Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn nguyễn minh châu sau ...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn nguyễn minh châu sau 197

.PDF
62
663
115

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA: NGỮ VĂN TRÀN THỊ HƯƠNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 TÓM TẮT KHÓA LUẬN TÓT NGHIỆP ĐẠI HỌC • • • • Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học TS. LA NGUYỆT ANH HÀ N Ộ I-2 0 1 5 LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian học tập tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý thầy cô giáo và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo khoa Ngữ văn, đã truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu của mình cho sinh viên. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ La Nguyệt A nh, người đã bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức và nhiệt huyết đế giảng dạy cho em nhiều điều, giúp đỡ cho em không chỉ về kiến thức mà còn cả về tinh thần để em có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và bạn bè, nhũng người luôn ở bên cạnh giúp đỡ cho em. Khóa luận bước đầu tìm hiểu một vấn đề nhỏ trong một tác giả văn học lớn, vì vậy không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được những lời đóng góp, chia sẻ của quý thầy cô giáo và các bạn đó là động lực lớn lao nhất để em hoàn thành tốt khóa luận này. Hà Nội, tháng 5 năm 2015 Sinh viên Trần Thị Hương LỜI CAM ĐOAN Tên em là: TRẦN THỊ HƯƠNG Sinh viên lớp: K37A khoa Ngữ văn, trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. Em xin cam đoan: Khóa luận là công trình nghiên cứu của cá nhân, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ La Nguyệt Anh. Em xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc. Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Người cam đoan Trần Thị Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài............................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đ ề ..................................................................................................2 3. Mục đích nghiên cứu....................................................................................... 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 5 5. Đối tượng và phạm vi nghiên c ứ u ................................................................. 5 6. Phương pháp nghiên c ứ u ................................................................................6 7. Đóng góp của khóa luận.................................................................................6 8. Bố cục của khóa luận...................................................................................... 7 NỘI DUNG............................................................................................................. 8 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÈ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT VÀ THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN......................................................... 8 1.1.Giới thuyết chung về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật........................... 8 1.1.1. Khái niệm vê ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật.................................8 1.1.2. Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn h ọ c ........................... 9 1.1.3.Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn............................................. 10 1.2. Nguyễn Minh Châu và quá trình sáng tạo nghệ thuật.......................12 1.2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Minh Châu................................................12 7.2.2. Quá trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyên Minh Châu................... 14 CHƯƠNG 2. ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975...................................20 2.1. Ngôn ngữ trần thuật hiện thực, tỉnh táo................................................... 21 2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật mang tính khách quan...................................... 21 2.7.2. Ngôn ngữ trần thuật đậm chất đời thường........................................ 25 2.2. Ngôn ngữ đối thoại đậm chất triết lý và suy t ư .....................................28 2.2.7. Ngôn ngữ đoi thoại đâm chất triết lý................................................ 30 2.2.2. Ngôn ngữ đối thoại mang đậm chất suy t ư ....................................38 2.3. Ngôn ngữ độc thoại đậm chất trữ tình.................................................... 42 2.3.1. Ngôn ngữ đậm chât trữ tình trong việc miêu tả thiên nhiên............44 2.3.2. Ngôn ngữ đậm chất trữ tình trong việc thế hiện con người............48 KÉT LUẬN......................................................................................................... 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐÀU 1. Lí do chọn đề tài Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước, ông tham gia kháng chiến và cùng đồng đội trải qua những tháng năm ác liệt của hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Đó là những trải nghiệm thực tế của ông, nguồn cảm hứng để ông sáng tác văn học. Trước năm 1975, với tư cách là nhà văn - chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đi đúng theo quy luật vận động của thời đại với mục tiêu cao cả là phục vụ kháng chiến, cố vũ chiến đấu nhiệt tình ca ngợi các giá trị mới. Sau 1975, cùng với sự đổi mới của văn học, Nguyễn Minh Châu cũng đã đổi mới về cách viết, cách tiếp cận đời sống, và đặc biệt chú ý đến đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của mình. Ở chặng đầu trên hành trình đổi mới còn đầy khó khăn của nền văn học, Nguyễn Minh Châu đã trải qua “ một cuộc trở dạ đầy đau đem” . Là nhà văn quân đội, Nguyễn Minh Châu từng có những trang văn đầy hảo sảng và được đánh giá cao trong những năm chiến tranh. Tuyên ngôn về sự đổi mới với ý thức vượt qua giai đoạn văn nghệ “ minh họa” . Chính vì vậy, những trang văn của ông sau 1975 có một sắc thái mới thể hiện rõ tinh thần dân chủ. Đặc biệt, ở phương diện ngôn ngữ trong một không gian văn hóa, một tư duy nghệ thuật mới sáng tác của Nguyễn Minh Châu cũng mang một sắc thái mới. Mặt khác, sáng tác của Nguyễn Minh Châu được đưa vào các bậc học, nghiên cứu chuyên sâu về bất cứ vấn đề nào xung quanh những sáng tạo nghệ thuật của ông, đều có ý nghĩa thiết thực đối với việc học tập, nghiên cứu, 1 giảng dạy, sáng tác của Nguyễn Minh Châu nói riêng và truyện ngắn nói chung. Khao khát tìm hiểu thể giới ngôn ngữ đặc sắc, độc đáo của Nguyễn Minh Châu đã thôi thúc chúng tôi tìm hiểu đề tài: “Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975”. 2. Lịch sử vấn đề Nguyễn Minh Châu đã từng nói “Bất cứ một cây bút nào cũng không thế làm công việc của cả một nền văn học. Miên ỉà môi người với tất cả tâm lòng trân thành với cuộc sống, hãy ỉn cho thật sâu đậm dấu vết và bản sắc tư tưởỉĩg cùng tiếng nói nghệ thuật riêng của mình - tức cũng là chút đóng góp”.[2; tr307]. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu ra đời gây được sự chú ý của bạn đọc cũng như giới nghiên cứu, phê bình. Tính đến nay, tìm hiểu về Nguyễn Minh Châu có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình sáng tác, phong cách nghệ thuật... Đa phần các công trình nghiên cứu này đều tìm hiểu sự đối mới qua hai giai đoạn trước 1975 và sau 1975. Nguyễn Kiên cũng góp thêm tiếng nói khắng định giá trị tích cực mang tính định hướng mở đường của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, đặc biệt là những tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau. Tác giả viết “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu phù hợp vỏn nhu cầu phât trỉên chung. Nó vượt ra một cái gì gọi là chuyên riêng của Nguyên Minh Châu. Sáng tác của anh đê chúng ta bàn bạc được nhiều vấn đề lớn hơn” [14; tr300]. Nhìn chung nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng ủng hộ sự tìm tòi đối mới của Ngyễn Minh Châu, khắng định một tài năng đã được định hình và càng về sau càng vươn tới độ chín cần thiết. Các công trình nghiên cứu phải kể đến Luận án của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình với đề tài: Nhữĩĩg đối mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 hay công trình của Tiến sĩ Tôn Phương Lan đặt vấn đề nghiên cứu Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, PGS. Nguyễn Văn Long - TS. Trịnh 2 Thu Tuyết với cuốn sách Nguyên Minh Châu và công cuộc đối mới văn học Việt Nam sau 1975. Các công trình nghiên cứu đã đề cập ở nhiều phương diện để thấy sự đổi mới về thể loại truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. v ề phương diện ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thì có một số công trình nghiên cứu như Ngôn ngữ người kế chuyên và ngôn ngữ nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Mình Châu của Cao Xuân Hải hay Luận án Tiến sĩ của Đỗ Thị Liến Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Ngốn ngữ kế chuyên trong truyện ngắn Nguyễn Khải và Nguyên Minh Châu. Các công trình nghiên cứu này, đa phần đề cập đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ trong các truyện ngắn của ông và đi vào liệt kê các cách sử dụng ngôn ngữ. Sau 1975, với sự chuyển biến về tư tưởng và bút pháp truyện ngắn Nguyễn Minh Châu có sự đối mới về cách tiếp cận đời sống và con người trong thời đại đó. Có nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu như Những chuyến biến về tư tưởng và bút pháp trong truyện ngắn Nguyên Minh Châu sau ì 975 khóa luận của Nguyễn Văn Công - Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hay bài viết của giáo viên Nguyễn Thị Minh Tâm Trường THPT Võ Nguyên Giáp Những đôi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Một số nhà nghiên cứu văn học cũng đã đưa ra một số nhận định liên quan đến ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như Nguyễn Trọng Hoàn trong “Truyện ngắn Bức tranh - sự đoi diện và thức tỉnh lương tâm ” đã có cái nhìn khái quát về ngôn ngữ trần thuật, cách thức trần thuật, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi nói rằng “Ớ Nguyễn Minh Châu còn phải kể đếrt sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ đa thanh và thời gian, không gian và đồng hiện. Khỉ lùi vào độc thoại nội tâm, khi chuyến sang đối thoại trực tiếp, lúc cắt ngang bình luận ngoại đề, sự đan xen linh hoạt đó 3 khiến cho ngôn ngữ tác phấm có giọng điệu phức hợp, tạo nên hiệu quả cá biệt hóa hình tượng nhân vật từ bình diện đến điếm nhìn trần thuật” [14; trl71]. Trần Đình Sử cũng thấy biệt tài của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ trần thuật làm cơ sở hình thành hệ thống, giọng điều trần thuật sinh động, phong phú và đa dạng, tác giả viết: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tỉêt, miêu tả chân dung, môi trường, khăc họa tâm ỉỉ...anh ỉạỉ sành vận dụng ngôn ngữ nửa trực tiếp, dựng lại được những giọng điệu khác nhau của nhân vật”. [21; trl92] Như vậy, khi tìm hiếu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu các nhà nghiên cứu coi vấn đề ngôn ngữ trong truyện ngắn của ông đó là một trong những yếu tố quan trọng không trộn lẫn của ông trong bước đường cách tân nghệ thuật văn chương tạo sự khác biệt giữa hai giai đoạn văn học. Theo cuốn sách Nguyễn Minh Châu - về tác gia và tác phấm, thư mục tài liệu nghiên cứu tác gia, tác phẩm Nguyễn Minh Châu ghi nhận có đến 150 bài viết và công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Sáng tác của Nguyễn Minh Châu còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều luận văn tốt nghiệp bậc đại học, cao học. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Minh Châu sau 1975 và nhiều ý kiến cá nhân về ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của ông nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào tìm hiểu sâu về đặc trưng ngôn ngữ. Ke thừa và phát huy những thành tựu mà các nhà phê bình, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu. Trong khuân khố cho phép, khóa luận này em mạnh dạn đi sâu vào tìm hiểu về phương diện ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm ra những đổi mới về nghệ thuật và đặc trưng ngôn ngữ trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975. 4 Làm rõ những phương diện, đặc trưng ngôn ngữ quan trọng tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sáng tác này. Qua đó khắng định những đóng góp quý giá của Nguyễn Minh Châu đối với nền văn học hiện đại và khẳng định vai trò của những sáng tác của ông là những cách tân về ngôn ngữ nghệ thuật, góp phần đưa văn học Việt Nam hội nhập với văn học hiện đại thế giới. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu những vấn đề lý thuyết chung về khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật và đặc trưng cơ bản về thể loại truyện ngắn. Tìm hiểu vị trí truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong nền văn học Việt Nam và đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Từ lí thuyết đã nêu vận dụng để nghiên cứu các tác phẩm cụ thể.Từ đó giúp chúng ta khắng định những đóng góp của Nguyễn Minh Châu một cách toàn diện về sự đổi mới nghệ thuật sau 1975. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cún 5.1. Đối tưọng nghiên cún Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 5.2. Phạm vi nghiên cún Khóa luận bên cạnh đi tìm hiểu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu còn đi sâu vào tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ trong các truyện ngắn của ông, đặc biệt là truyện ngắn sau 1975. Với khuôn khố một khóa luận tốt nghiệp và khả năng làm chủ các tư liệu có hạn, chúng tôi tìm hiểu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cụ thể qua : Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. 5 Trong quá trình thực hiện đề tài người viết có thể so sánh với các tác phấm thời kỳ trước để thấy những nét riêng, độc đáo trong nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 1975. 6. Phương pháp nghiên cứu Cùng với việc sử dụng các phương pháp thường dùng trong văn học ở khóa luận này chúng tôi tập trung vào các phương pháp nghiên cứu sau: 6.1. Phương pháp nghiên cứu tác giả văn học Muốn chiếm lĩnh được nghệ thuật văn học phải đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn.Vì vậy phương pháp này rất được coi trọng khi nghiên cứu về đề tài liên quan đến con người, nghệ thuật của một nhà văn tác giả cụ thể. 6.2. Phương pháp phân tích - tống hợp Việc thực hiện đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cần phải có thao tác phân tích để làm rõ những đặc điểm những giá trị nghệ thuật từ đó rút ra những nhận xét tống hợp. 6.3. Phương pháp so sánh Việc so sánh những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kỳ này và thời kỳ trước nhằm làm nổi bật lên những đổi mới về phương diện ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau 1975. 7. Đóng góp của khóa luận Khóa luận góp phần làm rõ những đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu qua đó có cái nhìn toàn diện hơn về cách tiếp cận, cách phản ánh đời sống của ông qua các tác phẩm. Khóa luận hy vọng được cung cấp thêm một tư liệu nghiên cứu, học tập giúp học sinh có thêm điều kiện tìm hiếu văn chương Nguyễn Minh Châu. 6 8. Bố cục của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của khóa luận được triển khai theo 2 chương: Chương 1: Những vấn đề chung Chương 2: Đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỬNG VẤN ĐÈ CHƯNG VÈ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT VÀ THẺ LOẠI TRUYỆN NGẮN 1.1.Giói thuyết chung về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật 1.1.1. Khải niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật Ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp, con người sử dụng đế liên lạc hay giao thiệp với nhau cũng như chỉ chính năng lực của con người có khả năng sử dụng một hệ thống như vậy. Ngôn ngữ còn là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, cũng chính là phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp của xã hội. Gorki cũng khắng định: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học là công, chất liệu cơ bản của văn học nên nó được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ ” [ 15, tr.35]. Vậy ngôn ngữ nghệ thuật là gì? Ngôn ngữ nghệ thuật còn được gọi là ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ sử dụng trong tác phẩm văn chương. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân đã được nghệ thuật hoá. Ngôn ngữ ấy được chọn lọc, gọt rũa, chau chuốt,... và đặc biệt ngôn ngữ ấy phảỉ đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ, xúc cảm được nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Theo Từ đỉến thuật ngữ văn học, ngôn ngữ văn học: “là một trong những yếu tố quan trọng thế hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn, môi nhà văn lớn bao giờ cũng là tỏa sáng về mặt hiếu biết sâu sắc ngôn ngữ nhân dân, cẩn cù lao động đế trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sảng tác ” [10; tr215]. Theo tác giả Trần Đình Sử trong cuốn Lí luận văn học: “mọi tác phấm văn học đều được viết hoặc kế bằng lời: lời thơ, lời văn, lời tác giả, ...gộp 8 chung gọi là lời văn. Nếu ngôn ngữ tức là lời nói, viết trong tất cả các tính chất thấm m ĩ của nó là chất liệu của sảng tác văn học, thì lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tácphấm văn học”. [22; tr.313] Theo Từ điến thuật ngữ văn học thì: “ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ này cỏ ỷ nghĩa rộng hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng ngôn ngữ được dung một cách chuân mực trong cách vấn bản nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn bản và khoa học”. [10; tr.215] Như vậy, ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ nghệ thuật nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Và ngôn ngữ nghệ thuật giúp cho nhà văn, nhà thơ sáng tác ra những tác phẩm hay và có ý nghĩa. 1.1.2. Đặc trung của ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học Ngôn ngữ của một tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phấm văn học bao gồm tính hình tượng, tính hàm súc, tính biếu cảm, tính chính xác. Ngôn ngữ dân tộc là vốn chung mà mà mỗi người lại có cách sử dụng khác nhau. Và qua đó thấy được tài năng và phong cách sáng tạo của từng nghệ sĩ. Trong cuốn Thỉ nhân Việt Nam Hoài Thanh nhận xét: “Chưa bao giờ người ta thây xuất hiện cùng một lần một hôn thơ rộng mở như Thê Lữ, mơ mộng như Lưu Trọng Lư, hùng trảng như Huy Thông, trong sảng như Nguyên Nhược Pháp, ảo nào như Huy Cận, quê mùa như Nguyên Bính, kì dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân D iệu”[19]. Như vậy qua ngôn ngữ ta thấy những hiếu biết sâu sắc của tác giả về vốn sống, ngôn ngữ, quá trình tích luỹ ngôn ngữ, vốn hiểu biết về văn hoá... của tác giả. 9 Vì vậy, ta không thể phủ định vai trò to lớn của ngôn ngữ nghệ thuật đối với sáng tạo văn học và mỗi thời đại, mỗi thể loại lại có những đặc trưng ngôn ngữ riêng. 1.1.3.Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn 1.1.3.]. Thế loại truyện ngăn Truyện ngắn là một thế loại hết sức quen thuộc và gẫn gũi nhưng đế tìm một định nghĩa đầy đủ và chính xác thì không hề dễ. Theo Từ đỉến thuật ngữ văn học, truyện ngắn được xác định như sau: “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thế loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tu, thế sự hay sử thỉ nhung cải độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra đế tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ ” [10; tr370]. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng cho rằng: “truyện ngắn là tác phắm tự sự cỡ nhỏ, được viết bằng văn xuôi... Nét nối bật của truyện ngan là sự giới hạn về dung lượng... [1; tr345]. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều có sự thống nhất khi giới thiệu về thể loại truyện ngắn trước hết qua dung lượng, qua tính chất của nó và xem: “hình thức tự sự nhỏ, ngắn” trở thành đặc điểm và dấu hiệu để người đọc nhân diện nó. 1.1.3.2. Đặc trưng ngôn ngữ của truyện ngắn Truyện ngắn là một kiểu tư duy mới, sự nhận thức mới về cuộc đời mới và nó cũng có những đặc trưng cơ bản sau: Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Vì tác giả truyện ngắn thường hướng tới một khoảnh khắc, phát hiện ra nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người. 10 Bên cạnh đặc điểm “ngắn” các nhà nghiên cứu còn khu biệt truyện ngắn ở tính chất giới hạn trong việc phản ánh đời sống và ở hiệu quả nghệ thuật mà mà nó tạo ra khi so sánh với một thể loại gần gũi với tiểu thuyết. Là một “lát cắt đời sống”, nhiệm vụ chính của truyện ngắn không phải là trình bày đầy đủ một bức tranh rộng lớn về xã hội mà chủ yếu tập trung thể hiện một khoảnh khắc, một bước ngoặt quan trọng nào đó của đời sống, của đời người.Vì vậy, chất lượng nghệ thuật của truyện ngắn thường được yêu cầu ở sự chọn lọc, cô đúc, tiết kiệm. Khi sáng tác truyện ngắn, nhà văn cần chọn lựa ngôn từ; tìm kiếm các chi tiết tiêu biểu nói hết cho tác phẩm; nhân vật. Ket cấu của một truyện ngắn hay đòi hỏi phải có sự chặt chẽ, đảm bảo cho sự thống nhất cao độ để có thể tạo nên một hiệu quả nghệ thuật duy nhất. Từ đó, truyện ngắn tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nói như Nguyễn Minh Châu “C/ỉ/ cần ít trang văn xuôi...cỏ thế làm no tung trong tình cảm và ỷ nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại vân không thấy chán [6; tr313]. Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Minh Châu nghiêng về thể loại tiểu thuyết hơn là thể loại truyện ngắn. Tuy nhiên, không vì thế mà nói rằng truyện ngắn ít có vai trò hơn trong việc làm nên tên tuổi của ông. Nhà nghiên cứu Phạm Vĩnh Cư, trong một bài viết của mình về truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy không phủ nhận những thành tựu của mảng tiểu thuyết nhưng vẫn cho rằng: . .cải mà nhà văn đế lại cho đời lại không phải là những tác phâm dài hơi ấy, mà là dăm ba truyện ngan ỉn rải rác trên báo chí, trong các tập truyện cuối đời của anh'’ [6; tr.346]. Đi vào tìm hiểu sự nghiệp sáng tác văn chương của Nguyễn Minh Châu qua hai giai đoạn, nhất là giai đoạn sau 1975, ta thấy truyện ngắn có một vị trí đặc biệt trên nhiều bình diện: lượng, chất, 11 nhịp độ chuyển biến, khả năng thể hiện tư tưởng nghệ thuật đáp ứng tinh thần “tiên phong” trong hoạt động sáng tác của nhà văn,... Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. Ket cấu của truyện thường là một sự tương phản, liên tưởng và bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Đặc điểm quan trọng của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn đối với lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo ra cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. Các đặc điểm đó khiến sắc thái ngôn ngữ trong truyện ngắn có những đặc thù riêng. Ngoài ra giọng điệu cũng hết sức quan trọng làm nên cái hay của truyện ngắn. Có thế nói đặc trưng của thế loại đã chi phối đặc trung ngôn ngữ của truyện ngắn như một yêu cầu ngôn ngữ truyện ngắn phải chính xác, hàm súc có độ nén cao, đa nghĩa. Như vậy, những đặc trưng truyện ngắn đã đưa thể loại này thành một thể loại dân chủ, gần gũi với đời sống thường ngày, lại súc tích, dễ đọc, gắn liền với hoạt động báo chí, có tác dụng, ảnh hưởng kịp thời trong đời sống. Là thể loại có khả năng cập nhật và thích ứng linh hoạt trong quá trình phát triển của mình, truyện ngắn hiện đại cũng đã dung chứa và bao hàm những đặc điểm của nhiều thể loại khác. Nhìn sang tiểu thuyết, kịch, thơ trữ tình...truyện ngắn đã biết chọn cho mình mọi khoảng dung lượng, mọi phong cách khác nhau để làm tròn vai trò của một thể loại nhanh nhạy đi đâu trong việc đáp ứng những yêu cầu của đời sống - xã hội. 1.2. Nguyễn Minh Châu và quá trình sáng tạo nghệ thuật 1.2.1. Vài nét về tác giả Nguyễn Minh Châu Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là một trong nhũng cây bút văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kỳ 12 chống Mĩ. Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Vốn là một sĩ quan tham mưu trong quân đội, Nguyễn Minh Châu sống và làm việc trước hết với tư cách là người lính, nhưng lại viết văn. Cũng như nhiều nhà văn mặc áo lính cùng thời, công việc sáng tạo đòi hỏi người cầm bút phải có nhiều lăn lộn thực tế ở những nơi đầu sóng ngọn gió, ông đã tham gia nhiều chiến dịch, đã từng trải qua nhiều khó khăn gian khố ở rừng Trường Sơn. Hòa bình lập lại, ông cũng đi nhiều nơi, vào thành phố Hồ Chí Minh rồi trở ra Hà Nội, nhưng có lẽ dải đất miền Trung mới là miền đất để lại cho ông nhiều yêu thương nhất. Những năm cuối đời, ông còn ấp ủ dự định viết một cuốn tiểu thuyết của cuộc chiến ở thành cổ Quảng Trị, rất tiếc ông không thể hoàn thành vì ông đột ngột ra đi khi đang ở giai đoạn tài năng chín muồi nhất. Sau hơn một năm trời vật lộn với căn bệnh ung thư máu hiểm nghèo, ông đã vĩnh viễn chia tay cuộc đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại viện Quân y 108 Hà Nội. Với những đóng góp của mình với nền văn học Việt Nam, Nguyễn Minh Châu đã nhận được nhiều giải thưởng trong đó có Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000. 13 1.2.2. Quá trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu Là một nhà văn quân đội, tiếu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu viết nhiều về đề tài chiến tranh như một điều tất yếu. Tác phẩm Dấu chân người lính của ông từ lúc ra đời đã được bạn đọc và giới nghiên cứu đánh giá cao, được xem như là một trong những tiểu thuyết tiêu biểu về thời kì chống Mĩ. Bám sát hiện thực đời sống những năm chiến tranh, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu trước 1975 với những sáng tác; Cửa sông, Những vùng trời khác nhau...âầ cho chúng ta cái nhìn tương đối trọn vẹn về một thời kì hào hùng của dân tộc. Sau 1975, hiện thực cuộc sống đòi hỏi văn học phải có sự nhìn nhận toàn diện và thấu đáo hơn. Là một nhà văn luôn có ý thức gắn bó với đời sống, nhạy cảm với những thay đổi của thời cuộc. Nguyễn Minh Châu đã sớm nhận ra những vấn đề mới của đất nước ngay vào thời điểm chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. Ông có nhiều chuyển biến ngoạn mục với nhiều tìm tòi đối mới về tư tưởng và nghệ thuật. Nhà văn Nguyên Ngọc từng nhận định “ Nguyên Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài hoa nhất của văn học ta hiện nay ” [11]. Ngòi bút của nhà văn đã khiến ông mạnh dạn đề cập đến hiện thực nhức nhối của đời sống xã hội sau chiến tranh với những tác phẩm nổi bật như: Những vùng trời khác nhau (tập truyện, 1970), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện, 1983), Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện, 1987). Bằng tài năng và tâm huyết của một nhà văn luôn trăn trở với sự nghiệp văn học nước nhà, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những thay đổi trong tư duy nghệ thuật của mình qua hàng loạt tác phấm. Những truyện ngắn viết vào những năm 80 của thế kỉ XX in trong các tập Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Ben quê, cỏ lau của ông tạo nên một hiện tượng mới lạ trong văn học đương đại. Đánh giá về vai trò của Nguyễn Minh Châu đối với văn học 14 sau 1975, nhà văn Nguyên Ngọc trân trọng khẳng định: “thời gian, nhà phê bình nghiêm khắc và công công bằng ấy rồi sẽ xác định lại đủng đắn hơn nữa vị trí của Nguyễn Minh Châu. Song tôi nghĩ, hôm nay cõ lẽ cũng đã có thể nói không sai rằng Nguyễn Minh Châu thuộc so những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của vãn học ta hiện nay’\ 12]. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Mỗi nền văn học, mỗi giai đoạn phát triến của lịch sử dân tộc đều có những hiện thực lớn, bao trùm, thu hút sự quan tâm của xã hội nói chung, của các nhà văn nói riêng trong đó có Nguyễn Minh Châu. Hiện thực bao trùm và bức xúc nhất của giai đoạn trước năm 1975 là hiện thực đời sống chính trị xã hội với hai nội dung chính: cuộc chiến tranh vệ quốc và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa thì sau năm 1975 sáng tác của Nguyễn Minh Châu chuyển dần từ mạch cảm hứng sử thi sang mạch cảm hứng thế sự. Tư duy nghệ thuật hướng nhiều về đời tư với nhu cầu khám phá các vùng sáng - tối, thiện - ác trong con người. Chất liệu đời thường ùa vào trong văn học cùng lối văn giản dị, chính xác, gọi đúng tên sự vật, hiên tượng. Từ những năm 80 trở đi, Nguyễn Minh Châu có sự tìm tòi, thế nghiệm mới. Quan niệm mới về nghệ thuật đã chi phối làm thay đổi cách kiến tạo ngôn ngữ. Tạo nên một không gian nghệ thuật mới ở đó nhà văn vừa là chủ thể sáng tạo vừa là phát ngôn chủ thể giao tiếp tạo ra những cuộc đối thoại gọi mời sự đồng sáng tạo. Cũng theo đó, những sáng tạo ngôn ngữ đồng thời đưa nhà văn lên một vị trí mới trở thành nhà tư tưởng. Có thể nói, với sự đào sâu vào đặc trưng của thể loại văn học cùng các tính sáng tạo độc đáo truyện ngắn, Nguyễn Minh Châu đã đạt tới nét tiêu biểu của truyện ngắn. Với dung lượng ngắn, truyện ngắn có một khả năng bao quát hiện thực với những chi tiết, tính cách, nhân vật, kết cấu, cốt truyện mang tính điển hình cao độ và sức khái quát cao tạo một sức liên tưởng mạnh mẽ nơi 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất