Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thương mại và...

Tài liệu Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thương mại và thực tiễn tại cơ quan thi hành án dân sự thành phố hà nội

.PDF
86
1
56

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÀNH: LUẬT KINH TẾ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI BÙI THỊ THỦY HÀ NỘI - 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SỸ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI BÙI THỊ THỦY NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 8380107 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS. BÙI THỊ HUYỀN HÀ NỘI – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Bùi Thị Thủy, học viên lớp 18B, khóa 2018-2020 xin cam đoan đây là công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình. Hà Nội, ngày tháng năm 2021 Tác giả luận văn Bùi Thị Thủy DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT THADS Thi hành án dân sự CHV Chấp hành viên THA Thi hành án NPTHA Người phải thi hành án NĐTHA Người được thi hành án BLDS Bộ Luật dân sự SHTT Sở hữu trí tuệ QSD Quyền sử dụng BĐG Bán đấu giá KDTM Kinh doanh thương mại UBND Ủy ban nhân dân MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chƣơng 1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI.................. 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại.................................... 8 1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ................................................................................. 8 1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................... 13 1.1.3. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................... 18 1.1.4. Phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................... 20 1.2. Nội dung pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại............................................................... 28 1.2.1. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản ................... 28 1.2.2. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản.......................................................... 32 1.2.3. Thẩm quyền kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................... 37 1.2.4. Thời hạn kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại ............................................................................... 38 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại ....................................... 39 1.3.1. Quy định pháp luật ............................................................................. 39 1.3.2. Năng lực của cán bộ thi hành án........................................................ 39 1.3.3. Cơ chế quản lý tài sản, thu nhập ........................................................ 40 1.3.4. Ý thức của người dân ......................................................................... 40 1.3.5. Cơ chế phối hợp trong thi hành án dân sự.......................................... 41 Chƣơng 2 .THỰC TIỄN KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI.......................... 44 2.1. Giới thiệu khái quát về thành phố Hà Nội và Cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ............................................................................ 44 2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tinh hình kinh tế xã hội thành phố Hà Nội ......................................................................................................... 44 2.1.2. Giới thiệu về cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội .............. 45 2.2. Tình hình giải quyết các vụ án kinh doanh thƣơng mại và tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi hành án dân thành phố Hà Nội........................................................................................ 46 2.2.1. Tình hình giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại tại thành phố Hà Nội ......................................................................................................... 46 2.2.2. Tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi hành án dân thành phố Hà Nội ................................................................... 48 2.3. Một số khó khăn, vƣớng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi hành án dân thành phố Hà Nội........................................................................................ 50 2.3.1. Vướng mắc, hạn chế trong quy định của pháp luật............................. 50 2.3.2. Vướng mắc, hạn chế trong quy trình cưỡng chế ................................. 55 2.3.3. Vướng mắc, hạn chế trong yếu tố khách quan từ xã hội ..................... 56 2.3.4. Bất cập trong nhận thức, thực hiện quy định pháp luật của chấp hành viên ..................................................................................................... 58 2.3.5. Vướng mắc, bất cập trong thực thi việc cưỡng chế kê biên đối với từng loại tài sản cụ thể................................................................................. 58 Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI........................................................... 61 3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.......................................................................................................... 61 3.1.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong kê biên tài sản ............... 61 3.1.2. Yêu cầu về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi ...................................... 63 3.1.3. Yêu cầu về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia ............................................................................. 63 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.......................................................................................................... 65 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................... 65 3.2.2. Giải pháp về tổ chức và thực hiện....................................................... 71 KẾT LUẬN ................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận văn Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, nay đã qua 5 kỳ Đại hội đều kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Với chính sách đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, lấy đổi mới kinh tế trước tiên sau đó dần dần từng bước đổi mới về chính trị. Trong quá trình phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính vì lẽ đó trong các quan hệ pháp luật dân sự tăng lên một cách nhanh chóng, đi cùng với đổi mới là sự tăng lên của các vụ, việc tranh chấp dân sự, kéo theo sự tăng lên của các việc THADS. Để thi hành triệt để các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, các cơ quan THADS phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án KDTM nhằm THADS để từ đó giải quyết dứt điểm những bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án. Kê biên tài sản bảo đảm trong THADS là một biện pháp cưỡng chế kê biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách hồ sơ THA phải có kỹ năng toàn diện mới có thể thực hiện được công việc này. Mặt khác việc áp dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp, nếu thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế kê biên đó phải dừng hoặc hoãn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho các bên đương sự, tổ chức và Nhà nước. 1 Hơn nữa trong thực tế khi cơ quan THA khi áp dụng các biện pháp để cưỡng chế THADS trên thực tế thì quy định pháp luật về cưỡng chế THA nói chung và cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án KDTM còn thiếu, còn nhiều bất cấp và nằm rải rác gây khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn. Cơ quan THADS thành phố Hà Nội là cơ quan THA cấp tỉnh trực thuộc Tổng cục THADS có chức năng quản lý nhà nước và thực hiện công tác THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với đặc thù là địa bàn thủ đô của cả nước, có diện tích rộng, có dân số đông và đặc biệt là tình hình kinh tế xã hội phát triển rất nhanh. Do đó, Hà Nội có số vụ án KDTM đưa ra xét xử hàng năm thuộc loại lớn nhất của cả nước. Từ đó, hoạt động THADS trong đó có áp dụng biện pháp kê biên tài sản bảo đảm trong THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội có số lượng rất lớn. Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, thì hoạt động kê biên tài sản nói chung và kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án KDTM trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Công tác kê biên còn chưa đáp ứng được yêu cầu thi hành án, số vụ kê biên tài sản thành công còn ít trong khi số lượng tài sản cần kê biên là rất lớn. Nhiều vụ việc kê biên có tranh chấp về tài sản kê biên và tài sản thuộc đồng sở hữu của những người khác. Hoạt động kê biên các tài sản đang có tranh chấp, đang có quyết định thu hồi đặc biệt là quyền sử dụng đất còn nhiều. Những hạn chế, vướng mắc trên xuất phát từ nguyên nhân là những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án đối với các vụ án KDTM, cũng như những hạn chế về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan thi hành án dân sự trong hoạt động kê biên tài sản, hay quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án và các cơ quan khác còn chưa thực sự nhịp nhàng. Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thương mại và thực tiễn tại cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài sản, nội dung của luận văn có liên quan đến nhiều công trình nghiên cứu, 2 nhưng cá nhân quan tâm chú trọng đến các công trình, bài viết sau: - “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy Hiếu năm 2011 đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Trong bài viết của mình tác giả đã phân tích và thống kê được hệ thống các biên pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trong đó có biện pháp kê biên tài sản. Biện pháp kê biên tài sản theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự còn nhiều hạn chế, tồn tại nhất định cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung. - “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS năm 2010. Trong bài viết của mình tác giả phân tích những quy định của pháp luật về cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án. Tác giả đã đưa ra được phân tích về quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này cũng như phân tích những hạn chế, tồn tại trong quy định về kê biên tài sản trong thi hành án từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật có liên quan; - “Về kê kiên, xử lý tài sản” củaNguyễn Thanh Thủy và Lê Thị Kim Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010. Trong bài viết của mình tác giả đã đưa ra một số tình huống có khả năng phát sinh trong vấn để thi hành án dân sự, từ đó các tác giả cũng trình bày các phương án xử lý tình huống trong hoạt động thi hành án dân sự để có thể giải quyết tốt quan hệ pháp luật trong kê biên tài sản thi hành án; - “Vấn đề cưỡng chế đối với người thức ba” của tác giả Bùi Văn Yên và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau cưỡng chế thi hành án” của tác giả Trần Hoàng Đoán trong số chuyên đề về THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp luật tháng 5 năm 2012. Hai công trình nghiên cứu trên của các tác giả đã phân tích về một số nội dung liên quan đến hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự trong đó có hoạt động kê biên tài sản để làm rõ hơn các quy định của pháp luật về vấn đề này. Từ đó, tác giả luận giải các phương án để hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và kê biên tài sản nói riêng. - Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác 3 giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2008. Luận án là công trình nghiên cứu căn bản, hoàn thiện nhất vào thời điểm công bố về vấn đề pháp luật về thi hành án dân sự. Trong luận án tác giả có đưa ra phân tích về các quy định pháp luật về kê biên tài sản đảm bảo thi hành án dân sự nói chung nhưng chưa có phân tích cụ thể về lĩnh vực KDTM nói riêng. - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” tác giả Lại Anh Thắng năm 2015. Trong luận văn này tác giả đã phân tích về hoạt động thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ đó tác giả đưa ra phân tích các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trong thời gian tới. “Áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tòa án qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” của tác giả Châu Vũ tại Học viện khoa học xã hội năm 2017. Trong luận văn này, tác giả phân tích về những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của toà án. Đây có thể coi là công trình gần với đề tài nghiên cứu của học viên. Tuy nhiên, công trình này tác giả chỉ phân tích về biện pháp cưỡng chế, kê biên nói chung mà chưa có phần phân tích cụ thể về thi hành án trong các vụ án KDTM. - Đỗ Công Thức (2017), Pháp luật về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành các bản án, quyết định dân sự, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Trong luận văn của mình, tác giả phân tích về pháp luật cưỡng chế, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự. Trong bản án của mình, tác giả phân tích về những quy định của pháp luật về cưỡng chế, kê biên tài sản, cũng như hoạt động thực tiễn kê biên tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự nói chung mà không nghiên cứu sâu về vấn đề thi hành án trong lĩnh vực KDTM. Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về kê biên tài sản bảo đảm THADS được công bố ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về hoạt động kê biên tài sản trong các vụ án KDTM cũng như nghiên cứu trên địa bàn cụ thể là thành phố Hà Nội. Do đó, việc tác giả nghiên cứu đề tài trên vẫn mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. 4 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm THADS từ thực tiễn Cơ quan THADS thành phố Hà Nội để từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong THADS trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản bảo đảm trong trong các vụ án kinh doanh, thương mại như: khái niệm, đặc điểm của kê biên tài sản trong trong các vụ án kinh doanh, thương mại ; phân loại kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS; nội dung quy định của pháp luật về kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại. Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án kinh doanh, thương mại tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội từ đó đánh giá được những kết quả đạt được cũng như xác định được những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân. Thứ ba, đưa ra các phương hướng và các đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về kê biên tài sản bảo đảm THADS trong các vụ án kinh doanh, thương mại qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp luật hiện hành được thể hiện trong Luật thi hành án sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 về kê biên tài sản bảo đảm THADS trong các vụ án kinh doanh, 5 thương mại và thực tiễn thực hiện tại Cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội. - Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội trong phạm vi 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Dựa trên nền tảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng, luật pháp của Nhà nước, vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành và luận văn triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu kê biên tài sản để THADS. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp liệt kê, thống kê, sử dụng các trang web để tìm kiếm tài liệu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại, góp phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật THADS. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại, tác giả đã chỉ ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật THADS. Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội, tác giả đã phân tích 6 những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại tại Cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về kê biên tài sản để bảo đảm THA trong các vụ án KDTM. Chương 2: Thực tiễn kê biên tài sản sản để bảo đảm THA trong các vụ án KDTM tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội. Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản sản để bảo đảm THA trong các vụ án KDTM tại Cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội. 7 Chƣơng 1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại Kê biên là một động từ được ghép bởi hai từ “kê” và “biên”. Có rất nhiều cách hiểu về kê biên chẳng hạn như theo Từ điển bách khoa toàn thư thì “kê biên là cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp luật. Kê biên tài sản trong thi hành án là một trong những biện pháp cưỡng chế và CHV có quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành.1” Ở góc độ luật học thì “kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan thi hành án áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn do CHV ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án chuyển dịch tài sản cho người khác tẩu tán, hủy hoại tài sản.”2 Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, kê là “viết ra theo thứ tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thông báo” và “biên viết lên trang giấy”3. Còn theo giải thích trong cuốn Từ điển Luật học, kê biên tài sản là “biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà theo quy định của Bộ luật hình sự có thể bị phạt tiền cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Tòa án, chấp hành viên tiến hành để kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm bảo đảm cho việc xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật” 4 Với cách định nghĩa này, khái niệm kê biên chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hình sự. 1 Viện từ điển bách khoa (1999), Từ điển bách khoa, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 984 Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình thi hành án dân sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 154 3 Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.762 4 Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2005), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 572 2 8 Tuy nhiên, khái niệm này chưa đầy đủ bởi lẽ không phải chỉ có cơ quan điều tra của Công an mà tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý hành chính và cơ quan THADS được Nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản. Trong luận văn này, người viết chỉ xem xét kê biên ở góc độ luật học trên cơ sở đó sẽ phân tích, đánh giá để tìm hiểu rõ hơn về biện pháp cưỡng chế bằng hình thức kê biên tài sản để bảo đảm THA trong các vụ án KDTM theo những quy định của pháp luật hiện hành. Như vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiệu để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện với mục đích bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Cụ thể trong lĩnh vực THADS, biện pháp kê biên tài sản quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, (viết tắt là Luật THADS năm 2014) được xem là một trong những biện pháp cưỡng chế THADS do CHV áp dụng đối với tài sản của NPTHA trong trường hợp NPTHA không tự nguyện THA. Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của Luật THADS năm 2014, có thể thấy THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là bản án, quyết định). Cần lưu ý rằng chỉ khi NPTHA có điều kiện THA và đã hết thời hạn tự nguyện THA mà vẫn không THA thì CHV mới áp dụng biện pháp cưỡng chế THA để buộc người đó thực hiện nghĩa vụ của mình. Thứ hai, chúng ta cần phân tích về khái niệm vụ án KDTM. Trong đời sống xã hội, con người luôn sáng tạo, lao động, vươn lên và do đó, mối quan hệ của con người cũng luôn phát triển và ngày càng phong phú. Từ đó, các va chạm, xung đột, tranh chấp của con người cũng ngày càng phức tạp hơn. Trong thực tế, để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình, con người phải lao động và ra sức bảo vệ lợi ích từ quá trình lao động ấy. 9 Cũng chính từ nguyên nhân đó, các xung đột lợi ích đã xảy ra, trở thành những tranh chấp quyền lợi của con người với con người. Hiện nay, tranh chấp được đề cập từ nhiều góc độ khác nhau, với những nội dung không hoàn toàn đồng nhất. Tranh chấp là “đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”, “tranh chấp là mâu thuẫn, là xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên”. Như vậy, tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột của con người trong quá trình tồn tại và phát triển, là cái tự nhiên vốn có của cuộc sống, phát sinh, phát triển song hành cùng sự phát triển của xã hội. Mối quan hệ của con người ngày càng phong phú thì sẽ càng phát sinh tranh chấp trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tiêu biểu trong đó là tranh chấp về quyền lợi kinh tế. Đất nước đổi mới, nền kinh tế tập trung bao cấp đã được thay thế bởi nền kinh tế thị trường phát triển, năng động, cạnh tranh và phong phú. Bên cạnh đó, tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập thương mại quốc tế cũng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ và khốc liệt. Đứng trước những cơ hội và thách thức của thời cuộc, nước ta đang có những định hướng phù hợp, phát huy thế mạnh của nền kinh tế. Trong đó, phát triển thương mại là một trong những bước đi đúng đắn nhất, đem lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội. Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy nhiên, khái niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2014. Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá 10 trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, tranh chấp thương mại có thể hiểu đơn giản là những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại. Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được hiểu là trạng thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu. Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm: Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác. Tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định. Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại. Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng 11 hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên không có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn hợp). Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại. Khi các bên trong quan hệ tranh chấp không lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại hoặc đã sử dụng các phương thức này song không đạt được mục đích như mong muốn, thì giải quyết tranh chấp KDTM tại Toà án là một phương thức thường được các bên tranh chấp lựa chọn. Giải quyết tranh chấp KDTM tại Toà án được chia thành các giai đoạn tố tụng, bao gồm: giai đoạn sơ thẩm, giai đoạn phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và giai đoạn THA. Như vậy có thể hiểu, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với các cá nhân, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong hoạt động THADS, kê biên được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế THADS. Công tác THADS nói riêng và công tác THA 12 nói chung là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành Bản án, Quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí, tiền phạt và quyết định dân sự trong bản án hình sự, phần tài sản trong Bản án, Quyết định hành chính và Toà án, quyết định của Tòa án giải quyết pháp sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là Bản án, Quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế chỉ đặt ra khi NPTHA có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự nguyện THA thì CHV mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA để buộc NPTHA thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, kê biên tài sản bảo đảm THA trong các vụ án KDTM là một biện pháp cưỡng chế được quy định trong pháp luật về THADS do cơ quan THADS thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với các cá nhân, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phát sinh từ bản án, quyết định của Toà án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. 1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thương mại Đối với mỗi một biện pháp cưỡng chế sẽ có một đặc điểm riêng để nhận biết cũng như để cho các CHV dễ dàng áp dụng đối với từng vụ việc cụ thể. Theo Lênin thì pháp luật sẽ không còn là gì nữa nếu không có một bộ máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp quyền thì pháp quyền có cũng như không. Những quy tắc đạo đức, phong tục được con người tuân theo, chỉ nhờ vào sự tự giác, lòng tin, trình độ hiểu biết, tác động của xã hội; Còn quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi hành, công dân, các tổ chức, các người có liên quan không chấp hành thì Nhà nước sẽ cưỡng chế thi hành. Một số đặc điểm cơ bản của quá trình kê biên tài sản trong biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản: Thứ nhất, thể hiện tính quyền lực Nhà nước Quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ 13 quan Nhà nước. Trong đó, có hệ thống cơ quan THADS thuộc nhánh các cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Hệ thống tổ chức THADS được Thủ tướng Chính phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, bao gồm: Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS tỉnh, Chi cục THADS huyện. Bên cạnh đó, còn có cơ quan THADS trong Quân đội là Cục THA thuộc Bộ Quốc phòng và Phòng THA thuộc Quân khu. Theo đó, Nhà nước trao cho hệ thống cơ quan THADS thi hành phần dân sự của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc mọi cán bộ, công chức hay người lao động trong hệ thống cơ quan THADS đều có quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói chung và kê biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất nói riêng. Người áp dụng biện pháp kê biên bắt buộc phải là người được Nhà nước trao quyền. Cũng giống với các chức danh tư pháp khác được Nhà nước trao quyền như Thẩm phán thực hiện quyền xét xử; Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; CHV thi hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Nhờ đó, CHV có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Do vậy, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất chỉ có thể do CHV áp dụng. Tuy nhiên, thực hiện công vụ là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất nói riêng cần phải dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai, kể cả CHV. Tại Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án”. Trên cơ sở Nghị quyết này của Đảng, Quốc hội đã lần lượt ban hành 03 Nghị quyết từng bước thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại từ phạm vi hẹp rồi mở rộng dần, bắt đầu từ năm 2010 chỉ thí điểm riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, từ 01/07/2012 đến hết ngày 31/12/2015 thực hiện thí điểm nhân rộng trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố và kể từ ngày 01/01/2016 đã chấm dứt việc thí điểm, đây cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của một nghề mới, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan