Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Y dược Kiến thức, thực hành và yếu tố liên quan đến tiêm an toàn của điều dưỡng viên tr...

Tài liệu Kiến thức, thực hành và yếu tố liên quan đến tiêm an toàn của điều dưỡng viên trung tâm y tế quận nam bắc từ liêm, hà nội năm 2018

.DOC
101
20
74

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI DUY THỊ THANH HUYỀN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN TIÊM AN TOÀN CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN TRUNG TÂM Y TẾ QUẬN NAM - BẮC TỪ LIÊM HÀ NỘI NĂM 2018 Chuyên ngành: Quản lý Bệnh viện Mã số: 60720701 LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Như Nguyên HÀ NỘI - 2019 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Quản lý bệnh viện, ngoài những nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ động viên của các thầy cô, Ban giám đốc Trung tâm y tế quận Nam Từ Liêm nơi công tác, bạn bè đồng nghiệp và người thân trong gia đình. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo, các bộ môn và phòng sau đại học Trường Đại học y Hà Nội - Viện Đào tạo y học dự phòng và Y tế công cộng đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. PGS.TS. Trần Như Nguyên, người thầy nhiệt tình, trách nhiệm đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Ban giám đốc Trung tâm y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm, các anh/chị em đồng nghiệp của các khoa, phòng khám đa khoa và 23 trạm y tế là nơi tôi công tác và thực hiện đề tài nghiên cứu, đã tạo điều kiện giúp đỡ cung cấp thông tin cần thiết để tôi thực hiện nghiên cứu. Các bạn lớp cao học Quản lý bệnh viện khóa 26 đã chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi kiến thức, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Cuối cùng tôi gửi lời cảm ơn đến tất cả mọi người trong gia đình đặc biệt là chồng và các con yêu quí là nguồn động viên, khích lệ để tôi hoàn thành được luận văn này. Trân trọng cảm ơn! HỌC VIÊN Duy Thị Thanh Huyền LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là: Duy Thị Thanh Huyền, học viên cao học khóa 26 Viện Đào tạo y học dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học y Hà Nội, chuyên ngành Quản lý bệnh viện, xin cam đoan như sau: 1. Đây là luận văn do tôi trực tiếp thực hiện, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Như Nguyên. 2. Đề tài nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được công bố tại Việt nam. 3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực, khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của đơn vị nơi nghiên cứu. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về lời cam kết trên. Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2019 NGƯỜI VIẾT BẢN CAM ĐOAN Duy Thị Thanh Huyền DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BKT CDC ĐDV ĐTV HBV HCV HIV KSNK KT NB NVYT PPE SK SKT TAT TTYT UNDP USAID VSN VST WHO Bơm kim tiêm Centerfor Diseasesprevention and Control Trung tâm Phòng ngừa và kiểm soát bệnh Hoa Kỳ Điều dưỡng viên Điều tra viên Hepatitis B Virus Virus viêm gan B Hepatitis C Virus Virus viêm gan C Human Immunodeficiency Virus Virus gây suy giảm miễn dịch ở người Kiểm soát nhiễm khuẩn Kim tiêm Người bệnh Nhân viên y tế Personal protective equipment Phương tiện phòng hộ cá nhân Sát khuẩn Sát khuẩn tay Tiêm an toàn Trung tâm y tế United Nation Development Program Chương trình phát triển liên Hiệp Quốc United Agency for Internation Development Cơ quan phát triển Quốc tế Hoa Kỳ Vật sắc nhọn Vệ sinh tay World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1 Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU............................................................3 1.1. Tổng quan chung về tiêm an toàn..........................................................3 1.2. Một số nghiên cứu về kiến thức và thực hành về tiêm an toàn..............9 1.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn.......16 1.4. Một số thông tin về địa bàn nghiên cứu...............................................22 Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............25 2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu........................................................25 2.2. Đối tượng nghiên cứu:.........................................................................27 2.3. Phương pháp nghiên cứu......................................................................27 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu.......................................................................27 2.3.2. Mẫu nghiên cứu.............................................................................27 2.3.3. Các biến số, chỉ số, phương pháp và công cụ thu thập số liệu......28 2.3.4. Kỹ thuật và phương pháp thu thập thông tin................................33 2.3.5. Sai số và khống chế sai số.............................................................35 2.3.6. Quản lý và phân tích số liệu..........................................................35 2.3.7. Đạo đức trong nghiên cứu.............................................................36 Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................37 3.1. Kiến thức, thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên......................37 3.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành TAT của ĐDV......49 Chương 4: BÀN LUẬN.................................................................................52 4.1. Kiến thức và thực hành TAT của ĐDV...............................................52 4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành TAT của ĐDV......58 4.3. Hạn chế của nghiên cứu.......................................................................60 KẾT LUẬN....................................................................................................62 KHUYẾN NGHỊ............................................................................................63 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1: Một số đặc điểm thông tin của điều dưỡng viên37 Bảng 3.2. Kết quả đánh giá đạt kiến thức tiêm an toàn của điều dưỡng viên 38 Bảng 3.3. Kiến thức chung về tiêm an toàn của điều dưỡng viên 39 Bảng 3.4. Kiến thức chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên 40 Bảng 3.5. Kiến thức chuẩn bị dụng cụ của điều dưỡng viên 41 Bảng 3.6. Kiến thức chuẩn bị thuốc tiêm của điều dưỡng viên 42 Bảng 3.7. Kiến thức về kỹ thuật tiêm thuốc của điều dưỡng viên43 Bảng 3.8. Kiến thức xử lý chất thải sau tiêm của điều dưỡng viên 44 Bảng 3.9. Kết quả đánh giá đạt thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên 45 Bảng 3.10. Thực hành chuẩn bị người bệnh của điều dưỡng viên 45 Bảng 3.11. Thực hành chuẩn bị dụng cụ tiêm của điều dưỡng viên 46 Bảng 3.12. Thực hành lấy thuốc và kỹ thuật tiêm thuốc của điều dưỡng viên 47 Bảng 3.13. Thực hành xử lý chất thải sau tiêm của điều dưỡng viên 48 Bảng 3.14. Liên quan giữa yếu tố cá nhân với kiến thức của điều dưỡng viên 49 Bảng 3.15. Liên quan giữa yếu tố cá nhân với thực hành của điều dưỡng viên 50 Bảng 3.16. Liên quan giữa kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên 51 DANH MỤC Biểu đồ 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi.....................................37 Biểu đồ 3.2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo trình độ chuyên môn..........38 Biểu đồ 3.3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo thâm niên công tác.............38 Biểu đồ 3.4. Đánh giá mũi tiêm an toàn..........................................................48 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tiêm là một trong các biện pháp để đưa thuốc, chất dinh dưỡng vào cơ thể nhằm mục đích chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh. Đối với điều trị, tiêm có vai trò đặc biệt quan trọng trong trường hợp cấp cứu người bệnh nặng. Đối với công tác phòng bệnh, chương trình tiêm chủng mở rộng đã tác động và có hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mắc, tử vong đối với 6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em có thể phòng bệnh bằng vắc xin [1]. Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới, mỗi năm có khoảng 16 tỷ mũi tiêm, trong đó 90% -95% mũi tiêm nhằm mục đích điều trị, chỉ 5%-10% mũi tiêm dành cho dự phòng. Bất cứ một kỹ thuật đâm xuyên da nào, bao gồm cả tiêm đều có nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh qua đường máu như vi rút viêm gan hoặc HIV làm nguy hại đến cuộc sống của con người. Ước tính tình trạng bệnh do tiêm không an toàn gây ra mỗi năm hàng triệu trường hợp viêm gan B, viêm gan C và 260.000 trường hợp nhiễm HIV [1]. Có thể thấy rằng tiêm là một kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong công tác khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, vì thế tiêm không đúng kỹ thuật có thể gây ra những nguy cơ có hại đối với cơ thể con người nói chung và người bệnh nói riêng, đối với nhân viên y tế và cộng đồng. Tại Việt Nam từ những năm 2001, 2002, 2005 và 2008 Bộ Y tế phối hợp với Hội Điều dưỡng Việt Nam phát động phong trào thực hiện Hướng dẫn tiêm an toàn trong toàn quốc, đồng thời tiến hành những khảo sát thực trạng về tiêm an toàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy 55% nhân viên y tế chưa được cập nhật thông tin về tiêm an toàn, lạm dụng thuốc tiêm cao chiếm 71,5%, chưa tuân thủ quy trình kỹ thuật và các thao tác kiểm soát nhiễm khuẩn trong thực hành tiêm như: vệ sinh tay, lạm dụng găng tay, sử dụng panh chưa hợp lý, dùng tay đậy nắp kim tiêm, phân loại và thu gom chất thải y tế sai quy 2 định [5] [6] [9]. Năm 2012, Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn tiêm an toàn tại Quyết định 3671/QĐ-BYT ngày 27 tháng 9 năm 2012 nhằm cung cấp kiến thức và kỹ năng trong thực hành tiêm an toàn, triển khai áp dụng thực hiện thống nhất trong tất cả các cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở đào tạo cán bộ y tế, các cá nhân liên quan [12]. Tại Trung tâm y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm, Hà Nội từ trước tới nay chưa tìm thấy có nghiên cứu nào đầy đủ và hệ thống về tiêm an toàn. Là cơ sở y tế tuyến đầu trực thuộc Sở Y tế Hà Nội, đơn vị đã triển khai thực hiện nội dung Hướng dẫn tiêm an toàn đến toàn bộ điều dưỡng viên. Trên thực tế, kiến thức và thực hành tiêm giữa các điều dưỡng viên chưa đồng đều, hiểu biết về tiêm an toàn còn hạn chế, chưa tuân thủ đầy đủ quy trình tiêm. Đặc biệt hiện nay tiêm an toàn vẫn là vấn đề liên quan đến sức khỏe con người cần được ưu tiên, những yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng tiêm an toàn tại đơn vị chưa có nghiên cứu cụ thể. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Kiến thức, thực hành và yếu tố liên quan đến tiêm an toàn của điều dưỡng viên Trung tâm y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm, Hà Nội năm 2018” với 2 mục tiêu sau: 1. Mô tả kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên Trung tâm y tế quận Nam-Bắc Từ Liêm, Hà Nội năm 2018. 2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên Trung tâm y tế quận Nam - Bắc Từ Liêm, Hà Nội năm 2018. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tổng quan chung về tiêm an toàn 1.1.1. Các khái niệm, định nghĩa sử dụng trong nghiên cứu 1.1.1.1. Các khái niệm Mũi tiêm an toàn trong nghiên cứu Mũi tiêm an toàn (TAT) trong nghiên cứu là mũi tiêm đạt đủ 17 tiêu chí thực hành trong bảng kiểm đánh giá thực hành TAT [1]. Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu Mũi tiêm không an toàn trong nghiên cứu là mũi tiêm có từ một tiêu chí thực hành không đạt trở lên bao gồm: Sử dụng bơm kim tiêm (BKT) không vô khuẩn, tiêm thuốc không đúng chỉ định, thực hiện không đầy đủ các tiêu chí trong bảng kiểm, phân loại chất thải sau tiêm sai quy định, đặc biệt chất thải sắc nhọn không được phân loại và cô lập ngay theo quy định quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế [1]. Đậy nắp kim tiêm Kỹ thuật đậy nắp kim một tay: Nhân viên y tế (NVYT) cầm bơm kim tiêm bằng một tay và đưa đầu nhọn của kim vào phần nắp đặt trên một mặt phẳng sau đó dùng hai tay đậy [1]. Hình 1. Đậy nắp kim không dùng hai bàn tay Kỹ thuật vô khuẩn Là các kỹ thuật không làm phát sinh sự lan truyền của vi khuẩn trong quá trình thực hiện như: vệ sinh bàn tay, mang trang phục phòng hộ cá nhân, 4 sử dụng chất khử khuẩn da, cách mở các bao gói vô khuẩn, cách sử dụng dụng cụ vô khuẩn [1]. Phơi nhiễm nghề nghiệp Phơi nhiễm nghề nghiệp là sự tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết, chất bài tiết (trừ mồ hôi) có chứa tác nhân gây bệnh trong khi nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ dẫn đến nguy cơ lây nhiễm bệnh [1]. Phương tiện phòng hộ cá nhân Phương tiện phòng hộ cá nhân (PPE) bao gồm găng tay, khẩu trang, áo khoác phòng thí nghiệm, áo choàng, tạp dề, bao giày, kính bảo hộ, kính có tấm chắn bên, mặt nạ. Mục đích sử dụng PPE là để bảo vệ nhân viên y tế, người bệnh, người nhà người bệnh và người thăm bệnh khỏi bị nguy cơ phơi nhiễm và hạn chế phát tán mầm bệnh ra môi trường bên ngoài. Tổ chức y tế Thế giới không khuyến cáo sử dụng khẩu trang, găng tay, kính bảo vệ mắt, quần áo bảo vệ trong thực hiện tiêm. Các PPE này chỉ sử dụng trong trường hợp người tiêm có nguy cơ phơi nhiễm với máu, dịch tiết, chất tiết (trừ mồ hôi) [1] [3]. Vệ sinh tay Là bất cứ hình thức nào làm sạch tay gồm: Rửa tay (RT) bằng xà phòng và nước hoặc sát khuẩn tay (SKT) với dung dịch chứa cồn [1 ] [3]. Tác nhân gây bệnh đường máu Các vi sinh vật có độc lực (có khả năng gây bệnh) lây truyền do phơi nhiễm với máu, sản phẩm máu và gây bệnh trên người. Các tác nhân gây bệnh đường máu thường gặp bao gồm HBV, HCV, HIV và một số loại vi khuẩn khác [1]. Tiêm Kỹ thuật đưa thuốc, dịch hoặc chất dinh dưỡng và một số chất khác (Iốt, đồng vị phóng xạ, chất màu) qua da vào trong cơ thể để phục vụ chẩn đoán và 5 điều trị. Có nhiều loại đường tiêm và được phân loại theo vị trí tiêm (ví dụ tiêm trong da, dưới da, bắp, tĩnh mạch, trong xương, động mạch, màng bụng) [1] [34]. Tiêm bắp Đưa mũi tiêm vào phần thân của cơ bắp với góc kim từ 60 0-900 so với mặt da (không ngập hết phần thân kim tiêm) thường chọn các vị trí sau: - Cánh tay: 1/3 trên mặt trước ngoài cánh tay. - Vùng đùi: 1/3 giữa mặt trước ngoài đùi. - Vùng mông: 1/4 trên ngoài mông hoặc 1/3 trên ngoài của đường nối từ gai chậu trước trên với mỏm xương cụt [1] [34]. Tiêm dưới da Là kỹ thuật tiêm sử dụng bơm kim để tiêm thuốc vào mô liên kết dưới da của người bệnh, kim chếch 300- 450 so với mặt da. Vị trí tiêm 1/3 giữa mặt trước ngoài cánh tay (đường nối từ mỏm vai đến mỏm khuỷu chia làm 3 phần) hay 1/3 giữa mặt trước ngoài đùi (đường nối từ gai chậu trước trên đến bờ ngoài xương bánh chè) hoặc dưới da bụng (xung quanh rốn cách rốn 5 cm) [1] [34]. Tiêm truyền tĩnh mạch Là kỹ thuật dùng kim đưa thuốc dịch vào tĩnh mạch với góc tiêm 30 0 so với mặt da. Khi tiêm chọn tĩnh mạch nổi rõ mềm mại không di động, da vị trí tiêm nguyên vẹn [1] [34]. Tiêm trong da Mũi tiêm nông giữa lớp thượng bì và hạ bì đâm kim chếch với mặt da 100-150, tiêm xong tạo thành một cục sẩn như da cam trên mặt da. Thường chọn vùng da mỏng, ít va chạm, trắng, không sẹo, không có lông, vị trí 1/3 trên mặt trước trong cẳng tay, đường nối từ nếp gấp cổ tay đến nếp gấp khuỷu tay (thông dụng nhất), 1/3 trên mặt ngoài cánh tay (đường nối từ mỏm vai đến 6 mỏm khuỷu), bả vai, cơ ngực lớn [1] [34]. Tổn thương do kim tiêm Vết thương do kim tiêm đâm [1]. Thùng đựng chất thải sắc nhọn Còn gọi là “hộp đựng vật sắc nhọn”, “hộp kháng thủng” hay “hộp an toàn”. Thùng đựng chất thải sắc nhọn được sản xuất bằng chất liệu cứng, chống thủng, chống rò rỉ được thiết kế để chứa vật sắc nhọn (VSN) một cách an toàn trong quá trình thu gom, hủy bỏ và tiêu hủy [1] [3]. Vật sắc nhọn Bất cứ vật nào có thể gây tổn thương xâm lấn da hoặc qua da; Vật sắc nhọn bao gồm kim tiêm, đầu kim truyền dịch, dao mổ, thủy tinh vỡ, ống mao dẫn bị vỡ và đầu dây nẹp nha khoa bị phơi nhiễm [1] [27]. 1.1.1.2. Định nghĩa tiêm an toàn Tiêm an toàn là quy trình tiêm không gây nguy hại cho người nhận mũi tiêm, không gây phơi nhiễm cho người thực hiện mũi tiêm và không tạo chất thải nguy hại cho người khác và cộng đồng [1]. 1.1.2. Tình hình tiêm an toàn Trên thế giới Trên thế giới, tiêm được ứng dụng trong điều trị từ những năm 1920 và thịnh hành từ chiến tranh thế giới thứ II sau khi Penicilline được phát minh và đưa vào sử dụng rộng rãi. Tổ chức y tế Thế giới (WHO) ước tính hằng năm tại các nước đang phát triển có khoảng 16 tỷ mũi tiêm, trong đó 95% mũi tiêm với mục đích điều trị, 3% mũi tiêm là tiêm chủng, 1% mũi tiêm với mục đích kế hoạch hóa gia đình, 1% mũi tiêm được sử dụng trong truyền máu và các sản phẩm của máu [1]. Thực tế đã cho thấy tiêm là một thủ thuật phổ biến có vai trò rất quan trọng trong các lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh. Tuy nhiên, tiêm cũng gây 7 ra hậu quả nghiêm trọng cho cả người nhận mũi tiêm, người thực hiện tiêm và cộng đồng nếu như không có những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện mũi tiêm an toàn [1]. Theo nghiên cứu “Gánh nặng toàn cầu của bệnh do tiêm bị ô nhiễm được đưa ra trong các thiết lập chăm sóc sức khỏe” của Hauri và cộng sự cho thấy trung bình hàng năm mỗi người nhận 3,4 mũi tiêm, 39,3% sử dụng bơm tiêm dùng lại. Trong năm 2000, nhiễm khuẩn do tiêm gây ra ước tính khoảng 21 triệu ca nhiễm HBV, 2 triệu ca nhiễm HCV và 260.000 ca nhiễm HIV tương ứng chiếm tỷ lệ 32%, 40% và 5%, các bệnh nhiễm trùng mới này cho một gánh nặng 9.177.679 DAILYs giữa năm 2000 đến năm 2030 [35]. Mặc dù, những hậu quả do tiêm không an toàn gây ra rất nghiêm trọng. Tuy nhiên theo Trung tâm kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ và WHO, có tới 80% tổn thương do kim tiêm có thể phòng ngừa được bằng các biện pháp hết sức đơn giản như sử dụng trang thiết bị tiêm vô khuẩn và thực hiện đúng quy trình tiêm. Sự mất an toàn trong tiêm có thể được giảm nhẹ đi rất nhiều khi ta hiểu rõ những hình thức tiêm không an toàn, nguyên nhân của các hiện tượng đó và các biện pháp kiểm soát chúng. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) và an toàn trong tiêm, những khó khăn của các nước thành viên và trách nhiệm của mình trước sự an toàn trong chăm sóc y tế, WHO đã thành lập Mạng lưới tiêm an toàn toàn cầu (SIGN) vào năm 1999. Mục đích của SIGN là giảm tần số tiêm và thực hiện TAT, cải thiện chính sách, quy trình kỹ thuật tiêm, thay đổi hành vi của người sử dụng và người cung cấp dịch vụ tiêm. Có 5 nội dung chính trong chính sách TAT: Áp dụng hợp lý các biện pháp điều trị tiêm; Ngăn ngừa việc sử dụng lại bơm tiêm và kim tiêm; Hủy bơm tiêm và kim tiêm đã qua sử dụng ngay tại nơi sử dụng; Phân loại chất thải ngay tại nơi phát sinh chất thải; Xử lý an toàn và tiêu hủy dụng cụ tiêm đã qua sử dụng. Các tổ chức trên cũng đã xây dựng Chiến lược toàn cầu vì mũi TAT bao gồm: (1) Thay đổi hành vi của cán bộ y tế, người 8 bệnh (NB) và cộng đồng; (2) Đảm bảo có sẵn vật tư, trang thiết bị; (3) Quản lý chất thải an toàn và thích hợp. Các biện pháp KSNK do tiêm không an toàn được chia thành 5 nhóm chính: (1) Loại bỏ nguy cơ; (2) Biện pháp kỹ thuật; (3) Biện pháp kiểm soát hành chính; (4) Biện pháp kiểm soát tập quán làm việc; (5) Dụng cụ bảo hộ cá nhân [2]. Từ đó đến nay, SIGN đã xây dựng và ban hành chiến lược an toàn trong tiêm trên toàn thế giới và nhiều tài liệu hướng dẫn liên quan đến tiêm. Với chính sách của SIGN đã tạo ra một sự thay đổi lớn trong nhận thức, hành vi của NB và cộng đồng, đặc biệt với chiến dịch hỗ trợ về truyền thông, kỹ thuật và thiết bị cho các nước chậm phát triển đã dần nâng cao tỷ lệ TAT và góp phần giảm thiểu các nguy cơ và gánh nặng của tiêm không an toàn tại mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Tại Việt Nam Thực hiện khuyến cáo và được sự hỗ trợ kỹ thuật của WHO, năm 2010 Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam ra Quyết định số 2642/QĐ-BYT ngày 21 tháng 7 năm 2011 thành lập Ban soạn thảo các tài liệu hướng dẫn KSNK, trong đó có Hướng dẫn TAT. Ban soạn thảo tài liệu gồm các thành viên có kinh nghiệm lâm sàng, giảng dạy và quản lý liên quan đến tiêm như ĐDV, Bác sĩ, Dược sĩ, chuyên gia KSNK, chuyên gia quản lý khám, chữa bệnh và đại diện Hội Điều dưỡng Việt Nam. Tài liệu được biên soạn trên cơ sở tham khảo chương trình, tài liệu đào tạo TAT do Cục Quản lý khám, chữa bệnh phối hợp với Hội Điều dưỡng Việt Nam xây dựng và áp dụng thí điểm tại 15 bệnh viện (BV) trong toàn quốc trong hai năm 2009 - 2010; Tham khảo các kết quả khảo sát thực trạng TAT của Hội Điều dưỡng Việt Nam các năm 2005, 2008, 2009; Tham khảo kết quả rà soát các tài liệu về tiêm, vệ sinh tay, quản lý chất thải y tế và KSNK Việt Nam và các tổ chức WHO, CDC, UNDP, tài liệu hướng dẫn TAT của một số Bộ Y tế các nước, các trường đào tạo điều dưỡng, y khoa, các 9 tạp chí an toàn cho NB và KSNK của khu vực và của toàn thế giới [1] [19]. Ngày 27 tháng 9 năm 2012 Bộ Y tế đã ban hành Hướng dẫn TAT với nhiều nội dung cập nhật so với quy trình tiêm hiện đang được thực hiện và yêu cầu: (i) Các cơ sở khám chữa bệnh sử dụng tài liệu này để tập huấn, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc cung ứng phương tiện tiêm, thuốc tiêm và thực hành TAT tại đơn vị mình: (ii) Các cơ sở đào tạo điều dưỡng, các trường đại học, cao đẳng và trung học y tế sử dụng tài liệu này để cập nhật chương trình, tài liệu đào tạo; (iii) Các cá nhân liên quan đến thực hành tiêm, cung ứng phương tiện và thuốc tiêm, các nhân viên thu gom chất thải y tế sử dụng tài liệu này trong thực hành, kiểm tra, giám sát nội dung tiêm, truyền tĩnh mạch ngoại vi [1]. Ngày 02 tháng 8 năm 2013, Cục Quản lý khám, chữa bệnh, Bộ Y tế cũng đã có Công văn số 671/KCB-ĐDV yêu cầu các đơn vị trực thuộc trong toàn quốc tổ chức, thực hiện nghiêm túc Hướng dẫn TAT. Sở Y tế Hà Nội là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố Hà Nội, chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Y tế. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Y tế, Sở Y tế Hà Nội đã có Công văn số 2369 ngày 19 tháng 8 năm 2013 yêu cầu các bệnh viện trực thuộc triển khai thực hiện Hướng dẫn TAT [19]. Từ khi triển khai chương trình tiêm an toàn trên toàn quốc, đã có một số nghiên cứu, khảo sát về tiêm an toàn được tiến hành. 1.2. Một số nghiên cứu về kiến thức và thực hành về tiêm an toàn 1.2.1. Trên thế giới Nghiên cứu so sánh kiến thức, thái độ thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng được tiến hành tại Bệnh viện Đại học y và Bệnh viện Sản ở Ibadan của Adejumo và Dada trên tổng số 385 điều dưỡng viên (ĐDV) cho thấy 100% ĐDV đã nghe nói về TAT, mức độ kiến thức được đánh giá là cao và không 10 có sự khác biệt đáng kể giữa hai BV, 70,4% biết được tiêm không an toàn có nguy cơ lây nhiễm bệnh qua đường máu, 55,9% cho rằng dùng hai tay đậy nắp kim tiêm không phải là thực hành TAT đúng, 76,1% cho rằng BKT sau sử dụng phải được bỏ vào thùng đựng chất thải sắc nhọn [39]. Báo cáo đánh giá thực hiện TAT và quản lý chất thải do tiêm tại 71 cơ sở y tế của 4 huyện trực thuộc Ethiopia của tổ chức USAID năm 2009 cho thấy sau năm triển khai chương trình can thiệp, thực hành tiêm của cán bộ y tế được cải thiện đáng kể: 80% vệ sinh tay trước khi tiêm; 78% thực hiện phân loại BKT ngay sau tiêm trong khi đó tỷ lệ này vào năm 2004 chỉ đạt lần lượt là 4% và 8% [28]. Nghiên cứu cắt ngang trên 80 điều dưỡng viên tại bệnh viện miền Tây Ấn Độ năm 2009 cho thấy, chỉ có 12,5% rửa tay bằng xà phòng và nước trước khi thực hành tiêm có 42,5% dùng hai tay đậy lại nắp kim tiêm sau tiêm [36]. 1.2.2. Tại Việt Nam Phạm Đức Mục (2005), đã tiến hành nghiên cứu trên 529 điều dưỡng hộ sinh đang công tác tại các khoa lâm sàng trong một số cơ sở y tế tại 8 tỉnh trong thời gian từ 15/6/2005 đến 15/7/2005 nhằm “Đánh giá kiến thức TAT và tần xuất rủi ro do vật sắc nhọn đối với điều dưỡng, hộ sinh tại 8 tỉnh đại diện, 6 tháng đầu năm 2005” bằng bộ câu hỏi phát vấn gồm 11 câu hỏi về kiến thức và nguyên nhân tiêm không an toàn, kết quả 95,3% ĐDV trả lời đúng TAT có thể lây truyền HIV, 97,4% trả lời đúng có thể lây truyền viêm gan B và 74,4% trả lời đúng có thể lây truyền HCV [29]. Tuy nhiên bộ công cụ phát vấn này chưa đi sâu vào kiến thức thực hành TAT và những nội dung cập nhật về kiến thức TAT. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2008), đã đánh giá kiến thức, thực hành về TAT của điều dưỡng, hộ sinh tại Bệnh viện Phụ sản Tiền Giang năm 2008 và xác định một số yếu tố liên quan đến TAT kết quả như sau: hiểu biết về ý nghĩa 11 TAT của điều dưỡng, hộ sinh đạt 100%, gần 95% điều dưỡng, hộ sinh có hiểu biết về sự cần thiết phải rửa tay trong quy trình tiêm và xác định các nguyên tắc, vùng vô trùng khi tiêm thuốc. Trên xe có hộp chứa vật sắc nhọn và hộp thuốc chống sốc khi đi tiêm đạt gần 100%. Tuy nhiên còn >30% điều dưỡng, hộ sinh chưa xử lý ban đầu đúng khi bị vật sắc nhọn đâm. Thực hành về TAT của điều dưỡng, hộ sinh cho thấy RT/SKT nhanh trước khi tiêm chỉ đạt < 15,9%, rút thuốc không đủ liều như sót thuốc, phụt thuốc khi đuổi khí chiếm gần 12%, hơn 20% điều dưỡng, hộ sinh còn lưu kim trên lọ sau khi rút thuốc, >50% điều dưỡng, hộ sinh không quan sát BN khi tiêm và >30% không tiện nghi lại cho họ sau khi tiêm. Xử lý chất thải, VSN sau khi tiêm được điều dưỡng, hộ sinh cô lập kim rất tốt 100% nhưng vẫn còn 1,3% điều dưỡng, hộ sinh dùng tay tháo lắp kim tiêm. So sánh nội dung TAT giữa kiến thức và thực hành cho thấy thực hành rửa tay trước khi tiêm so với kiến thức của điều dưỡng, hộ sinh chỉ đạt 16,9% [8]. Phan Cảnh Chương (2010), tiến hành “Khảo sát thực trạng TAT tại BV Trung ương Huế” bằng phương pháp quan sát 1000 mũi tiêm cho thấy các tiêu chí sử dụng dụng cụ tiêm thích hợp, an toàn được thực hiện rất tốt, 100% các mũi tiêm sử dụng bơm tiêm vô khuẩn dùng 1 lần, bông sát khuẩn (SK) được hấp tiệt khuẩn 95,2%, dung dịch SKT nhanh có sẵn trên xe tiêm đạt 98,1%, hộp kháng thủng gần nơi tiêm đạt 97,5%. Tuy nhiên thực hành tiêm còn một số vấn đề tồn tại: 37,7% ĐDV không rửa tay trước khi chuẩn bị dụng cụ, 29,0% khi rút thuốc tiêm chạm tay vào vùng vô khuẩn, 48,6% ĐDV sát khuẩn da vùng tiêm không đúng quy định, 34,5% không giao tiếp, quan sát người bệnh trong và sau khi tiêm, 61,7% ĐDV dùng hai tay đậy nắp kim tiêm, 64,3% ĐDV dùng tay để tháo kim sau khi tiêm, 74,5% ĐDV không mang găng tay khi tiêm truyền tĩnh mạch. Nghiên cứu chưa tìm được mối liên 12 quan đến thực hành tiêm an toàn của ĐDV tại bệnh viện [9]. Đào Thành (2010), tiến hành nghiên cứu đánh giá tại 13 BV đại diện toàn quốc, khảo sát nhận thức của 830 ĐDV qua bộ công cụ gồm 32 câu hỏi để đánh giá nhận thức, kiến thức và thái độ về TAT, kết quả cho thấy tỷ lệ có kiến thức về chuẩn bị trước tiêm đạt trên 82%, riêng kiến thức về tiêu chuẩn của hộp kháng thủng chỉ đạt 54,6%, kiến thức về quy trình tiêm đạt 65,3%, vệ sinh tay sau khi tiêm 50,5%, phòng ngừa và xử lý tai nạn do vật sắc nhọn còn rất hạn chế, chỉ có 30,9% có kiến thức đạt. Về thực trạng thực hiện quy trình tiêm cho thấy: điểm trung bình đạt 2,33/3, có 24,7% các mũi tiêm được thực hiện rất tốt, còn lại đều chưa đạt ở mức độ khác nhau, thậm chí có 14% các mũi tiêm không đạt theo quy định về vô khuẩn. Có 44,9% mũi tiêm không có hộp chống sốc, 2,8% không có hộp đựng VSN, 70,7% không rửa tay đúng kỹ thuật. 63,1% không thực hiện tốt SK đầu ống thuốc, 24% SK vùng tiêm không bảo đảm đúng quy định [9]. Nghiên cứu này đánh giá rất chi tiết, cụ thể về thực hành TAT của ĐDV và đưa ra một số khuyến nghị. Tuy nhiên nhóm nghiên cứu chưa có tổng hợp đánh giá tỷ lệ mũi tiêm đạt tiêu chuẩn TAT và chưa tìm hiểu mối liên quan với việc thực hành mũi tiêm đó của ĐDV. Tô Thị Minh Châm (2010), nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm đánh giá thực trạng các mũi TAT qua quan sát ngẫu nhiên thực hành tiêm của 22 ĐDV các khoa lâm sàng, mỗi ĐDV quan sát 2 mũi tiêm bằng bảng kiểm gồm 20 tiêu chí. Kết quả nghiên cứu cho thấy 100% các mũi tiêm chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ, phương tiện như bơm tiêm trong bao gói và có hạn dùng, có hộp chống sốc đủ cơ số trên xe tiêm, 99,55% không dùng tay để đậynắp và tháo kim sau khi tiêm, 97,7% đi găng khi tiêm tĩnh mạch. 100% thực hiện tốt “5 đúng” và đúng các kỹ thuật tiêm, 87,5% vệ sinh tay trước khi tiêm, chỉ có 54,5% SK nắp lọ thuốc và đầu ống thuốc khi lấy thuốc. 100% bỏ ngay BKT vào hộp đựng chất thải sắc nhọn ngay sau khi tiêm, chỉ có 1,1% phân loại rác 13 thải sai. Tỷ lệ mũi TAT trong nghiên cứu là 35,3% [11]. Đoàn Hoàng Yến (2011), nghiên cứu “Khảo sát thực trạng tiêm an toàn tại Bệnh viện Tim Hà Nội” tiến hành quan sát 378 mũi tiêm tại 3 khoa lâm sàng vào các thời điểm khác nhau trong ngày và đánh giá theo 4 nhóm tiêu chí: Sử dụng dụng cụ thích hợp, an toàn - không gây hại cho người được tiêm, không gây nguy cơ phơi nhiễm cho người thực hiện tiêm, không thải chất thải nguy hại cho người khác. Kết quả: Trung bình mỗi ngày có khoảng 136 mũi tiêm được thực hiện tại BV; Mỗi ĐDV thực hiện khoảng 3 mũi tiêm/ngày; Các dụng cụ, phương tiện thực hành TAT đã được chuẩn bị đầy đủ; 100% ĐDV thực hiện đúng kỹ thuật tiêm; Tỷ lệ sát khuẩn vị trí tiêm đúng quy định là 97,8%; Cô lập ngay vật sắc nhọn sau khi tiêm 98,4%. Tuy nhiên, còn một số thực hành của NVYT chưa tốt như tỷ lệ kiểm tra sự nguyên vẹn của bơm tiêm thấp 27,5%; Sát khuẩn đầu ống thuốc, lọ thuốc 13,4%. Nghiên cứu chưa đưa ra được tỷ lệ mũi tiêm đạt đủ cả 4 nhóm tiêu chuẩn đề ra [13]. Trần Thị Minh Phượng (2012), nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, kết hợp định lượng và định tính được tiến hành tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông, Hà Nội cho thấy tỷ lệ mũi tiêm thực hành đúng 23 tiêu chí TAT là 22,2%. Trong đó, thực hành đúng 5 tiêu chuẩn về phương tiện, dụng cụ là 86,5%; đúng 5 tiêu chuẩn về kỹ thuật tiêm là 66,5%; đúng 5 tiêu chuẩn về giao tiếp tương tác với NB là 47% và đúng 4 tiêu chuẩn về an toàn người tiêm và cộng đồng là 77,8%; đúng theo 4 tiêu chuẩn về vô khuẩn đạt thấp nhất 45,0% [14]. Nghiên cứu này đánh giá rất chi tiết, cụ thể các tiêu chí thực hành TAT, tổng hợp điểm để đánh giá mũi tiêm đạt tiêu chí thực hành TAT tuy nhiên có một số nội dung thực hành cập nhật trong Hướng dẫn TAT chưa được đưa vào để đánh giá: không sử dụng khẩu trang khi đi tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch ngoại biên; không sử dụng cồn iod để sát khuẩn da vùng tiêm; không dùng panh để gắp bông sát khuẩn vùng tiêm; không lạm dụng găng tay
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng