陳那) đã tiến hành cải tạo về căn bản cổ nhân
minh, trở thành người sáng lập ra tân nhân minh Phật giáo. Thế kỷ thứ
法稱) tiếp tục phát
triển học thuyết nhân minh. Tác phẩm Nhân minh thất luận (因明七論)
VII, Dharmakīrti (phiên âm Hán Việt là Pháp Xứng
Logic hc Ph
t giáo
12
của ông được người đời sau rất chú trọng, có ảnh hưởng lớn ở vùng Tây
Tạng. Các nhà logic học Phật giáo có sự kết hợp những đặc trưng giáo lý
của mình với nền tảng logic học, tại Ấn Độ, sau ngày thế lực Phật giáo
suy tàn, sức ảnh hưởng của nó đến tư tưởng logic học của Jaina giáo (Kỳ
Na giáo) và Chính lý giáo vẫn được tiếp tục và phát huy. Thông qua con
đường Bắc truyền và Nam truyền, Nhân minh học tiếp tục tiến nhập vào
Đông Á và Đông Bắc Á.
Tại Ấn Độ, sau khi Dharmakīrti tạ thế, Nhân minh học chia thành
nhiều bộ phái. Hiện tượng này trong Tạng kinh gọi là “Dharmakīrti hậu
học”. Có các bộ phái sau:
Thích văn phái (còn gọi là Ngôn ngữ phái). Phái này chú trọng so
sánh, giải thích văn ngôn trong trước tác của Dharmakīrti. Đại biểu chủ
yếu có Devedrabuddhi (Đế Thích Huệ), Luật Thiên, Thích Già Huệ, La
Hầu La… Trong đó, Đế Thích Huệ là đệ tử của Dharmakīrti, đã chú
thích ba chương sau cuốn Thích lượng luận (
釋量論) của Dharmakīrti.
Nghe nói Thích Già Huệ là học trò của Đế Thích Huệ, Ông đã viết Thích
lượng luận quảng chú (
釋量論廣注) tiếp tục chú giải lại những gì Đế Thích
Huệ đã làm. Luật Thiên là hậu học của Thích Già Huệ, chú giải hơn 5 bộ
luận nhân minh ngoài Thích lượng luận (
(
量抉定論) của Dharmakīrti.
釋量論), Lượng quyết thích luận
Xiển nghĩa phái (còn gọi là Triết học phái). Phái này chú trọng việc
trình bày, phát huy và nghiên cứu những tư tưởng của Dharmakīrti. Đại
biểu có Dhamottāracarya (Pháp Thượng). Pháp Thượng có Chính lý trích
正理滴論疏), chú thích tường tận tác phẩm Chính lý trích luận
(正理滴論 Nyāya-bindu), đồng thời, chỉ ra những sai lầm của Luật Thiên
trong tác phẩm Chính lý trích luận quảng chú (正理滴論廣注). Trước tác
của ông còn có Lượng quyết thích luận sớ (量抉釋論疏), cuốn sách này
luận sớ (
được cho là đã làm rõ được những ý nghĩa sâu sắc trong tác phẩm của
Dharmakīrti.
Chơng 1. Logic hc Ph
t giáo – Ngun gc hình thành...
13
Giáo nghĩa phái. Phái này cho rằng, tinh nghĩa của tác phẩm Nhân
minh thất luận của Dharmakīrti không chỉ có học thuyết về suy luận,
nhận thức, mà còn có cả giáo nghĩa Đại thừa trong đó như Phật thân,
Phật tính… Đại biểu chủ yếu của phái này có Trí Sinh Hộ, tác phẩm chủ
釋量論庄嚴疏), trong
đó đặc biệt chú trọng chú dịch Thành lượng phẩm (成量品), tập trung
yếu của Ông có Thích lượng luận trang nghiêm sớ (
công sức chứng minh Phật có thể thành chính lượng. Sau Trí Sinh Hộ,
phái này phân thành ba nhánh nhỏ, một nhánh lấy Nhật Hộ làm đại
biểu, một nhánh lấy Thắng Giả làm đại biểu, một nhánh lấy Dạ Ma Lợi
làm đại biểu.
Tại Trung Quốc, khoảng năm Thái Thường thứ 6 (421) thời Bắc
Nguỵ, trong bản dịch của tăng nhân Ấn Độ, tác phẩm Đại Ban Niết Bàn
大般涅槃經
方便心論
kinh (
) đã có luận thức Cổ Nhân minh. Sau đó, Chân Đế đã
dịch các trước tác của Cổ Nhân minh như Phương tiện tâm luận
(
), Hồi Tránh luận (
), Như thực luận (
)… Thời
Đường, năm Trinh Quán thứ 15 (641), Huyền Trang từ Ấn Độ về nước
đã mang theo 36 bộ luận Nhân minh. Ông đã cho dịch Nhân minh chính
lý môn luận (
) của Dignāga và Nhân minh nhập chính lý luận
(
) của Sankara Svāmin, gọi là đại luận và tiểu luận. Hai
tác phẩm này trở thành tác phẩm kinh điển cơ bản đánh dấu cho sự
truyền thừa Nhân minh học vào Trung Quốc. Đầu thời Đường, học trò
của Huyền Trang đua nhau sớ giải hai bản luận này, việc học tập nghiên
cứu nhân minh trong giới Phật giáo phát triển mạnh mẽ trở thành
phong trào, những tác phẩm còn lại đến nay có Trang nghiêm sớ (
),
Lý môn luận thuật ký (
). Học trò của Khuy Cơ là Huệ Chiểu có
Nhân minh nghĩa đoạn (
), Nhân minh nhập chính lý luận nghĩa toản
yếu (
). Học trò của Huệ Chiểu là Trí Chu viết Nhân
minh luận sớ tiền ký (
), Hậu ký (
), Sao lược ký (
). Đạo Ấp có Nghĩa phạm (
) (đã thất lạc)… Ngoài ra, Nghĩa Tịnh
còn dịch ba bộ trước tác Nhân minh của Dignāga là Tập lượng luận
(
), Quán sở duyên luận (
), Nhân minh chính lý môn luận
(
), nhưng đa phần đều thất lạc. Trong những đệ tử của
回諍論
如实論
因明正理門論
因明 入正理論
理門論述記
因明義斷
因明入正理論義纂要
因明入正理論前記
記
義范
集量論
觀所緣論
因明正理門論
庄嚴疏
后記
抄略
Logic hc Ph
t giáo
14
Huyền Trang và những người tham gia dịch Kinh tạng, có rất nhiều
người Triều Tiên xin làm tăng nhân, như Viên Trắc đã sáng lập hệ thống
hệ thống Pháp tướng tông tây Triều Tiên, đệ tử của Viên Trắc là Đạo
Chinh sau khi về nước viết cuốn: Nhân minh nhập chính lý luận sớ
因明入正理論疏
(
)… Đạo Chinh lại truyền cho Thái Hiền. Thái Hiền có
tác phẩm: Nhân minh luận cổ tích (
)… Đệ tử của Huyền Trang
là Thuận Cảnh có Nhân minh nhập chính lý luận sao (
),
Nguyên Hiểu có Du già luận trung thực (
). Thông qua những
tác giả, tác phẩm này, Nhân minh học đã được truyền bá đến phía Đông
Tiều Tiên. Việc truyền bá Nhân minh học tại Nhật Bản do Huyền Trang
và học trò của Trí Chu tiến hành. Học trò người Nhật Bản của Huyền
Trang là Đạo Chiêu sau khi về nước đã sáng lập Pháp tướng tông Nhật
Bản, lịch sử gọi là Nam tự truyền. Tăng nhân Nhật Bản Huyền Phưởng,
học trò của Trí Chu, sau khi về nước đã sáng lập Bắc tự truyền Pháp
tướng tông Nhật Bản. Tại Trung Quốc, sau khi Đường Vũ Tông khởi
xướng việc diệt Phật, Pháp tướng tông bị tàn lụi, Nhân minh cũng theo
đó mà suy vong, đến đời Thanh gần như là tuyệt học. Nhưng trái lại, ở
Nhật Bản, Nhân minh được truyền bá rất lâu dài mà không bị suy vong,
những tác phẩm sớ giải rất nhiều, có thể tới mười loại khác nhau, dễ
thấy nhất như Thu Trúc Thiện Sơn Chu có Nhân minh luận sớ minh đăng
), Phong Đàm có Nhân minh nhập chính lý luận đoan
sao (
nguyên ký (
)… Thời Cận đại, Dương Văn Hội coi
trọng Tân học, mang bộ Đại sớ (
) từ Nhật Bản trở về Trung Quốc, từ
đó mở đầu cho sự phục hồi Nhân minh học Hán truyền. Nếu như Nhân
minh học Ấn Độ truyền thống bất đồng trong việc tồn tại đồng thời tri
thức luận, logic học và phép biện luận, thì Nhân minh học Hán truyền
因明論古迹
因明入正理論抄
瑜伽論中实
因明論疏明灯抄
因明入正理論端源記
大疏
八門二益)
1 trong Nhân minh nhập chính lý luận
lấy bát môn nhị ích (
(
) của Sankara Svāmin làm khung giá căn bản, cấu thành
nên hệ thống logic biện luận. Về mặt nghĩa lý, trong quá trình phiên
因明入正理論
1
Bát môn nhị ích bao gồm: bát môn và nhị ích. Nhị ích là “tự ngộ” và “ngộ tha”;
Bát môn là “chân năng lập”, “tự năng lập”, “chân năng phá”, “tự năng phá”,
“chân hiện lượng”, “tự hiện lượng”, “chân tỷ lượng”, “tự tỷ lượng”.
Chơng 1. Logic hc Ph
t giáo – Ngun gc hình thành...
因三相
15
dịch thuật ngữ nhân tam tướng (
), Huyền Trang đã mở rộng thêm
những hạn chế của một số từ như “biến ”, “định ”…, tiến đến làm
遍
定
rõ quan hệ ngoại diên giữa các khái niệm. Đối với phương pháp “giản
biệt”, ông đã phân loại thành ba loại tỷ lượng (三 比 量) theo đối tượng,
bao gồm tự tỷ lượng, tha tỷ lượng và cộng tỷ lượng. Đối với vấn đề tôn,
nhân, đồng dụ và dị dụ, quan hệ giữa tôn hữu pháp và pháp… Huyền
Trang cùng với học trò các thế hệ thảo luận rất sâu sắc, thêm vào đó,
phát hiện nhiều loại lỗi Nhân minh trong quá trình lập luận, trong Đại sớ
), đã thống kê trên hai nghìn loại lỗi… Do đó đã hình thành nên
(
diện mạo riêng của Hán truyền Nhân minh học.
大疏
Tại Tây Tạng, Nhân minh học theo Phật giáo truyền nhập vào
Tây Tạng vào khoảng thế kỷ VII SCN. Tạng truyền Nhân minh học
đặc biệt chú trọng nội dung tri thức luận. Trong ngữ văn Tây Tạng
coi việc đạt được chân lý, tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý và phương
pháp truyền bá chân lý là những nội dung của “lượng học”, nên còn
được gọi là “Tạng truyền lượng học” hoặc gọi đơn giản là “lượng
học”, “lượng luận”.
Đến thế kỷ thứ XI, lấy Nga Lạc Đan Hỷ Nhiêu phân kỳ, trước ông,
chủ yếu giới thiệu và dịch các tác phẩm Nhân minh học Ấn Độ, gọi là
古量論). Sau ông, bắt đầu xuất hiện các trước tác do
Cổ lượng luận (
người Tạng viết, đồng thời cũng hình thành nên hệ thống phạm trù
Nhân minh “nhiếp loại” và tương ứng tiến hành thành lập luận thức đặc
sắc, gọi là "Tân lượng luận (
新量論). Ban đầu, Tịch Hộ và một người
Tạng là Pháp Quang cùng nhau dịch bộ sách Nhân luân quyết trạch luận
(
因輪抉擇論) của Dignāga; tiếp đó ba vị dịch giả lớn là Cát Tường Tích,
Trí Quân, Long Tràng tiếp tục dịch các trước tác của Dignāga,
Dharmakīrti cùng các tác phẩm sớ giải của những học giả Nhân minh
sau này, tổng cộng lên tới 19 loại khác nhau. Những nhân vật chủ chốt
của Tạng truyền Nhân minh học vẫn được quen gọi là: "Mã, Nga, Tát".
Mã tức là Mã Thiện Huệ - đệ tử của A Để Hiệp. Ông đã dịch và chú giải
釋量論), Tranh
một số tác phẩm của Dharmakīrti như Thích lượng luận (
Chính lý luận (
諍 正 理 論);
Nga tức Nga Lạc Đan Hỷ Nhiêu
Logic hc Ph
t giáo
16
(Candrarahula), khi còn học tập tại Kashmiri, đã cùng hợp tác với Lợi
Tha Hiền (Tin-ne hdsin bzan-po) dịch bộ sách Lượng quyết trạch luận
(
量抉擇論) của Dharmakīrti... Đến lúc này, tám bộ luận của Dignāga và
bảy bộ luận của Dharmakīrti đều đã được dịch ra Tạng văn. Hiệp Ba
Khúc Cát Sâm Cách (cũng dịch là Hiệp Ba Khúc Lâm) là một nhà Tân
lượng luận lớn, trước tác của Ông có Lượng quyết trạch luận quảng chú
(
量抉擇論廣註), Lượng luận nhiếp nghĩa khư tế luận (量 論 攝 義 袪 蔽 論),
lấy nghĩa lý Nhân minh học của Dharmakīrti khái quát thành 18 nhóm
phạm trù, sáng tạo ra một phương pháp mới trong việc "nhiếp loại"
Tạng truyền Nhân minh; Tát tức là Tát Ban Cống Cát Kiên Tán (Kundgah-rgyal-mtohan), Ông là tổ thứ tư của Phái Tát Ca (Sa-kya-pa).
Trước tác của Ông có Lượng lý tạng luận (
量理藏論). Đây là tác phẩm đại
biểu của Tạng truyền Nhân minh học trong giai đoạn Hoàng giáo hưng
khởi. Trong thế kỷ XIV, Bố Lại Bảo Thành viết cuốn Lượng quyết trạch
luận chú dịch minh hiển cú nghĩa luận (
量抉擇論註譯明显句義論). Tông
Khách Ba (Tsong-kha-pa: 1357 - 1419) là tổ đầu tiên của phái Cách Lỗ
(Hoàng giáo). Ông đã phát huy những tư tưởng giáo nghĩa của những
đệ tử Pháp Xứng, đồng thời dung hợp Nhân minh và Nội minh. Trước
因明七論入門), khai sáng
tác của Ông có Nhân minh thất luận nhập môn (
nên truyền thống Nhân minh học của Hoàng giáo. Bối Tào Kiệt viết
Trạch luận tụng năng vô điên đảo hiển thị giải thuyết đạo luận
擇論頌能无顛倒显示解 說道論); Khắc Châu Kiệt viết Nhân minh thất luận
trừ ám trang nghiêm luận (因明七論除暗庄嚴論)....
(
So với Hán truyền, Tạng truyền Nhân minh có mấy đặc điểm sau:
Thứ nhất, lấy giáo lý Đại thừa và tri thức luận làm trung tâm;
Thứ hai, trên phương diện lý luận, trực tiếp kế thừa Dharmakīrti và
các đệ tử của ông mà không phải là sự kế thừa Thương Yết La Chủ như
Nhân minh học Hán truyền.
Thứ ba, nhấn mạnh sự dung hợp giữa Nhân minh và Nội minh, lấy
việc học tập Nhân minh là con đường tất yếu để trở thành Phật.
Chơng 1. Logic hc Ph
t giáo – Ngun gc hình thành...
17
Thứ tư, trên phương diện giáo nghĩa, lấy Trung quán làm chủ, đồng
thời kiêm dung Đại, Sơn lưỡng thừa và học thuyết của các tông phái Du
già, Kinh bộ.
Thứ năm, trên phương diện hệ thống lý luận, đã hình thành nên hệ
thống phạm trù "nhiếp loại".
Thứ sáu, trên phương diện luận thức, đã hình thành luận thức
chuyên để bác bỏ, tiếp cận tam đoạn luận liên hoàn.
Thứ bảy, trên phương diện tu học, đã hình thành chế độ lấy biện
luận làm phương thức học tập, thi cử.
Tạng truyền đã khiến Nhân minh học được Phật giáo hoá hoàn toàn,
trở thành một hình thái Nhân minh phát triển ở trình độ rất cao.
Logic học Phật giáo, về cơ bản, có sự kế thừa và phê phán Logic học
của Ấn Độ cổ đại. Tuy nhiên, trong vấn đề nhận thức luận, thực tại luận
Logic học Phật giáo lại kế thừa của Kinh lượng bộ – Du già Phật giáo
(Sautrantika – Yogacara). Song song với sự kế thừa có phê phán đó, Phật
giáo phát triển những tư tưởng Logic học của riêng mình. Đó là kết quả
của sự phát triển nội tại trong chính triết học Phật giáo, do nhu cầu
tranh luận với các trường phái khác để bảo vệ và xây dựng học thuyết
của mình. Sự tích hợp của những nhân tố đó đã từng bước định hình
nên nội dung Logic học Phật giáo.
1.1. Những tư tưởng Logic học Phật giáo thời kì tiền Dignāga
Logic học Phật giáo có thể được chia thành hai thời kỳ lớn, thời kỳ
thứ nhất gọi là thời kỳ tiền Dignāga; thời kỳ thứ hai bắt đầu tính từ
Dignāga trở về sau. Cơ sở cho sự phân chia này căn cứ trên sự phát triển
của chính logic học Phật giáo. Trước Dignāga, Phật giáo không có tác
phẩm chuyên biệt viết về logic học, tuy nhiên trong giai đoạn này, trong
học thuyết Phật giáo đã manh nha và từng bước phát triển những tư
tưởng về logic học, đặc biệt là trong học thuyết của Trung quán tông
tiếp đến là Duy thức tông và định hình được cái gọi là logic học Phật
Logic hc Ph
t giáo
18
giáo trong Kinh lượng bộ – Du già, một trong những nhánh của Duy
thức tông, với các tên tuổi lớn như Dignāga, Sankara Svāmin,
Dharmakīrti. Dưới đây, chúng tôi lần lượt trình bày lược sử phát triển
những tư tưởng logic học Phật giáo thời kỳ tiền Dignāga.
1.1.1. Những tư tưởng Logic học Phật giáo trong thời kì Thượng Tọa Bộ
Trong Tam tạng (Tipitaka), chính xác hơn trong toàn bộ các văn bản
Pali, không có chuyên luận riêng bàn về Logic học. Tuy nhiên, những
vấn đề về Logic học được thể hiện rõ nét trong các cuộc tranh luận về
giáo lý, như trong các bộ Kinh Phạm Võng, Kinh Trung Bộ… Trong giai
đoạn này, mặc dù Phật giáo không để lại những tác phẩm chuyên biệt
về Logic học, nhưng cứ vào nội dung những cuộc tranh luận đó, có thể
rút ra một số chủ đề Logic học như sau.
•
Bn hình th$c v& t' ho)c bn s, l,a ch.n logic
Trong phương thức lập luận của Phật giáo có một nan đề bốn nhánh
như sau: “Nirvana (Niết bàn) tồn tại hoặc không tồn tại hoặc vừa tồn tại vừa
không tồn tại hoặc không tồn tại cũng không không tồn tại”. Poussin cho
rằng, nan đề bốn nhánh của Phật giáo vi phạm luật mâu thuẫn. Vì theo
ông “người Ấn Độ không tạo ra được sự phân biệt rõ ràng giữa sự kiện
và tư tưởng, giữa tư tưởng và văn ngôn”1. Bà Rhys David gọi nan đề
này là “các quy luật của tư tưởng”. Babua đi xa hơn gọi chúng là bốn
quy luật của tư tưởng, và ông công thức hoá dưới dạng các mệnh đề
như sau: 1/ (Nếu A là B), A là B; 2/ A không thể vừa là B vừa là không B;
3/ A hoặc là B hoặc là không B; 4/ A không là B cũng không là không B5.
Những luận điểm của Rhys David và Babua cho rằng nan đề đó là
những quy luật của tư tưởng là hoàn toàn sai lầm. Công thức ‘A không
là B cũng không là không B’ không phải là nguyên tắc phủ định kép: ‘A
không là không không A’, trên thực tế công thức này còn vi phạm luật
bài trung: ‘A hoặc là B hoặc là không B’. Mặt khác, nghiên cứu nan đề
4,5
Jayatilleke, K.N., Early Buddhist theory of Knowledge, Motilal Banarsidass
Publishers private, Delhi, Indian, (1998), p. 343.
Chơng 1. Logic hc Ph
t giáo – Ngun gc hình thành...
19
bốn nhánh này dưới góc độ bốn hình thức vị từ cũng đủ để chứng tỏ
chúng không phải là những quy luật của tư tưởng. Bốn hình thức vị từ
có thể biểu diễn như sau: 1/ S là P; 2/ S không là P; 3/ S là và không là P;
4/ S không là cũng không phải không là P.
Có thể thấy rằng (1) không phải là luật đồng nhất mà chỉ đơn thuần
là phán đoán nhất quyết khẳng định tuyệt đối (phán đoán A); (2) không
phải là luật mâu thuẫn mà chỉ đơn thuần là phán đoán nhất quyết phủ
định tuyệt đối (phán đoán E); (3) là sự phủ định của luật mâu thuẫn và;
(4) vi phạm luật bài trung. Bốn sự lựa chọn này, nói đúng hơn là bốn
phán đoán này tuy có nội dung khác nhau, nhưng không tất yếu sai lầm.
Tức là, sẽ có ít nhất một trường hợp đúng đắn. Logic về bốn sự lựa chọn
hướng tới làm sáng tỏ những sự khác biệt trong thực tại, chỉ ra cho thấy
chúng là bốn sự lựa chọn logic khác nhau, nhưng không nhất thiết là mâu
thuẫn. Có thể thấy rằng, những nan đề như trên thể hiện những trăn trở
của Phật giáo trước những cách tiếp cận khác nhau về thực tại đa giá trị.
Những suy tư triết học đó chưa phải là Logic học theo đúng nghĩa của nó,
nhưng nó hàm chứa trong tư duy những nhu cầu đánh giá, nhận thức
đúng đắn thực tại.
•
Hai phư3ng pháp tranh lu7n – kéo theo và ph=n đ=o
Trong Abhidhamma, tác phẩm triết học Phật giáo nổi tiếng thời kỳ
Thượng Tọa bộ có ghi những cuộc tranh luận đã được công thức hoá
và những phép thức suy luận được quy định một cách nghiêm ngặt. Ở
đây, chúng tôi chỉ đề cập đến văn bản Kathavatthu, tác phẩm ghi lại
khoảng gần hai trăm cuộc tranh luận theo cùng một hình thức cấu tạo
của cuộc tranh luận. Tiến trình chung của các cuộc tranh luận là đối
thủ đưa ra một luận đề, sau đó các Phật tử Theravada (Thượng Tọa bộ)
tiến hành bác bỏ theo những quy tắc logic của phép kéo theo. Cuộc
tranh luận hoàn chỉnh bị kéo dài và làm nặng nề thêm, được chia thành
một cuộc tranh luận gốc và một số cuộc tranh luận thứ cấp.
Logic hc Ph
t giáo
20
Cuộc tranh luận gốc, được gọi là vidayutti, bao gồm tám lời bác bỏ,
trên thực tế là bốn cặp, mỗi cặp lại được chia thành khẳng định và phủ
định. Trong tám cặp đó, hình thức đầu tiên là tranh luận hoàn chỉnh, ba
hình thức khác là sự biến thiên của hình thức thứ nhất, có được bằng
cách thêm vào nó các cách diễn đạt mang tính logic như “mọi nơi”, “mọi
lúc”, “trong mọi vật”. Ví dụ:
“Phải chăng a là b?”
“Phải chăng a là b ở mọi nơi?”
“Phải chăng a là b ở mọi lúc?”
“Phải chăng a là b trong mọi vật?”
Cuộc tranh luận được định hướng theo hình thức vấn đáp. Câu hỏi:
“Phải chăng a là b?” và câu trả lời là “đúng” hoặc “sai”. Nếu câu trả lời là
đúng, tức là xác nhận “a là b”, hoặc có thể nói mệnh đề “a là b” nhận giá
trị chân thực. Nếu câu trả lời là “sai”, tức là phủ định “a là b”, hoặc có thể
nói mệnh đề “a là b” nhận giá trị sai. Cấu trúc của mỗi cuộc tranh luận
được chia thành bộ năm và bộ bốn, tức là một cuộc tranh luận có năm
bước và một cuộc tranh luận có bốn bước. Tuy nhiên, việc phân chia này
cũng mang tính tương đối và tuỳ tiện, bởi vì cả hai đều sử dụng cùng một
nguyên tắc lập luận. Tư tưởng là yếu tố đầu tiên để đạt tới một giá trị
chân thực (với câu trả lời đúng) và một giá trị giả dối (với câu trả lời sai),
sau đó công thức hoá thành một mệnh đề điều kiện: “Nếu p thì q”. Bước
tiếp theo, người ta chỉ ra sự mâu thuẫn để nắm bắt tiền kiện chân thực và
hậu kiện giả dối, sau đó kết luận được tuyên bố là việc bác bỏ hậu kiện
bao hàm việc bác bỏ tiền kiện, đó chính là luận đề ban đầu “a là b”. Vì vậy,
cuộc tranh luận đã chính thức chiến thắng bằng tranh luận.
Hai người tranh luận bắt đầu một cuộc tranh luận và theo hai chặng
họ thay đổi vị trí cho nhau, một người hỏi và người kia trả lời. Chặng
đầu gọi là anuloma – đường tiến, chặng thứ hai gọi là pratiloma - đường
lùi. Dưới đây là ví dụ điển hình từ Kathavatthu:
- Xem thêm -