Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Kỹ thuật chăn nuôi dê lai sữa thịt...

Tài liệu Kỹ thuật chăn nuôi dê lai sữa thịt

.PDF
144
1
67

Mô tả:

ÌÌNH Ý KỶ THUẬT CHĂN NUÔI : Ï O N G LAM PGS. TS. ĐINH VĂN BÌNH ThS. NGUYỀN DUY LY Ị& thuẠtũhAn nuã DÊ LA I SỮA - THIT NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI - 2003 LỜI NÓI ĐẦU ơ Việt Nam nghê chăn nuôi dê đã có từ lâu dời, nhưng theo phương thức quảng canh tự túc tự phát. Người chăn nuôi dô chủ yếu tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là chính, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật. Phơn lớn chỉ nuôi dê c ỏ địa phương nhỏ con, năng suất thấp, chưa có hệ thống quản lý giống trong cá nước và chăn nuôi dê với quy mô trang trại chưa được hỉnh thành. Từ năm 1993 Trung tâm nghiên cửu Dê và Thỏ Sơn Tây dã dược Bộ Nông nghiệp và Phớt triển nông thôn giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê, đặc biệt là chăn nuôi dê sữa, dê kiêm dụng thịt sữa. Trung tâm dã nhập nội những giống dê chuyên dụng, cao sản trên th ế giới vào nước ta như: Beetal, Tumnapari, Barbari, Alpine, Saanen rà Boer nhâm nuôi thuần vờ lai cải tạo với đàn dê địa phương (dề Cổ) tạo con lai FI đã nâng cao năng suất dê lai lên từ 25 - 30% , con lai F t năng suất tăng lên 40 - 55%. Người Việt Nam coi việc nuôi dê là nghề dễ phát triển kinh tế, thu lại lợi nhuận nhanh và cao do dê mắn đẻ, thời gian mang thai ngắn, dê là con vật dễ nuôi, d ễ thích ứng, ít bệnh tật lại tận dụng được các điều kiện tự nhiên và nhất là không tranh chấp lương thực với người. Đến nav dàn cỉé lai ngày càng phát triển ở nhiều nơi thành phong trào rộng khấp đã đóng góp vào việc phát triển kinh tể của người dân nghèo, đặc biệt là ở vùng trung 3 du, miên núi, nơi mà những gia súc khác như bò sữa, lợn lai không phù hợp. Có nhiều nông hộ đã vươn lên làm giàu từ chăn nuôi dê. Đ ể tạo điều kiện cho người chăn nuôi dê có thêm kiêh thức cơ bản về con dê ỉai, chúng tôi xuất bản cuốn: “K ỹ thuật chăn nuôi dê lai sữa - th ịt” của PGS. TS. Đinh Văn Bình và ThS. Nguyễn Duy Lý - Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây. Hy vọng rằng cuốn sách sẽ đem lại nhiêu bô ích cho người chăn nuôi dê. Chúng tôi mong nhận được những đóng góp chân thành đ ể lấn xuất bản sau được đầy đủ hơn. Xin trăn trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP 4 Chương / PHÂN MỞ ĐỂU I. TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI DÊ Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THÊ GIỚI 1. Tình hình chăn nuôi dê trên thê giới Dê là gia súc nhai lại nhỏ thuộc loài dê (Capra), họ phụ dê cừu (Capra rovanae), họ sừng rồng (Bovidae), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), bộ guốc chẵn (Artiodactyta), lớp có vú (Manmaìian). Dê được nuôi ở hầu khắp các châu lục từ phía Bắc bán cầu (Scandinavia) tới phía Nam bán cầu (Nam Mỹ). Dê có mặt ở mọi vĩ tuyến, chúng có thể sống trên đỉnh núi cao (Hymaỉya) hoặc trong những khu rừng ẩm ướt thuộc Tây Phi. Theo tài liệu của FAO (1999), cho biết tổng số dê trên thế giới có khoảng 592 triệu con và được phân bố như sau (xem bảng 1). Như vậy tại châu Á là nơi chăn nuôi dê khá phát triển, đặc biệt lại tập trung ở những nước đang phát triển (trên 90% số lượng dê được nuôi ở các nước đang phát triển, và chủ yếu được nuôi ở khu vực gia đình với quy mô đàn nhỏ tập trung ở vùng khô cằn, nông dân nghèo). Chăn nuôi ở những nước phát triển có quy mô đàn lớn hơn và chủ yếủ theo hướng thâm canh với mục đích lấy sữa và làm pho mát mang lại hiệu quả kinh tế cao. s Bảng I. Sự phân bố dê trên thế giới Số lượng dê (triệu con) % tổng sô Châu Á 359 60,6 Châu Phi 172 29,1 Nam Mỹ 23 3,9 Bắc Mỹ 16 2,6 Khu vực Châu Âu 14 2,4 Liên Xô (cũ) 7 1,2 Châu Đại dương 1 0,2 592 100 Tổng sô' Tổng sản lượng thịt dê trên thế giới (FAO, 1999) là 3.343,388 triệu tấn, trong đó các nước Nam và Đông Nam châu Á chiếm 67,88%. Tổng sản lượng sữa dê trên thế giới (1999) là 12 triệu tấn. Sản lượng sữa dê ở những nước phát triển tăng 22%, còn ở các nước đang phát triển tăng 38%. Cùng theo thông báo của FAO (1999) ở khu vực châu Á Thái Bình Dương tính từ năm 1987 - 1997, đàn dê có tốc độ tăng bình quân là 4,2%/năm; gấp 2 - 3 lần so với tỷ lệ tâng của trâu bò. Trong vòng 10 năm gần đây nhiều nước trong khu vực đã có số lượng dê và sản lượng thịt dê tãng đáng kể. 6 Bảng 2. Sô lượng dê và sản lượng thịt dê tăng ở một số nước Nam và Đông Nam châu Á (từ năm 1989 -1999) Số lượng dê (1000 con) Tên nước S ẩn lượng thịt tăng Tăng(%) (%) 1989 1999 Bangladesh 19.604 33.500 70,88 83,68 Trung Quốc 91.151 137.723 51,09 99,93 Pakistan 33.983 48.574 42,94 95,27 Việt Nam 387.5 556 43,60 70,31 Indonesia 10.995 15.197 38,22 35,13 Philippines 5.100 6.500 27,45 202,43 Toàn vùng 279,822 37í , .791 32,85 67,32 2. Tình hình chăn nuôi dê ở Việt Nam ơ Việt Nam nghề chăn nuôi dê đã có từ lâu đời, nhưng theo phương thức quảng canh tự túc tự phát. Theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê năm 2002 tổng đàn dê của cả nước có khoảng trên 650.000 con, trong đó 72,5% phân bổ ờ miền Bắc, 27,5% ở miền Nam (Tây Nguyên chiếm 12,3%, Duyên hải miền Trung chiếm 8,9%, Đỏng và Tây Nơm Bộ chỉ chiếm khoắng 2,1 - 3%). Đàn dê ỏ vùng núi phía Bắc chiếm 48% tổng đàn dê của cả nước, và chiếm 67% tổng đàn dê của miền Bắc. 7 Những năm trước đây việc phát triển ngành chăn nuôi dê chưa được quan tâm chú ý. Người dân chăn nuôi dê chủ yếu ỉà nuôi quảng canh tận dụng bãi chăn thả tự nhiên là chính, thiếu kinh nghiệm và kiến thức kỹ thuật. Phần lớn giống dẽ là dê c ỏ địa phương nhỏ con, nãng suất thấp, chưa có hệ thống qụản lý giống trong cả nước, đặc biệt nghề chăn nuôi dê với quy mô trang trại lớn chưa được hình thành. Từ 1993 Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã quyết định giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển chăn nuôi dê, đặc biệt là chăn nuôi dê sữa, dê kiêm dụng thịt sữa ở nước ta cho Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ - Viện Chãn nuôi. Đây là đơn vị chịu trách nhiệm nghiên cứu toàn bộ các vấn đề về chãn nuôi dê và tổ chức chuyển giao kỹ thuật xây dựng ngành chăn nuôi dê ở Việt Nam. Từ đó đến nay ngành chăn nuôi dê đặc biệt là chăn nuôi dê sữa ở nước ta đã bắt đầu được khởi sắc. Chăn nuôi dê đã góp phần vào việc chuyển đổi cơ cấú cây trồng vật nuôi trong hệ thống nông trại bền vững ở gia đình, đặc biệt là vùng trung du đồi núi và vùng núi cao, nơi mà các gia súc khác nhừ bò sữa, lợn lai phát triển gặp nhiều khổ khăn. Tuy nhiên, đây là một ngành chãn nuôi rất mới mẻ ở nước ta, vì vậy để tạo cho nghề chăn nuôi dê phát triển một cách mạnh mẽ, tận dụng hết được tiềm năng sẵn có của con dê trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nhũng nãm qua Nhà nước đã có sự quan tâm trong việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trong nghiên cứu, trong việc xây dụng mô hình, đặc biệt là việc đào tạo chuyển giao kỹ thuật thích hợp về chăn nuôi dê cho các cán bộ kỹ thuật cũng nhu cho người dân chãn nuôi con gia súc này. Qua việc nhập nội những giống dê chuyên dụng, cao sản trên thế giới vào nước ta: Năm 1994 nhập 3 giống dê sữa từ An Độ (Beelaỉ, htmnapari, Barbari), năm 2002 nhập 2 giống chuyên sữa (Alpine, Saanen) và một giống siêu thịt (Boer) từ Mỹ, nhằm nuôi thuần và lai cải tạo với đàn dê địa phương để nâng cao năng suất của chúng. Kết quả nghiên cứu nhiều năm qua cho thấy, dùng dê đực giống Bách Thảo, Ân Độ lai với đàn dê cái Cỏ tạo con lai F, đã nâng cao năng suất chăn nuôi dê lai lén từ 25 - 30%. Con lai F2nãng suất tăng lên 40 - 55%. L...... ISÒ lượng dê (nghìn con) — — Giá (dồng/kg) Biểu đồ l. Sô lượng và giá dê thịt hơi từ nãm 1991 đếh 2002 9 Nếu sử dụng dê đực của các giống chuyên sữa Saanen, Alpine và chuyên thịt Boer lai với dê cái Bách Thảo, Ân Độ tạo ra con lai F,, F2 hai máu nãng suất chăn nuôi dê lai tăng lên 35 - 40%; Con lai 3 máu giữa con đực các giống dê cao sản trên với dê lai giữa dê c ỏ với Bách Thảo, Ân Độ cho năng suất tăng lên từ 35 - 50%. Đến nay, đàn dê lai giữa các giống dê ngày càng phát triển ở nhiều nơi thành phong trào rộng khắp đã và đang đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là vùng nông thôn miền núi. II. VAI T R Ò VÀ Ý N G H ĨA CH Á N N U Ô I DÊ Ở G IA Đ ÌN H Mahatma Gandi - nhà lãnh tụ nổi tiếng ở Ấn Độ đã nói về vai trò của con dê là "Dê là con bò của nhả nghèo". Peacok lại cho rằng: "Dê là ngân hàng của người nghèo". RM Acharav - Chủ tịch Hội chăn nuôi dê Thế giới còn khẳng định "Dê chính là cơ quan bảo hiểm đáng tin cậy của người nghèo”. Đã từ lâu người Trung Quốc và người Việt Nam đã coi việc nuôi dê là nghề dễ phát triển kinh tế, thu lại lợi nhuận nhanh và cao do dê mắn đẻ và có thời gian mang thai ngắn (5 tháng), dê là con vật dễ nuôi, dễ thích ứng, ít bệnh tật, lại tận dụng được các điều kiện tự nhiên và nhất là không tranh chấp lương thực với người. Theo đánh giá của tổ chức FAO, hiện nay khoảng hơn 90% tổng số dê trên thế giới được chăn nuôi ở các nước đang phát triển và đã mang lại thu nhập có ý nghĩa cho người dân tuy cũng có nhiều quan điểm trái ngược nhau về 10 chủ trương phát triển chăn nuôi dê. Nhưng cũng cần khẳng định rằng chăn nuôi dê đã và đang ngày càng được chú trọng và đã đóng góp lớn vào việc phát triển kinh tế của người dân nghèo, đặc biệt là ở các vùng trung du đồi núi, nơi mà những gia súc khác như bò sữa, lợn lai không phù hợp, con dê được coi là con vật giúp cho người nông dân tăng thêm thu nhập, xoá đói giảm nghèo và có những hộ đã vươn lên làm giàu từ chăn nuôi dê. 1. Những thuận lợi cho p h át triển chán nuôi dê - Chăn nuôi dê yêu cầu vốn đầu tư ban đầu ít hơn so với bò, nhất là bò sữa. Hiện nay ở Việt Nam giá 1 bò sữa trung bình là 10 - 15 triệu đồng, với sô tiền này có thê mua được 1 5 - 2 0 con dê sữa (khoânq 700.000 - Jtriệu đổnq/con). - Dê sinh sản nhanh hơn bò và trâu: So sánh 1 dê cái mới sinh ra cùng với 1 bê cái sau 4 nám thì dê đẻ ra được 23 con với tổng khối lượng là 500 kg và gần 2.500 kg sữa; trong khi đó một con bò chỉ đẻ ra được một con với khối lượng khoảng 350 kg và cho 2.000 kg sữa. Mặt khác dê có khả nãng thích ứng rộng, dễ thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau, kể cả vùng khô cằn khắc nghiệt. - Tuy dê nhỏ con nhưng nó có thể sản xuất ra từ 3 3,51ít sữa/ngày với giống tốt và có quy trình chãn nuôi hợp lý. Qua theo dõi sản lượng sữa thực tế tại Việt Nam cho thấv: Nếu tính chỉ số sản lượng sữa/100 kg thê trọng thì ớ dê Barbari là cao nhất: 3,41; dê Bách Thảo: 2,4: trong khi đó ớ bò sữa nuôi tại Ba Vì là 2,1. 11 - Thức ăn của dê đa dạng, phong phú dễ tìm kiếm và cần số lượng ít hơn so với bò và trâu: Nhu cầu thức ăn của 10 con dê tương đương như 1 con bò, 7 - 8 con dê sữa tương đương như 1 con bò sữa. Mặt khác bò sữa rất mẫn cảm với sự thay đổi của thức ăn, nhưng ờ dê mức độ này thấp hơn nhiều. - Dê nhỏ bé, hiến lành nên ai cũng có thể nuôi được nó, nhưng đối với bò sữa thì người già, phụ nữ và trẻ nhỏ nuôi chúng rất vất vả. - Dê là loại gia súc rất sạch sẽ, nổ không ăn các thức ăn thừa, bẩn hay lên men thối rữa, dê thích nằm ở nơi cao thoáng mát. - Dê cần ít diện tích đồng cỏ, có thể nuôi dê với số lượng nhiều hơn so với nuôi bò. Nếu nuôi ít dê có thể chãn thả quanh nhà, dọc theo bờ đê, bờ ruộng. Dê còn có thể nuôi nhốt hoàn toàn trong chuồng, trong sân bãi để cắt cỏ lá về cho ăn hoặc có thể kết hợp chăn thả dê dưới vườn cây ăn quả, dưới rừng cây lâm nghiệp hay vùng đồi gò, núi đá. - Dê cung cấp nguồn phân bón cho cây trồng và làm nguồn thức ăn cho cá, phân dê còn được dùng nuôi giun đất làm thức ăn có giá trị cho gia cầm ở gia đình, hơn nữa phân dê qua giun đất là nguồn phân rất tốt phù hợp cho trồng cây cảnh, rau sạch. - Chăn nuôi dê còn là nguồn bảo hiểm kinh tế cho gia đình, chẳng may mùa màng thất bát hay trong gia đình cần tiền để trang trải, phục vụ cuộc sống thì có thể bán bớt một số dê là giải quyết được. 12 Bảng 3. Hiệu quả kinh tê giữa nuôi dê c ỏ và dé lai (l .000 VN đồng) Chỉ tiêu Cỏ B tx C Ba X c Ju X c Bex c Tại Thái Nguyên Tổng thu/ dê cái/năm 570 1310 770 1310 1310 Tổng chi/ dê cái/nãm 250 560 350 560 560 Hiệu quả kinh tế 320 750 420 750 750 % so sánh 100 234 131 234 234 Tại Tuyên Quang, Hoà B ình, H u ế Tổng thu/ dê cái/năm 540 900 600 900 900 Tổng chi/ dê cái/nãm 250 350 250 350 350 Hiệu quả kinh tế 290 550 350 550 550 % so sánh 100 189 120 189 189 13 - Dê nhỏ con, dễ vận chuyển, dẻ bán, các sản phẩm từ dê là nsuồn thức ăn có giá trị và đang được thị trường ưa chuộng. Hiện nay nhu cầu của thị trường rất lớn, nhưng chăn nuôi dê ở nước ta mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu đó. Sữa dê giàu các chất dinh dưỡng dễ tiêu hoá hấp thu, lành tính đặc biệt tốt đối với người già và trẻ em. - So sánh hiệu quả kinh tế chăn nuôi dê lai tại một số vùng nuôi thử nghiệm. Kết quả cho thấy sử dụng dê đực Bách Thảo, Jumnapari và Beetal (giống Ân Độ) lai với dê Cỏ địa phương nuôi ở các vùng đều cho con lai Fị có khả nãng sinh trưởng, tăng trọng tốt hơn. Do vậy đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt so với chăn nuôi dê c ỏ thuần, cao hơn từ 134 - 189%. Chăn nuôi dê lai ở những vùng này đã và đang trở thành một nghề mới ở nông thôn miền núi nâng cao thu nhập cho người dân, cóp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thu nhập, nânc cao dinh dưỡnc, đời sống cho ncười dân. 2. Những hạn chê đến phát triển chăn nuôi dê Do tập quán chăn nuôi và do chưa có nhiều hiểu biết về lợi ích của chăn nuôi dê nên chăn nuôi dê ở nước ta vẫn chưa phát triển đúng với tiềm nâng của nó, nghề chăn nuôi dê còn chưa được quan tâm đúng mức. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu tại sao nghành chăn nuôi dê ở nước ta chưa phát triển lên được: - Trong suy nghĩ của nhiều người, con dê là con vật phá hoại câv cối. chúng bút hết những búp lá non, làm cây cối không phát triển lên được. Do vậy một thời, con dê 14 được coi là con vật tàn phá môi trường và cần phải tiêu diệt. Nhưng thật oan cho con dê, với đặc tính của chúng là thích ăn bứt lá cây, hiếu động nên mỗi cây chúng chỉ bút vài ngọn để ăn rồi lại chuyển sang loại câv khác, không giống như trâu bò chúng gặm đâu là sạch đấy, lại to con nên dễ làm sạt lở đất hơn. Mặt khác dưới tán cây lâm nghiệp, cây ăn quả dê lại giúp làm hạn chế cỏ, cây bụi không có lợi phát triển, phân dê thải ra lại là nguồn phân bón tốt cho cây trồng. - Do chưa có kinh nghiệm: Đây cũng là một yếu tố chính, khiến nghề nuôi dê chưa phát triển mạnh lên được. Kinh nghiệm chãn nuôi dê có được từ các tài liệu, do tích luỹ và sự học hỏi từ người khác. Nhưng trên thực tế tài liệu về con dê lại rất ít, mà kinh nghiệm thì ai biết cũng ít có điều kiện để chia sẻ cho người khác. Một điều cần lưu ý là trước đây nuôi dê chỉ là thả rông dựa trên các bãi chãn tự nhiên là chính, nuôi dê để tận dụng rừng, đồi gò, công lao động và vốn nhàn rỗi, chứ chưa ai nghĩ đến nuôi dê để tạo nguồn thu nhập và làm giàu. - Không quan tâm đến công tác giống: Trước kia đàn dê ở nước ta chủ yếu là giống dê c ỏ , tầm vóc bé, con đực trưởng thành chỉ nặng khoảng 30 - 35 kg. Thói quen của người nuôi dê là lưu giữ một đực giống trong đàn khá làu. hoặc lại chọn ngay một con đực trong đàn để làm giống, phối cho cả đàn, dẫn đến tình trạng bố nhảy con, ông nhảy cháu, anh em nhảy lẫn nhau nên hiện tượng đồng huvết 15 xảy ra trong chăn nuôi dê là rất phổ biến dẫn đến tình trạng dê còi cọc, lưỡng tính dục, sinh sản kém, tỷ lệ chết cao và tất nhiên thất bại là khó tránh khỏi. - Cho sinh sản sớm: Thông thường dê đạt độ tuổi từ 5 6 tháng là đã có thẻ phát dục. Nhưng để dê sinh sản tốt thì phải đạt độ tuổi ít nhất từ 8 tháng tuổi trở đi. Do quản lý giống kém nên dê thường để phối tự do, có con lúc phối giống chỉ đạt 5 - 6 tháng tuổi, nên ảnh hưởng lớn đến con mẹ, đời con sinh ra thì còi cọc, hay ốm yếu. chất lượng giống giảm sút. - Dê phàm ăn, ăn được hầu hết các loại lá cây cỏ tự nhiên và cây trồng nên dê có thể ăn trụi cây cối, phá phách hoa màu trong vườn nhà và hàng xóm, cho nên khi nuôi dê ở vùng trồng cây cần phải trông nom cẩn thận. - Mặc dù sữa dê thơm ngon, hàm lượng dinh dưỡng cao, dễ tiêu hoá hấp thu, lại an toàn nhưng hiện nay chưa được người tiêu dùng sử dụng rộng rãi, thông thường người ta có ấn tượng sữa dê có mùi hôi khó uống. 16 Chương II NHỮNG Điều CRN ÍỈ!€Tvế CON ộc 1. Tập tính ăn uống, chạy nhảy, bầy đàn của dê a. Tập tính ăn uống Biết được tập tính của dê là một điều rất quan trọng, vì qua đó người nuôi sẽ biết cách chăm sóc nuôi dưỡns chúng như thế nào cho hợp lý, phù hợp với các đặc tính của chúng để nâng cao năng suất hiệu quả chăn nuôi. Dê là loài động vật nhai lại, nên chúng có khả năng sử dụng các loại thức ăn thô xanh, nhiều chất xơ. Do bấu tạo môi dê mỏng, linh hoạt nên dê ngoài khả năng gặm cỏ như trâu bò, dê phù hợp với việc ăn bứt các loại lá cây, hoa, cây họ đậu thân gỗ hạt dài, các cây lùm bụi. u* Hình I. Tập tính ăn của một số loài gia súc nhai lại 17 De là con vậl thích hoạt dộng nhanh nhẹn, chúng di chuyển rất nhanh khi ăn xung quanh cây. bứt lá non và búp ờ phần ngon nhất lồi nhanh chóng chuyển sang cây và bụi khác tiếp theo. Trung bình hàng ngày dê đi lại chạy nhảy 10 - 15km/ngày. Dê thích ãn ở độ cao 0,2 - 1,2 m chúng có thể đứng bằng 2 chân rất lâu để bứt lá, thậm chí còn trèo lên cả cây để chọn phần ngon ăn. Thức ăn để sát mặt đất dê thường khó ăn và phải quỳ 2 chân trước xuống ăn. Khi để tự do, dê có khả năng tự tìm chọn loại thức ăn thích 18 nhất để ăn, thức ãn lơi vãi, dính bẩn, bùn đất dê thường bỏ không ăn lại. So với trâu bò, cừu, dê ãn được nhiều loại lá hơn và có biên độ thích ứng rộng với các mùi vị của cây lá. Do vậy, một số loài cây mà trâu bò không ăn nhưng dê vãn sử dụng được. Đây là một đặc điểm quý của dê. Lượng thức ăn ăn được trên lOOkg trọng lượng của dê thường là 2,5 - 3kg VCK/ngày. Dê là con vật sử dụng nước hiệu quả hơn nhiều so với trâu bò, nó có khả nàng chịu khát rất giỏi. Tuy nhiên, để đảm bảo khả năng sinh trưởng, sinh sản và cho sữa thì phải cung cấp đầy đủ nước ùống cho dê. Tính trung bình một ngày dê cần khoảng 1 - 2 lít nước, dê sữa cần khoảng 3 - 5 lít nước. b. Tính kh í chạy nhảy, hiếu động Dê là loài vật có tính khí ưa chạy nhảy và hiếu động. Dê rất phàm ăn, nhưng luôn luôn tìm thức ăn mới. Chúng nếm mỗi thứ một chút rồi cuối cùng chẳng ưng ý một món nào cả. Dê vừa chạy nhảy vừa leo trèo rất giỏi. Chúng có thể leo lên những vách núi, mỏm đá cạnh vực sâu cheo leo nguy hiểm. Với sự nhanh nhẹn khéo léo, chúng có thể di chuyển dễ dàng trên những mỏm đá cheo leo nhất. Trong trường hợp cần thiết con dê đực trưởng thành có thể đứng rất lâu trên một mỏm đá bên bờ vực thẳm với diện tích chỉ chừng 200 - 300 cm2. Bám móng vào những gò đá chỉ hơi nhô lên một chút dê có thể leo lên những sườn dốc gẩn như thẳng đúng. Dê thường chọi nhau rất hăng, không riêng gì dê đục mà cả dê cái cũng vậy. Chúng dùng đầu và sừng húe vào 19 mặt, vào đầu, vào thân đối thủ và cuộc đấu này có khi kéo dài đến nửa giờ. Tính thích húc nhau là do tính hung hãng hay gây sự, hoặc do đùa nhau, hoặc là do cử chỉ của một con dê troné đàn mà chúng cho là khiêu khích. Đôi khi do buồn sừng hay một lý do nào đó mà dê tự nhiên chuẩn bị tư thế chiến đấu, nó lùi lại lấy đà rồi cúi đầu lao thẳng vào một bụi cây hoặc húc đầu vào một mô đất. Khi gặp nguy hiểm dê đôi khi tỏ ra rất hăng liều mạng nhưng nhiều khi lại tỏ ra rất nhát, dễ hoảng sợ trước một vật lạ. Nhiểu người nuôi dê phàn nàn cho là dê ưong bướng. Tuy nhiên, dê cũng là con vật rất khôn ngoan, dê rất mến người chăm sóc chúng, chúng có khả năng nhớ được nơi ở của mình cũng như tên của nó khi con người đặt cho. Nó nhận biết được người chủ của mình từ xa về và thường kêu ầm lên để đón chào. Nhiều lúc dê phạm lỗi bị phạt đòn dê không kêu, nhưng nếu bị đánh bất công dê kệu be be ầm ĩ để phản đối. c. Tập tính bầy đàn Dê thường sống tập trung thành từng đàn. Mỗi con trong đàn có một vị trí xã hội nhất định. Những con mới nhập đàn thường phải thử sức để xác định vị trí xã hội của nó. Chọi nhau là hình thức thử sức rất phổ biến trong đàn dê. Con ở vị trí “.vỡ hội thấp ” phải phục tùng và trong sinh hoạt phải “nhường " con ở vị trí “.vỡ hội cao”. Trong đàn dê thường có con dê đầu đàn dẫn đầu trên bãi chăn, đàn dê di chuyên gặm cỏ theo con đầu đàn. Ớ trong đàn dê rất yên tâm. Khi bị tách khỏi đàn dê tỏ ra sợ hãi. Dê thích ngủ nghỉ trên những mô đất hoặc trên những tảng đá phảng và 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan