ÌÌNH
Ý
KỶ THUẬT CHĂN NUÔI
: Ï
O N G LAM
PGS. TS. ĐINH VĂN BÌNH
ThS. NGUYỀN DUY LY
Ị& thuẠtũhAn nuã
DÊ LA I SỮA - THIT
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
HÀ NỘI - 2003
LỜI NÓI ĐẦU
ơ Việt Nam nghê chăn nuôi dê đã có từ lâu dời,
nhưng theo phương thức quảng canh tự túc tự phát. Người
chăn nuôi dô chủ yếu tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là
chính, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật. Phơn lớn
chỉ nuôi dê c ỏ địa phương nhỏ con, năng suất thấp, chưa
có hệ thống quản lý giống trong cá nước và chăn nuôi dê
với quy mô trang trại chưa được hỉnh thành.
Từ năm 1993 Trung tâm nghiên cửu Dê và Thỏ Sơn
Tây dã dược Bộ Nông nghiệp và Phớt triển nông thôn giao
nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê, đặc biệt
là chăn nuôi dê sữa, dê kiêm dụng thịt sữa. Trung tâm dã
nhập nội những giống dê chuyên dụng, cao sản trên th ế
giới vào nước ta như: Beetal, Tumnapari, Barbari, Alpine,
Saanen rà Boer nhâm nuôi thuần vờ lai cải tạo với đàn dê
địa phương (dề Cổ) tạo con lai FI đã nâng cao năng
suất dê lai lên từ 25 - 30% , con lai F t năng suất tăng
lên 40 - 55%.
Người Việt Nam coi việc nuôi dê là nghề dễ phát
triển kinh tế, thu lại lợi nhuận nhanh và cao do dê mắn đẻ,
thời gian mang thai ngắn, dê là con vật dễ nuôi, d ễ thích
ứng, ít bệnh tật lại tận dụng được các điều kiện tự nhiên và
nhất là không tranh chấp lương thực với người.
Đến nav dàn cỉé lai ngày càng phát triển ở nhiều nơi
thành phong trào rộng khấp đã đóng góp vào việc phát
triển kinh tể của người dân nghèo, đặc biệt là ở vùng trung
3
du, miên núi, nơi mà những gia súc khác như bò sữa, lợn
lai không phù hợp. Có nhiều nông hộ đã vươn lên làm giàu
từ chăn nuôi dê.
Đ ể tạo điều kiện cho người chăn nuôi dê có thêm
kiêh thức cơ bản về con dê ỉai, chúng tôi xuất bản cuốn:
“K ỹ thuật chăn nuôi dê lai sữa - th ịt” của PGS. TS. Đinh
Văn Bình và ThS. Nguyễn Duy Lý - Trung tâm nghiên cứu
Dê và Thỏ Sơn Tây.
Hy vọng rằng cuốn sách sẽ đem lại nhiêu bô ích cho
người chăn nuôi dê. Chúng tôi mong nhận được những
đóng góp chân thành đ ể lấn xuất bản sau được đầy đủ
hơn. Xin trăn trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
4
Chương /
PHÂN MỞ ĐỂU
I. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI DÊ Ở VIỆT NAM VÀ
TRÊN THÊ GIỚI
1. Tình hình chăn nuôi dê trên thê giới
Dê là gia súc nhai lại nhỏ thuộc loài dê (Capra), họ
phụ dê cừu (Capra rovanae), họ sừng rồng (Bovidae), bộ
phụ nhai lại (Ruminantia), bộ guốc chẵn (Artiodactyta),
lớp có vú (Manmaìian).
Dê được nuôi ở hầu khắp các châu lục từ phía Bắc bán
cầu (Scandinavia) tới phía Nam bán cầu (Nam Mỹ). Dê có
mặt ở mọi vĩ tuyến, chúng có thể sống trên đỉnh núi cao
(Hymaỉya) hoặc trong những khu rừng ẩm ướt thuộc Tây
Phi. Theo tài liệu của FAO (1999), cho biết tổng số dê trên
thế giới có khoảng 592 triệu con và được phân bố như sau
(xem bảng 1).
Như vậy tại châu Á là nơi chăn nuôi dê khá phát triển,
đặc biệt lại tập trung ở những nước đang phát triển (trên
90% số lượng dê được nuôi ở các nước đang phát triển, và
chủ yếu được nuôi ở khu vực gia đình với quy mô đàn nhỏ
tập trung ở vùng khô cằn, nông dân nghèo). Chăn nuôi ở
những nước phát triển có quy mô đàn lớn hơn và chủ yếủ
theo hướng thâm canh với mục đích lấy sữa và làm pho
mát mang lại hiệu quả kinh tế cao.
s
Bảng I. Sự phân bố dê trên thế giới
Số lượng dê
(triệu con)
% tổng sô
Châu Á
359
60,6
Châu Phi
172
29,1
Nam Mỹ
23
3,9
Bắc Mỹ
16
2,6
Khu vực
Châu Âu
14
2,4
Liên Xô (cũ)
7
1,2
Châu Đại dương
1
0,2
592
100
Tổng sô'
Tổng sản lượng thịt dê trên thế giới (FAO, 1999) là
3.343,388 triệu tấn, trong đó các nước Nam và Đông Nam
châu Á chiếm 67,88%. Tổng sản lượng sữa dê trên thế giới
(1999) là 12 triệu tấn. Sản lượng sữa dê ở những nước phát
triển tăng 22%, còn ở các nước đang phát triển tăng 38%.
Cùng theo thông báo của FAO (1999) ở khu vực châu Á
Thái Bình Dương tính từ năm 1987 - 1997, đàn dê có tốc
độ tăng bình quân là 4,2%/năm; gấp 2 - 3 lần so với tỷ lệ
tâng của trâu bò. Trong vòng 10 năm gần đây nhiều nước
trong khu vực đã có số lượng dê và sản lượng thịt dê tãng
đáng kể.
6
Bảng 2. Sô lượng dê và sản lượng thịt dê tăng ở một số
nước Nam và Đông Nam châu Á (từ năm 1989 -1999)
Số lượng dê (1000 con)
Tên nước
S ẩn lượng
thịt tăng
Tăng(%)
(%)
1989
1999
Bangladesh
19.604
33.500
70,88
83,68
Trung Quốc
91.151
137.723
51,09
99,93
Pakistan
33.983
48.574
42,94
95,27
Việt Nam
387.5
556
43,60
70,31
Indonesia
10.995
15.197
38,22
35,13
Philippines
5.100
6.500
27,45
202,43
Toàn vùng
279,822
37í , .791
32,85
67,32
2. Tình hình chăn nuôi dê ở Việt Nam
ơ Việt Nam nghề chăn nuôi dê đã có từ lâu đời, nhưng
theo phương thức quảng canh tự túc tự phát. Theo số liệu
của Tổng Cục Thống Kê năm 2002 tổng đàn dê của cả
nước có khoảng trên 650.000 con, trong đó 72,5% phân bổ
ờ miền Bắc, 27,5% ở miền Nam (Tây Nguyên chiếm
12,3%, Duyên hải miền Trung chiếm 8,9%, Đỏng và Tây
Nơm Bộ chỉ chiếm khoắng 2,1 - 3%). Đàn dê ỏ vùng núi
phía Bắc chiếm 48% tổng đàn dê của cả nước, và chiếm
67% tổng đàn dê của miền Bắc.
7
Những năm trước đây việc phát triển ngành chăn nuôi
dê chưa được quan tâm chú ý. Người dân chăn nuôi dê chủ
yếu ỉà nuôi quảng canh tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là
chính, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật. Phần lớn
giống dẽ là dê c ỏ địa phương nhỏ con, nãng suất thấp,
chưa có hệ thống qụản lý giống trong cả nước, đặc biệt
nghề chăn nuôi dê với quy mô trang trại lớn chưa được
hình thành.
Từ 1993 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn
nuôi dê, đặc biệt là chăn nuôi dê sữa, dê kiêm dụng thịt
sữa ở nước ta cho Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ - Viện
Chãn nuôi. Đây là đơn vị chịu trách nhiệm nghiên cứu toàn
bộ các vấn đề về chãn nuôi dê và tổ chức chuyển giao kỹ
thuật xây dựng ngành chăn nuôi dê ở Việt Nam. Từ đó đến
nay ngành chăn nuôi dê đặc biệt là chăn nuôi dê sữa ở
nước ta đã bắt đầu được khởi sắc. Chăn nuôi dê đã góp
phần vào việc chuyển đổi cơ cấú cây trồng vật nuôi trong
hệ thống nông trại bền vững ở gia đình, đặc biệt là vùng
trung du đồi núi và vùng núi cao, nơi mà các gia súc khác
nhừ bò sữa, lợn lai phát triển gặp nhiều khổ khăn. Tuy
nhiên, đây là một ngành chãn nuôi rất mới mẻ ở nước ta, vì
vậy để tạo cho nghề chăn nuôi dê phát triển một cách
mạnh mẽ, tận dụng hết được tiềm năng sẵn có của con dê
trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nhũng nãm qua
Nhà nước đã có sự quan tâm trong việc đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật, trong nghiên cứu, trong việc xây dụng mô
hình, đặc biệt là việc đào tạo chuyển giao kỹ thuật thích
hợp về chăn nuôi dê cho các cán bộ kỹ thuật cũng nhu cho
người dân chãn nuôi con gia súc này. Qua việc nhập nội
những giống dê chuyên dụng, cao sản trên thế giới vào
nước ta: Năm 1994 nhập 3 giống dê sữa từ An Độ (Beelaỉ,
htmnapari, Barbari), năm 2002 nhập 2 giống chuyên sữa
(Alpine, Saanen) và một giống siêu thịt (Boer) từ Mỹ,
nhằm nuôi thuần và lai cải tạo với đàn dê địa phương để
nâng cao năng suất của chúng. Kết quả nghiên cứu nhiều năm
qua cho thấy, dùng dê đực giống Bách Thảo, Ân Độ lai với đàn
dê cái Cỏ tạo con lai F, đã nâng cao năng suất chăn nuôi dê lai
lén từ 25 - 30%. Con lai F2nãng suất tăng lên 40 - 55%.
L...... ISÒ lượng dê (nghìn con) — — Giá (dồng/kg)
Biểu đồ l. Sô lượng và giá dê thịt hơi từ nãm 1991 đếh 2002
9
Nếu sử dụng dê đực của các giống chuyên sữa Saanen,
Alpine và chuyên thịt Boer lai với dê cái Bách Thảo, Ân
Độ tạo ra con lai F,, F2 hai máu nãng suất chăn nuôi dê lai
tăng lên 35 - 40%; Con lai 3 máu giữa con đực các giống
dê cao sản trên với dê lai giữa dê c ỏ với Bách Thảo, Ân Độ
cho năng suất tăng lên từ 35 - 50%. Đến nay, đàn dê lai
giữa các giống dê ngày càng phát triển ở nhiều nơi thành
phong trào rộng khắp đã và đang đóng góp tích cực vào
việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu
nhập cho người dân, nhất là vùng nông thôn miền núi.
II. VAI T R Ò VÀ Ý N G H ĨA CH Á N N U Ô I DÊ Ở
G IA Đ ÌN H
Mahatma Gandi - nhà lãnh tụ nổi tiếng ở Ấn Độ đã nói
về vai trò của con dê là "Dê là con bò của nhả nghèo".
Peacok lại cho rằng: "Dê là ngân hàng của người nghèo".
RM Acharav - Chủ tịch Hội chăn nuôi dê Thế giới còn
khẳng định "Dê chính là cơ quan bảo hiểm đáng tin cậy
của người nghèo”. Đã từ lâu người Trung Quốc và người
Việt Nam đã coi việc nuôi dê là nghề dễ phát triển kinh tế,
thu lại lợi nhuận nhanh và cao do dê mắn đẻ và có thời
gian mang thai ngắn (5 tháng), dê là con vật dễ nuôi, dễ
thích ứng, ít bệnh tật, lại tận dụng được các điều kiện tự
nhiên và nhất là không tranh chấp lương thực với người.
Theo đánh giá của tổ chức FAO, hiện nay khoảng hơn
90% tổng số dê trên thế giới được chăn nuôi ở các nước
đang phát triển và đã mang lại thu nhập có ý nghĩa cho
người dân tuy cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau về
10
chủ trương phát triển chăn nuôi dê. Nhưng cũng cần khẳng
định rằng chăn nuôi dê đã và đang ngày càng được chú
trọng và đã đóng góp lớn vào việc phát triển kinh tế của
người dân nghèo, đặc biệt là ở các vùng trung du đồi núi,
nơi mà những gia súc khác như bò sữa, lợn lai không phù
hợp, con dê được coi là con vật giúp cho người nông dân
tăng thêm thu nhập, xoá đói giảm nghèo và có những hộ
đã vươn lên làm giàu từ chăn nuôi dê.
1. Những thuận lợi cho p h át triển chán nuôi dê
- Chăn nuôi dê yêu cầu vốn đầu tư ban đầu ít hơn so
với bò, nhất là bò sữa. Hiện nay ở Việt Nam giá 1 bò sữa
trung bình là 10 - 15 triệu đồng, với sô tiền này có thê mua
được 1 5 - 2 0 con dê sữa (khoânq 700.000 - Jtriệu
đổnq/con).
- Dê sinh sản nhanh hơn bò và trâu: So sánh 1 dê cái
mới sinh ra cùng với 1 bê cái sau 4 nám thì dê đẻ ra được
23 con với tổng khối lượng là 500 kg và gần 2.500 kg sữa;
trong khi đó một con bò chỉ đẻ ra được một con với khối
lượng khoảng 350 kg và cho 2.000 kg sữa. Mặt khác dê có
khả nãng thích ứng rộng, dễ thích nghi với nhiều vùng sinh
thái khác nhau, kể cả vùng khô cằn khắc nghiệt.
- Tuy dê nhỏ con nhưng nó có thể sản xuất ra từ 3 3,51ít sữa/ngày với giống tốt và có quy trình chãn nuôi hợp
lý. Qua theo dõi sản lượng sữa thực tế tại Việt Nam cho
thấv: Nếu tính chỉ số sản lượng sữa/100 kg thê trọng thì ớ
dê Barbari là cao nhất: 3,41; dê Bách Thảo: 2,4: trong khi
đó ớ bò sữa nuôi tại Ba Vì là 2,1.
11
- Thức ăn của dê đa dạng, phong phú dễ tìm kiếm và
cần số lượng ít hơn so với bò và trâu: Nhu cầu thức ăn của
10 con dê tương đương như 1 con bò, 7 - 8 con dê sữa
tương đương như 1 con bò sữa. Mặt khác bò sữa rất mẫn
cảm với sự thay đổi của thức ăn, nhưng ờ dê mức độ này
thấp hơn nhiều.
- Dê nhỏ bé, hiến lành nên ai cũng có thể nuôi được
nó, nhưng đối với bò sữa thì người già, phụ nữ và trẻ nhỏ
nuôi chúng rất vất vả.
- Dê là loại gia súc rất sạch sẽ, nổ không ăn các thức
ăn thừa, bẩn hay lên men thối rữa, dê thích nằm ở nơi cao
thoáng mát.
- Dê cần ít diện tích đồng cỏ, có thể nuôi dê với số
lượng nhiều hơn so với nuôi bò. Nếu nuôi ít dê có thể chãn
thả quanh nhà, dọc theo bờ đê, bờ ruộng. Dê còn có thể
nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng, trong sân bãi để cắt cỏ
lá về cho ăn hoặc có thể kết hợp chăn thả dê dưới vườn cây
ăn quả, dưới rừng cây lâm nghiệp hay vùng đồi gò, núi đá.
- Dê cung cấp nguồn phân bón cho cây trồng và làm
nguồn thức ăn cho cá, phân dê còn được dùng nuôi giun
đất làm thức ăn có giá trị cho gia cầm ở gia đình, hơn nữa
phân dê qua giun đất là nguồn phân rất tốt phù hợp cho
trồng cây cảnh, rau sạch.
- Chăn nuôi dê còn là nguồn bảo hiểm kinh tế cho gia
đình, chẳng may mùa màng thất bát hay trong gia đình cần
tiền để trang trải, phục vụ cuộc sống thì có thể bán bớt một
số dê là giải quyết được.
12
Bảng 3. Hiệu quả kinh tê giữa nuôi dê c ỏ và dé lai
(l .000 VN đồng)
Chỉ tiêu
Cỏ
B tx C
Ba
X
c
Ju
X
c
Bex c
Tại Thái Nguyên
Tổng thu/
dê cái/năm
570
1310
770
1310
1310
Tổng chi/
dê cái/nãm
250
560
350
560
560
Hiệu quả
kinh tế
320
750
420
750
750
% so sánh
100
234
131
234
234
Tại Tuyên Quang, Hoà B ình, H u ế
Tổng thu/
dê cái/năm
540
900
600
900
900
Tổng chi/
dê cái/nãm
250
350
250
350
350
Hiệu quả
kinh tế
290
550
350
550
550
% so sánh
100
189
120
189
189
13
- Dê nhỏ con, dễ vận chuyển, dẻ bán, các sản phẩm từ
dê là nsuồn thức ăn có giá trị và đang được thị trường ưa
chuộng. Hiện nay nhu cầu của thị trường rất lớn, nhưng
chăn nuôi dê ở nước ta mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ
nhu cầu đó. Sữa dê giàu các chất dinh dưỡng dễ tiêu hoá hấp
thu, lành tính đặc biệt tốt đối với người già và trẻ em.
- So sánh hiệu quả kinh tế chăn nuôi dê lai tại một số
vùng nuôi thử nghiệm. Kết quả cho thấy sử dụng dê đực
Bách Thảo, Jumnapari và Beetal (giống Ân Độ) lai với dê
Cỏ địa phương nuôi ở các vùng đều cho con lai Fị có khả
nãng sinh trưởng, tăng trọng tốt hơn. Do vậy đã mang lại
hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt so với chăn nuôi dê c ỏ
thuần, cao hơn từ 134 - 189%. Chăn nuôi dê lai ở những
vùng này đã và đang trở thành một nghề mới ở nông thôn
miền núi nâng cao thu nhập cho người dân, cóp phần xoá
đói giảm nghèo, tăng thu nhập, nânc cao dinh dưỡnc, đời
sống cho ncười dân.
2. Những hạn chê đến phát triển chăn nuôi dê
Do tập quán chăn nuôi và do chưa có nhiều hiểu biết
về lợi ích của chăn nuôi dê nên chăn nuôi dê ở nước ta vẫn
chưa phát triển đúng với tiềm nâng của nó, nghề chăn nuôi
dê còn chưa được quan tâm đúng mức. Sau đây chúng ta
hãy tìm hiểu tại sao nghành chăn nuôi dê ở nước ta chưa
phát triển lên được:
- Trong suy nghĩ của nhiều người, con dê là con vật
phá hoại câv cối. chúng bút hết những búp lá non, làm cây
cối không phát triển lên được. Do vậy một thời, con dê
14
được coi là con vật tàn phá môi trường và cần phải tiêu
diệt. Nhưng thật oan cho con dê, với đặc tính của chúng là
thích ăn bứt lá cây, hiếu động nên mỗi cây chúng chỉ bút
vài ngọn để ăn rồi lại chuyển sang loại câv khác, không
giống như trâu bò chúng gặm đâu là sạch đấy, lại to con
nên dễ làm sạt lở đất hơn. Mặt khác dưới tán cây lâm
nghiệp, cây ăn quả dê lại giúp làm hạn chế cỏ, cây bụi
không có lợi phát triển, phân dê thải ra lại là nguồn phân
bón tốt cho cây trồng.
- Do chưa có kinh nghiệm: Đây cũng là một yếu tố
chính, khiến nghề nuôi dê chưa phát triển mạnh lên được.
Kinh nghiệm chãn nuôi dê có được từ các tài liệu, do tích
luỹ và sự học hỏi từ người khác. Nhưng trên thực tế tài liệu
về con dê lại rất ít, mà kinh nghiệm thì ai biết cũng ít có
điều kiện để chia sẻ cho người khác. Một điều cần lưu ý là
trước đây nuôi dê chỉ là thả rông dựa trên các bãi chãn tự
nhiên là chính, nuôi dê để tận dụng rừng, đồi gò, công lao
động và vốn nhàn rỗi, chứ chưa ai nghĩ đến nuôi dê để tạo
nguồn thu nhập và làm giàu.
- Không quan tâm đến công tác giống: Trước kia đàn
dê ở nước ta chủ yếu là giống dê c ỏ , tầm vóc bé, con đực
trưởng thành chỉ nặng khoảng 30 - 35 kg. Thói quen của
người nuôi dê là lưu giữ một đực giống trong đàn khá làu.
hoặc lại chọn ngay một con đực trong đàn để làm giống,
phối cho cả đàn, dẫn đến tình trạng bố nhảy con, ông nhảy
cháu, anh em nhảy lẫn nhau nên hiện tượng đồng huvết
15
xảy ra trong chăn nuôi dê là rất phổ biến dẫn đến tình
trạng dê còi cọc, lưỡng tính dục, sinh sản kém, tỷ lệ chết
cao và tất nhiên thất bại là khó tránh khỏi.
- Cho sinh sản sớm: Thông thường dê đạt độ tuổi từ 5 6 tháng là đã có thẻ phát dục. Nhưng để dê sinh sản tốt thì
phải đạt độ tuổi ít nhất từ 8 tháng tuổi trở đi. Do quản lý
giống kém nên dê thường để phối tự do, có con lúc phối
giống chỉ đạt 5 - 6 tháng tuổi, nên ảnh hưởng lớn đến con
mẹ, đời con sinh ra thì còi cọc, hay ốm yếu. chất lượng
giống giảm sút.
- Dê phàm ăn, ăn được hầu hết các loại lá cây cỏ tự
nhiên và cây trồng nên dê có thể ăn trụi cây cối, phá phách
hoa màu trong vườn nhà và hàng xóm, cho nên khi nuôi
dê ở vùng trồng cây cần phải trông nom cẩn thận.
- Mặc dù sữa dê thơm ngon, hàm lượng dinh dưỡng
cao, dễ tiêu hoá hấp thu, lại an toàn nhưng hiện nay chưa
được người tiêu dùng sử dụng rộng rãi, thông thường người
ta có ấn tượng sữa dê có mùi hôi khó uống.
16
Chương II
NHỮNG Điều CRN ÍỈ!€Tvế CON ộc
1. Tập tính ăn uống, chạy nhảy, bầy đàn của dê
a. Tập tính ăn uống
Biết được tập tính của dê là một điều rất quan trọng, vì
qua đó người nuôi sẽ biết cách chăm sóc nuôi dưỡns
chúng như thế nào cho hợp lý, phù hợp với các đặc tính
của chúng để nâng cao năng suất hiệu quả chăn nuôi. Dê là
loài động vật nhai lại, nên chúng có khả năng sử dụng các
loại thức ăn thô xanh, nhiều chất xơ. Do bấu tạo môi dê
mỏng, linh hoạt nên dê ngoài khả năng gặm cỏ như trâu
bò, dê phù hợp với việc ăn bứt các loại lá cây, hoa, cây họ
đậu thân gỗ hạt dài, các cây lùm bụi.
u*
Hình I.
Tập tính ăn
của một số
loài gia súc
nhai lại
17
De là con vậl thích hoạt dộng nhanh nhẹn, chúng di
chuyển rất nhanh khi ăn xung quanh cây. bứt lá non và búp
ờ phần ngon nhất lồi nhanh chóng chuyển sang cây và bụi
khác tiếp theo. Trung bình hàng ngày dê đi lại chạy nhảy
10 - 15km/ngày. Dê thích ãn ở độ cao 0,2 - 1,2 m chúng có
thể đứng bằng 2 chân rất lâu để bứt lá, thậm chí còn trèo
lên cả cây để chọn phần ngon ăn. Thức ăn để sát mặt đất
dê thường khó ăn và phải quỳ 2 chân trước xuống ăn. Khi
để tự do, dê có khả năng tự tìm chọn loại thức ăn thích
18
nhất để ăn, thức ãn lơi vãi, dính bẩn, bùn đất dê thường bỏ
không ăn lại. So với trâu bò, cừu, dê ãn được nhiều loại lá
hơn và có biên độ thích ứng rộng với các mùi vị của cây lá.
Do vậy, một số loài cây mà trâu bò không ăn nhưng dê vãn
sử dụng được. Đây là một đặc điểm quý của dê.
Lượng thức ăn ăn được trên lOOkg trọng lượng của dê
thường là 2,5 - 3kg VCK/ngày. Dê là con vật sử dụng nước
hiệu quả hơn nhiều so với trâu bò, nó có khả nàng chịu
khát rất giỏi. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng sinh trưởng,
sinh sản và cho sữa thì phải cung cấp đầy đủ nước ùống
cho dê. Tính trung bình một ngày dê cần khoảng 1 - 2 lít
nước, dê sữa cần khoảng 3 - 5 lít nước.
b. Tính kh í chạy nhảy, hiếu động
Dê là loài vật có tính khí ưa chạy nhảy và hiếu động.
Dê rất phàm ăn, nhưng luôn luôn tìm thức ăn mới. Chúng
nếm mỗi thứ một chút rồi cuối cùng chẳng ưng ý một món
nào cả. Dê vừa chạy nhảy vừa leo trèo rất giỏi. Chúng có
thể leo lên những vách núi, mỏm đá cạnh vực sâu cheo leo
nguy hiểm. Với sự nhanh nhẹn khéo léo, chúng có thể di
chuyển dễ dàng trên những mỏm đá cheo leo nhất. Trong
trường hợp cần thiết con dê đực trưởng thành có thể đứng
rất lâu trên một mỏm đá bên bờ vực thẳm với diện tích chỉ
chừng 200 - 300 cm2. Bám móng vào những gò đá chỉ hơi
nhô lên một chút dê có thể leo lên những sườn dốc gẩn
như thẳng đúng.
Dê thường chọi nhau rất hăng, không riêng gì dê đục
mà cả dê cái cũng vậy. Chúng dùng đầu và sừng húe vào
19
mặt, vào đầu, vào thân đối thủ và cuộc đấu này có khi kéo
dài đến nửa giờ. Tính thích húc nhau là do tính hung hãng
hay gây sự, hoặc do đùa nhau, hoặc là do cử chỉ của một
con dê troné đàn mà chúng cho là khiêu khích. Đôi khi do
buồn sừng hay một lý do nào đó mà dê tự nhiên chuẩn bị
tư thế chiến đấu, nó lùi lại lấy đà rồi cúi đầu lao thẳng vào
một bụi cây hoặc húc đầu vào một mô đất.
Khi gặp nguy hiểm dê đôi khi tỏ ra rất hăng liều mạng
nhưng nhiều khi lại tỏ ra rất nhát, dễ hoảng sợ trước một
vật lạ. Nhiểu người nuôi dê phàn nàn cho là dê ưong
bướng. Tuy nhiên, dê cũng là con vật rất khôn ngoan, dê
rất mến người chăm sóc chúng, chúng có khả năng nhớ
được nơi ở của mình cũng như tên của nó khi con người
đặt cho. Nó nhận biết được người chủ của mình từ xa về và
thường kêu ầm lên để đón chào. Nhiều lúc dê phạm lỗi bị
phạt đòn dê không kêu, nhưng nếu bị đánh bất công dê kệu
be be ầm ĩ để phản đối.
c. Tập tính bầy đàn
Dê thường sống tập trung thành từng đàn. Mỗi con
trong đàn có một vị trí xã hội nhất định. Những con mới
nhập đàn thường phải thử sức để xác định vị trí xã hội của
nó. Chọi nhau là hình thức thử sức rất phổ biến trong đàn
dê. Con ở vị trí “.vỡ hội thấp ” phải phục tùng và trong sinh
hoạt phải “nhường " con ở vị trí “.vỡ hội cao”. Trong đàn dê
thường có con dê đầu đàn dẫn đầu trên bãi chăn, đàn dê di
chuyên gặm cỏ theo con đầu đàn. Ớ trong đàn dê rất yên
tâm. Khi bị tách khỏi đàn dê tỏ ra sợ hãi. Dê thích ngủ
nghỉ trên những mô đất hoặc trên những tảng đá phảng và
20
- Xem thêm -