PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận:
Trong việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ
môn nói riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố quan
trọng, bên cạnh việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, việc phát huy tính
tích cực của học sinh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, xét cho cùng,
công việc giáo dục phải được tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự hành
động, việc khơi dậy phát triển ý thức năng lực tư duy, bồi dưỡng phương
pháp tự học là con đường phát triển tối ưu của giáo dục.
Bài tập vật lý có tác dụng rất lớn cả 3 mặt: Giáo dục, giáo dưỡng và
giáo dục kỹ thuật tổng hợp. Tác dụng của nó là càng tích cực nếu trong qúa
trình dạy học có sự lựa chọn cẩn thận các hệ thống bài tập chặt chẽ về nội
dung, thích hợp về phương pháp và bám sát mục đích dạy học ở trường
THCS. Hệ thống các bài tập lựa chọn phải đảm bảo được tính mục đích của
dạy học Vật lí và khắc sâu kiến thức, đảm bảo tính thực tiễn phù hợp với
nhu cầu tâm lý, tính cách của học sinh.
Trong chương trình Vật lí THCS, đa số bài tập trong sách giáo khoa
và sách bài tập thường là những vấn đề không quá phức tạp, có thể giải được bằng những suy luận lô gíc, bằng tính toán hoặc thực nghiệm dựa trên cơ
sở những quy tắc, tính chất, định luật vật lí... đã học. Do đó, hướng dẫn
phương pháp và rèn kĩ năng giải bài tập vật lý là một khâu quan trọng trong
quá trình dạy và học Vật lí.
Việc giải bài tập Vật lí giúp củng cố đào sâu, mở rộng những kiến
thức cơ bản của bài giảng, xây dựng củng cố kỹ năng kỹ xảo vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn, là biện pháp cơ bản để phát triển năng lực tư duy của
học sinh, từ đó phát triển trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ, có tác dụng sâu sắc
về mặt giáo dục đạo đức. Vì thế trong việc giải bài tập Vật lí mục đích cơ
bản không phải chỉ là tìm ra đáp số, mà mục đích chính của việc giải là ở
chỗ học sinh hiểu được sâu sắc hơn các khái niệm, định luật Vật lí, vận
Trang 1
dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong cuộc sống, trong lao động.
2. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS TT Văn Giang, đặc biệt là dạy
Vật lí cho thấy học sinh thì lại rất ít được thâm nhập thực tế nên khả năng
áp dụng kiến thức đã học vào giải bài tập còn hạn chế, học sinh còn gặp rất
nhiều khó khăn, lúng túng khi giải các bài tập Vật lí, điều này ít nhiều ảnh
hưởng đến chất lượng dạy và học.
Có nhiều học sinh ham mê học bộ môn Vật lí, nhưng khi làm các bài
tập vật lí các em thường lúng túng trong việc định hướng giải, có thể nói
hầu như các em chưa biết cách giải, cũng như trình bày lời giải.
Thực trạng nêu trên có thể do một số nguyên nhân sau:
+ Học sinh chưa có phương pháp tổng quan để giải một bài tập Vật
lí.
+ Học sinh chưa biết vận dụng các kiến thức, định luật Vật lí....
+ Nội dung cấu trúc chương trình sách giáo khoa mới không dành
nhiều thời lượng cho việc hướng dẫn học sinh giải bài tập hay luyện tập
(đặc biệt là chương trình vật lí ở các lớp: 6, 7, 8) thường là lồng ghép trong
tiết lí thuyết, dẫn đến học sinh không có điều kiện bổ sung, mở rộng và
nâng cao kiến thức cũng như được hướng dẫn hình thành phương pháp và
rèn kĩ năng giải bài tập vật lý.
Có những em nhận thức còn sai, có những em hiểu vấn đề nhưng lại
không biết diễn đạt, trình bày không lô gic, không khoa học.... Các
em
chưa hiểu sâu, hiểu kĩ các kiến thức Vật lý, còn thụ động trong lĩnh hội kiến
thức. Trong khi chữa bài tập, nhiều học sinh vẫn còn thờ ơ, nhiều học sinh
chỉ cần kết quả đối chiếu, thậm chí vẫn còn học sinh chưa biết tóm tắt bài
toán bằng các kí hiệu Vật lý, cách đổi ra đơn vị cơ bản...đặc biệt là chưa giải
thích được các hiện tượng Vật lý trong đời sống và kĩ thuật. Bên cạnh đó có
những HS còn lười tìm hiểu, chỉ phụ thuộc vào giáo viên yêu cầu hay
hướng dẫn gì thì làm đấy, không phát huy được tinh thần tự học, tự giác làm
bài tập. Do đó đa số các em vẫn sợ học môn Vật lý và vẫn thường truyền
miệng câu “khó như Lý,....”.
Trang 2
Cụ thể, trước khi thực hiện đề tài này tôi khảo sát chất lượng của học
sinh thông qua bài kiểm tra có đề bài như sau:
Để có 500gam nước ở nhiệt độ 18oC để pha thuốc rửa ảnh,người ta
lấy nước cất ở 60oC trộn với nước cất ở nhiệt độ 4 oC. Hỏi đã dùng bao
nhiêu lượng nước mỗi loại? Bỏ qua sự trao đổi nhiệt với vỏ bình.
Kết quả thu được với học sinh ở khối lớp 8 như sau:
Sĩ
Khối
8
số
112
Giỏi
SL
4
%
3,5
Khá
SL
19
TB
%
17,
SL
44
%
39,3
0
Yếu Kém
SL
%
45
40,
2
Những sai sót của học sinh:
+ Kí hiệu các đại lượng chưa khoa học dẫn đến xác định không chính
xác độ tăng(giảm) nhiệt độ t.
+ Không thiết lập được mối liên hệ: m1= 0,5- m2 (Kg).
+ Chuyển vế các hạng tử chưa đổi dấu ...
Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan để dẫn đến kết quả
bài làm của học sinh còn chưa cao là:
Một là, học sinh chưa tìm hiểu kỹ đề bài.
Hai là, học sinh chưa xác lập được mối liên hệ của các dữ kiện xuất
phát với cái phải tìm.
Ba là, kiến thức toán học - đặc biệt là kỹ năng luận giải của học sinh
còn nhiều hạn chế.
Bốn là, phân phối chương trình Vật lí 8 chưa có tiết bài tập để giáo
viên định hướng chi tiết các bước giải bài tập và luyện kỹ năng giải bài tập
cho học sinh.
Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy tôi đã chú trọng hình thành
cho học sinh kĩ năng phân tích bài toán, rèn cho học sinh kĩ năng trình bày
lời giải bài tập.
Do đó, tôi đã viết lại kinh nghiệm: “Hướng dẫn phương pháp và rèn
Trang 3
kĩ năng giải bài tập vật lý 8, 9" nhằm giúp học sinh nắm chắc được kiến
thức cơ bản, mở rộng và hiểu sâu kiến thức, biết vận dụng vào thực tế.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm về việc "Hướng dẫn phương
pháp và rèn kĩ năng giải bài tập vật lý 8, 9 " với mục đích áp dụng kinh
nghiệm này trong giảng dạy nhằm:
Rèn luyện cho học sinh biết vận dụng lý thuyết vào giải bài tập, thông
qua việc giải bài tập các em lại hiểu sâu lý thuyết hơn, từ đó giúp học sinh
phát triển khả năng tư duy, phân tích và tổng hợp các kiến thức đã học. Như
thế các em hình thành các kiến thức có hệ thống, hiểu chắc và hiểu sâu các
kiến thức hơn.
Từ đó nâng cao được chất lượng học tập bộ môn, xây dựng cho các
em hứng thú học tập và lòng yêu thích bộ môn, giúp cho quá trình giảng
dạy nói chung và môn vật lí nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất.
PHẦN II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu lí luận về phương pháp giải bài tập Vật lí.
2. Nghiên cứu lí luận về sử dụng bài tập vật lí trong dạy học Vật lí.
3. Nghiên cứu chương trình nội dung kiến thức các bài học Vật lí ở cấp
THCS.
3. Nghiên cứu sự tiếp thu kiến thức đã học của học sinh và khả năng vận
dụng các kiến thức đó vào giải quyết các bài tập cụ thể.
4. Nghiên cứu các dạng bài tập điển hình và cách giải quyết các dạng bài tập
đó trong phạm vi chương trình vật lí THCS, đặc biệt là phân loại bài tập vật
lí.
I.1. Sơ đồ phân loại bài tập vật lí
* Phân loại theo phương tiện giải :
Trang 4
Bài tập vật
lí
Bài tập
giải thích
hiện tượng
Bài tập dự
đoán hiện
tượng
Bài tập
định
tính
Bài tập
định
lượng
Bài tập thí
nghiệm
Bài tập
đồ thị
Bài tập
thực
nghiệm
* Phân loại theo mức độ
Bài tập vật
lí
Bài tập tập dượt
Bài tập tổng hợp
Bài tập sáng tạo
Ngoài việc nắm vững kiến thức, để có kỹ năng tốt trong việc giải bài
tập Vật lí đòi hỏi học sinh phải nắm vững phương pháp giải cũng như cách
trình bày lời giải, phải có kỹ năng phân loại được các dạng bài tập.
Trong các tiết dạy luyện tập và tiết lý thuyết có lồng ghép chữa bài
tập, tôi đã hướng dẫn học sinh:
+ Trình tự giải một bài tập vật lí.
+ Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
+ Áp dụng phương pháp giải bài tập vật lí vào một số bài tập cơ
bản.
I.2. Trình tự giải một bài tập vật lí.
- Phương pháp giải một bài tập Vật lí phụ thuộc nhiều yếu tố: mục
đích yêu cầu của bài tập, nội dung bài tập, trình độ của các em, v.v... Tuy
nhiên trong cách giải phần lớn các bài tập Vật lí cũng có những điểm chung.
- Thông thường khi giải một bài tập vật lí cần thực hiện theo trình tự
sau đây:
Trang 5
Bước 1. Đọc kỹ đầu bài
- Đọc kỹ đầu bài (khác với thuộc đầu bài), tìm hiểu ý nghĩ của những
thuật ngữ, yêu cầu học sinh đọc những vấn đề có liên quan, hiểu kỹ hơn một
số điều mà sách giáo khoa không có điều kiện nói kỹ; có thể phát biểu tóm
tắt, ngắn gọn, chính xác: bài tập cho biết gì? Cần phải tìm gì?
- Bài liên quan tới những kiến thức gì đã học (Định lí, tính chất... gì?)
-Tóm tắt đầu bài bằng cách dùng các ký hiệu chữ đã quy ước để viết
các dữ kiện và ẩn số, đổi đơn vị các dữ kiện cho thống nhất phù hợp với yêu
cầu bài tập.
- Vẽ hình, nếu bài tập có liên quan đến hình vẽ hoặc nếu cần phải vẽ
hình để diễn đạt đề bài. Cần vẽ đúng tỉ lệ xích, trên hình vẽ cần ghi rõ dữ
kiện cái đã cho và cái cần tìm.
* Thí dụ ở bài khảo sát (mục 2- phần I) các dữ kiện xuất phát và cái
phải tìm có thể được trình bày vắn tắt như sau:
m= 500g = 0,5Kg; t= 18oC
m2, t
m1, t1
t1=60oC; t2=4oC; c1=c2=c
m1? m2?
m,t
Bước 2. Phân tích nội dung bài tập, lập kế hoạch giải.
- Phân tích nội dung làm sáng tỏ bản chất vật lý, xác lập mối liên hệ
của các dữ kiện có liên quan tới công thức nào rút ra cái cần tìm. Tìm sự
liên hệ giữa những cái chưa biết (ẩn) và những cái đã biết (dữ kiện)
- Nếu chưa tìm được trực tiếp các mối liên hệ ấy thì có thể phải xét
một số
bài tập phụ để gián tiếp tìm ra mối liên hệ ấy.
- Nếu là bài định tính cần phân tích kỹ hiện tượng và những hiện
tượng, kiến thức có liên quan từ đó tìm ra mối liên hệ và định hướng giải.
- Xác định phương hướng và kế hoạch giải.
* Thí dụ ở bài tập khảo sát mục 2-phần I- các mối liên hệ cụ thể đã
xác lập được là:
Trang 6
+ Do t1 > t2 nước ở 60oC đóng vai trò là vật toả nhiệt; nước ở 4 oC đóng
vai trò là vật thu nhiệt. Khi có cân bằng nhiệt xảy ra, áp dụng phương trình
cân bằng nhiệt
Ta có:
Qtoả
= Qthu
m1ct1 =
m2ct2
m1(t1-t) =
m2(t-t2) (1)
+ Mặt khác theo bài ta có: m1 = m - m2 (2)
Bước 3. Thực hiện kế hoạch giải.
- Chọn công thức thích hợp kế hoạch giải, thành lập các phương trình
nếu cần. Chỉ rõ tính chất, định luật... đã sử dụng. Tôn trọng trình tự phải
theo để thực hiện các chi tiết của dự kiến, nhất là khi gặp một bài tập phức
tạp.
- Thực hiện các phép tính số học, đại số hoặc hình học. Giáo viên
hướng dẫn học sinh làm quen dần với cách giải bằng chữ và chỉ thay giá trị
bằng số của các đại lượng trong biểu thức cuối cùng.
- Khi tính toán bằng số, phải chú ý đảm bảo những trị số của kết quả
đều có ý nghĩa.
* Thí dụ ở bài tập khảo sát mục 2 - phần I, việc liên hệ phương trình
(1), (2) đã xác lập được cho lết quả phải tìm là khối lượng nước m2,, m1 là:
m2
3
1
m 0,375(kg ) và m1 m 0,125(kg ) .
4
4
* Chú ý: Hoạt động giải bài tập trong thực tế có khi không thấy tách
bạch rõ bước thứ ba với bước thứ hai như nói ở trên. Không phải bao giờ
chúng ta cũng xác lập xong các phương trình rồi mới bắt đầu luận giải với
các phương trình để rút ra kết quả cần tìm. Có thể là sau khi xác lập được
mối liên hệ vật lí cụ thể nào đó, thì ta thực hiện ngay sự luận giải với mối
liên hệ đó (biến đổi phương trình đó), rồi tiếp sau đó mới lại xác lập một
mối liên hệ vật lý khác. Nghĩa là sự biến đổi các phương trình cơ bản đã
xác lập được xen kẽ với việc tiếơ tục xác lập các phương trình cơ bản tiếp
theo. Tuy nhiên ở đây ta vẫn thể hiện hai hoạt động kế tiếp nhau. Đó là việc
vận dụng kiến thức vật lý vào điều kiện cụ thể của bài tập để xác lập mối
Trang 7
liên hệ cụ thể nào đó và việc trộn giải tiếp theo với mối liên hệ đã xác lập
được này. Vì vậy khi khái quát hoá phương trình giải 1 bài tập ta vẫn có thể
chỉ ra được đâu là phương trình cơ bản cụ thể cần xác lập để sự luận giải
từ các phương trình đó cho phép rút ra kết luận cần tìm.
Bước 4. Kiểm tra đánh giá kết quả.
- Kiểm tra lại giá trị của kết quả: Có đúng không? Vì sao? Có phù
hợp với thực tế không? Lập luận đã chặt chẽ chưa? Bài giải có thuyết phục
không?
- Kiểm tra lại các phép tính: có thể dùng các phép tính nhẩm và dùng
cách làm tròn số để tính cho nhanh nếu chỉ cần xét độ lớn của kết quả trong
phép tính.
- Nếu có điều kiện, nên phân tích, tìm một cách giải khác, đi đến
cùng một kết quả đó. Kiểm tra xem còn con đường nào ngắn hơn không. Từ
đó chọn cách giải hay nhất.
* Thí dụ trong bài tập khảo sát ở mục 2 -phần I, khi thực hiện phép
tính ta thu được kết quả (m1, m2) có đơn vị là kg đúng là đơn vị khối lượng.
Khối lượng tính được: m1=0,125 (kg) và m2=0,375 (kg) đều dương và nhỏ
hơn m=0,5kg như vậy là phù hợp.
Áp dụng các bước giải trên khi luyện tập cho học sinh kỹ năng giải
hai bài tập cân bằng nhiệt tôi thường hướng dẫn học sinh trình bày theo
trình tự sau:
* Ghi ở cột bên trái tất cả các nhiệt lượng (Q 1, Q2…) cho bởi các vật
toả nhiệt trong quá trình trao đổi nhiệt.
* Ghi ở cột bên phải tất cả các nhiệt lượng (Q' 1, Q'2…) cho bởi các vật
thu nhiệt trong quá trình trao đổi nhiệt.
* Viết phương trình cân bằng nhiệt dưới dạng đẳng thức của tổng các
nhiệt lượng cho và tổng các nhiệt lượng thu trong quá trình trao đổi nhiệt:
Q1 + Q2 + … = Q'1 + Q'2 + …
* Giải phương trình để xác định đại lượng cần tìm.
*Chú ý: Trong công thức Q = mct đơn vị của khối lượng m là (Kg);
của nhiệt dung riêng c là (J/Kg.K); của t là (oK). Khi thay số ta tính Q
Trang 8
theo đơn vị Jun (J) nhưng lưu ý học sinh đơn vị nhiệt độ trong nhiệt giai
Xen xi út kí hiệu là oC và trong nhiệt giải Kenvin kí hiệu là K. Khi tính độ
tăng (giảm) nhiệt độ t theo oC hay K đều có giá trị đại số như nhau và khi
tính Q ta không cần thiết phải chuyển đổi nhiệt giải trong quá trình giai
toán.
Tóm tắt các bước giải bài tập vật lý theo sơ đồ
Bài tập vật lý
Cho gì?
Vẽ
Hỏi gì?
Dữ kiện (tóm tắt)
Hiện tượng – Nội dung
Bản chất vật lý
Kế hoạch giải
Chọn công thức
Cách giải
Kiểm tra - đánh giá, biện luận
I.2. Hai phương pháp suy luận để giải các bài tập vật lí.
Xét về tính chất thao tác của tư duy, khi giải các bài tập vật lí, người
ta thường dùng phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp.
a) Giải bài tập bằng phương pháp phân tích.
- Theo phương pháp này, xuất phát điểm của suy luận đại lượng cần
tìm. Người giải phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan với
những đại lượng Vật lí nào khác và một khi biết sự liên hệ này thì biểu diễn
nó thành những công thức tương ứng. Nếu một vế của công thức là đại
lượng cần tìm còn vế kia chỉ gồm những dữ liệu của bài tập thì công thức ấy
cho ra đáp số của bài tập. Nếu trong công thức còn những đại lượng khác
chưa biết thì đối với mỗi đại lượng đó, cần tìm một biểu thức liên hệ với nó
Trang 9
với các đại lượng Vật lí khác; cứ làm như thế cho đến khi nào biểu diễn
được hoàn toàn đại lượng cần tìm bằng những đại lượng đã biết thì bài toán
đã được giải xong.
Như vậy cũng có thể nói theo phương pháp này, ta mới phân tích một
bài tập phức tạp thành những bài tập đơn giản hơn rồi dựa vào những quy
tắc tìm lời giải mà lần lượt giải các bài tập đơn giản này. Từ đó tìm dần ra
lời giải của các bài tập phức tạp nói trên.
Thí dụ ta hãy dùng phương pháp phân tích để giải bài tập sau:
Đề bài:
Người ta dùng một loại dây hợp kim đồng có tiết diện 10 mm 2 và có
điện trở suất là 0,4.10-4 m để làm một lò sưởi điện sưởi ấm một gian
phòng. Hỏi cần phải lấy chiều dài của dây dẫn này là bao nhiêu để duy
trì nhiệt độ của phòng luôn luôn không đổi nếu mỗi giờ gian phòng này
bị mất một nhiệt lượng bằng 2970 000J qua các cửa sổ và các bức tường.
Biết nguồn điện cung cấp cho lò sưởi có điện áp là 220V.
Hướng dẫn giải:
- Đại lượng cần tìm ở đây là chiều dài của dây hợp kim. Ta tìm mối
liên hệ giữa chiều dài của dây dẫn với các đại lượng khác trong bài.
- Ta biết rằng muốn nhiệt độ của phòng luôn luôn không đổi thì trong
mỗi giờ nhiệt lượng lò sưởi cung cấp phải bằng nhiệt lượng mà phòng mất
đi. Nhiệt lượng do lò sưởi cung cấp tương đương với điện năng mà lò sưởi
tiêu thụ. Điện năng lại phụ thuộc điện trở của dây hợp kim đồng. Điện trở
này lại do chiều dài của
dây qui định.
* Nếu gọi chiều dài của dây là l, điện trở của dây là R, điện trở suất
của nó là và tiết diện của nó là S, thì chiều dài của dây dẫn liên hệ với
l
R =
S
điện trở của nó bằng công thức:
l
Do đó:
R.S
(1)
* Trong biểu thức của chiều dài có một đại lượng mới chưa biết đó là
điện trở R của dây. Điện trở này đo bằng tỉ số của hiệu điện thế U với cường
Trang 10
R
độ dòng điện I qua dây:
U
I
(2)
* Đại lượng mới chưa biết là cường độ dòng điện I thì liên hệ với các
đại lượng khác bằng định luật Ôm và bằng công thức biểu diễn năng lượng
A do dòng điện toả ra. Ta đã dùng định luật Ôm trong (2). Vậy mối liên hệ
giữa I và A là:
A = I.U.t
trong đó t là thời gian dòng điện chạy qua dây; từ đó suy ra:
I
A
U .t
(3)
* Trong công thức trên, điện năng tính ra Jun. Điện năng này tương
đương với nhiệt lượng Q mà dòng điện cung cấp (và với nhiệt lượng mà
gian phòng mất đi) trong thời gian t theo biểu thức:
Q =A
(4)
ở vế phải của biểu thức (4), tất cả các đại lượng đều đã biết. Bây giờ
cần thay thế biểu thức sau vào biểu thức trước và cứ thế đi dần từ biểu thức
cuối lên biểu thức đầu:
I
- Thay (4) vào (3) được:
- Thay (3)’ vào (2) được:
’
- Thay (2) vào (1) được
Q
U .t
R
(3)’
U 2 .t
Q
U 2 .t.S
l
Q.
(2)’
(1)’
-Thay các đại lượng trên bằng các trị số của chúng vào (1)’
+Với:U = 220 V
t = 1h = 3600s
S = 10 mm2 = 10.10-4 m2
Q = 2 970 000 J
= 0,4.10-4 m
2202.3600.1,5.104
220(m)
+ Ta được: l
2970000.0, 4.104
- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
Trang 11
b) Giải bài tập bằng phương pháp tổng hợp.
Theo phương pháp này, suy luận không bắt đầu từ các đại lượng cần
tìm mà bắt đầu từ các đại lượng đã biết có nêu trong bài. Dùng công thức
liên hệ các đại lượng này với các đại lượng chưa biết, ta đi dần đến công
thức cuối cùng trong đó chỉ có một đại lượng chưa biết là đại lượng cần tìm.
Theo phương pháp tổng hợp, bài tập nêu trong ví dụ trên có thể giải
như sau:
* Muốn nhiệt độ trong phòng luôn luôn không đổi thì nhiệt lượng do
dòng điện qua lò sưởi toả ra trong một thời gian t nào đó (ở đây là 1giờ)
phải bằng nhiệt lượng Q mà gian phòng mất đi trong thời gian đó.
Theo định luật Jun - Len xơ thì.
Q = I2.R.t
(1)
trong đó R là điện trở của dây dẫn của lò sưởi, I là cường độ dòng điện qua
lò
sưởi.
* Theo định luật Ôm, ta có:
U
R
I
(2)
* Nhưng điện trở của dây dẫn lại phụ thuộc kích thước và bản chất
R
của dây dẫn theo công thức:
l
S
(3)
trong đó là điện trở suất, l là chiều dài của dây dẫn, S là tiết diện của dây
dẫn.
* Thay các biểu thức (2) và (3) vào biểu thức (1), ta được:
U 2 .t
l
.
S
(4)
U 2 .t.S
Q.
(1)’
Q
l
- Từ đó rút ra:
- Thay các đại lượng trên bằng trị số của chúng, ta được:
l
220 2.3600.1,5.10 4
220(m)
2970000.0, 4.104
- Vậy chiều dài dây hợp kim đồng là 220m.
Trang 12
Như vậy dùng phương pháp tổng hợp, ta cũng tìm được chiều dài của
dây lò sưởi như khi dùng phương pháp phân tích.
Nhìn chung, khi giải bất kỳ một bài toán vật lí nào ta đều phải dùng
cả hai phương pháp: phân tích và tổng hợp. Phép giải bắt đầu bằng cách
phân tích các điều kiện của bài tập để hiểu được đề bài. Phải có một sự tổng
hợp kèm theo ngay để kiểm tra lại mức độ đúng đắn của sự phân tích các
điều kiện ấy. Muốn lập được kế hoạch giải, phải đi sâu vào phân tích nội
dung vật lí của bài tập. Tổng hợp những dữ kiện đã cho với những quy luật
vật lí đã biết, ta mới xây dựng được lời giải và kết quả cuối cùng.
Như vậy ta có thể nói là trong quá trình giải bài tập vật lí ta đã dùng
phương pháp phân tích - tổng hợp.
I.3. Áp dụng phương pháp giải bài tập vật lí vào một số bài tập cơ bản.
I.3.1.Bài toán 1.
Hai người cựng xuất phát một lúc từ hai địa điểm A và B cách nhau
75km. Người thứ nhất đi xe máy từ A về B với vận tốc 25km/h.Người thứ
hai đi xe đạp từ B ngược về A với võn tốc V2=12,5km/h. Hỏi sau bao lõu hai
người gặp nhau và xác định chỗ gặp nhau đó.Coi chuyển động của hai
người là đều
.
*Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài và phân tích:.
? Bài toán cho biết gì? yêu cầu tìm gì?
? Bài thuộc dạng toán gì? Có những đại lượng nào tham gia? Mối quan hệ
giữa các đại lượng ấy là gì?
*Bài giải.
Gọi S1và S2 là quóng đường mỗi người đó đi cho đến lúc gặp nhau.G là
điểm gặp nhau.
A→
G
S1
Trang 13
←B
S2
Ta cú: S1 = V1.t
Hay S1 = 25.t
S2 = V2.t
Hay S2 = 12,5.t
Khi hai người gặp nhau thỡ:S1 +S2 = 75km
75
Hay: 25.t +12,5.t = 75 t 25 12,5 2 giờ
Vậy sau 2 giờ hai người gặp nhau.
Vị trớ gặp nhau cách A một đoạn: AG = S1 = 25.2 =50km
I.3.2.Bài toán 2.
Người ta thả một thỏi đồng nặng 0,4kg ở nhiệt độ 80 0c vào 0,25kg
nước ở t2=180c. Hãy xác định nhiệt độ cân bằng. Cho nhiệt dung riêng của
đồng và nước lần lượt là c 1 = 400 J/kg.K; c 2 = 4200 J/kg.K
HD Giải . Gọi nhiệt độ khi cân bằng của hỗn hợp là t . Ta có phương
trình cân bằng nhiệt của hỗn hợp như sau
m1 .c1 .(80 t ) m2 .c2 (t 18)
Thay số vào ta có t = 26,20
Nhận xét. Đối với bài tập này thì đa số học sinh giải được nhưng
qua bài tập này thì giáo viên hướng dẫn học sinh làm đối với hỗn hợp 3
chất lỏng và tổng quát lên n chất lỏng
Bài 2.1.
Bỏ một quả cầu đồng thau khối lượng 1 kg được nung
nóng đến 100o C vào trong thùng sắt có khối lượng 500g đựng 2kg nước ở
20o C. Bỏ qua sự trao đổi nhiệt với môi trường.Tìm nhiệt độ cuối cùng của
nước. Biết nhiệt dung riêng của đồng thau, sắt, nước lần lượt là: c 1= 380
J/kg.K; c2=460 J/kg.K; c3= 4200 J/kg.K.
Hướng dẫn giải:
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Tóm tắt:
m1 = 1 kg
- Khối lượng của quả cầu đồng thau,
c1 = 380 J/kg.K
thùng sắt và nước.
t1 = 100o C
- Nhiệt độ ban đầu của quả cầu đồng
m2 = 500g = 0,5 kg
Trang 14
thau, thùng sắt và nước.
c2 = 460 J/kg.K
- Nhiệt dung riêng của chất cấu tạo
t2 = 20o C
nên các vật.
m3 = 2kg
c3 = 4200 J/kg.K
t3 = t 2
t?
* Phân tích bài toán.
- Đây là bài toán trao đổi nhiệt của một hệ vật (gồm 3 vật). Điều quan
trọng phải hiểu rằng bài toán yêu cầu tìm nhiệt độ cuối cùng của nước,
nhưng cũng là nhiệt độ chung của hệ khi kết thúc quá trình trao đổi nhiệt.
Để giải bài toán này cần áp dụng phương trình cân bằng nhiệt:
Qtoả ra =Qthu vào
- Do vậy phải xác định được những vật nào là vật toả nhiệt, những vật
nào là vật thu nhiệt, viết được công thức tính nhiệt lượng toả ra vào hay thu
vào của các vật:
Q = mc t
-Với lưu ý rằng trong bài toán này nhiệt độ ban đầu của hai vật thu
nhiệt
(thùng sắt và nước) là bằng nhau(t2 = t3).
- Trên cơ sở phương trình cân bằng nhiệt vừa lập được kết hợp với
dữ kiện đã cho của bài toán để suy ra đại lượng cần tìm (t).
*Bài giải.
- Nhiệt lượng do quả cầu bằng đồng thau toả ra khi hạ nhiệt độ từ
100o C đến to C (nhiệt độ khi có cân bằng nhiệt) là:
Q1 = m1.c1(t1 - t)
- Nhiệt lượng mà thùng sắt (Q2) và nước (Q3) thu vào để tăng nhiệt độ
từ 20o C đến to C là:
Q2 = m2.c2(t - t2)
Q3 = m3.c3(t -t2)
(1)
(2)
- Áp dụng phương trình cân bằng nhiệt ta có:
Q1 = Q2 + Q3
từ (1),(2) và (3)
(3)
m1.c1(t1 - t) = m2.c2(t - t2) + m3.c3(t - t2)
Trang 15
t (m1c1 + m2c2 + m3c3) = m1c1t1 + (m2c2 + m3c3) t2
t=
m1c1t1 ( m2 c2 m3 c3 )t2
m1c1 m2 c2 m3 c3
- Thay các đại lượng trên bằng trị số của chúng ta được:
1.380 (0,5.460 2.4200).20
t = 1.380 0,5.460 2.4200
19, 2(o C )
- Vậy nhiệt độ cuối cùng của nước là 19,2 oC.
GV hướng dẫn học sinh đặt ra bài toán tổng quát như sau
Bài 2.3.. Một hỗn hợp gồm n chất lỏng có khối lượng lần lượt là
m1 , m2 ,......mn và nhiệt dung riêng của chúng lần lượt là c1 , c2 .......cn và nhiệt độ
là t1 , t 2 ........t n . Được trộn lẩn vào nhau. Tính nhiệt độ của hỗn hợp khi cân
bằng nhiệt
Hoàn toàn tương tự bài toán trên ta có nhiệt độ cân bằng của hỗn hợp khi
cân bằng nhiệt là
t=
m1 .c1 .t1 m2 .t 2 .c2 m3 .c3 .t 3 ........ mn t n cn
m1 .c1 m2 .c2 m3 .c3 ......... mn cn
Từ đây có thể hướng dẫn học sinh đưa ra bài toán mới từ bài 2.1 trên.
Bài 2.4. Một hỗn hợp gồm ba chất lỏng không có tác dụng hoá học với
nhau có khối lượng lần lượt là : m1 1kg , m2 2kg , m3 kg. Biết nhiệt dung riêng
và
nhiệt
độ
của
chúng
lần
lượt
c1 2000 J / kg.K , t1 100 C , c2 4000 J / kg.K , t2 100 C , c3 3000 J / kg.K ,
là
t3 500 C .
Nhiệt độ hỗn hợp khi cân bằng là t = 20,50C. Tính khối lượng m3 .
Bài 2.5. Một hỗn hợp gồm ba chất lỏng không có tác dụng hoá học với
nhau có khối lượng lần lượt là : m1 1kg , m2 2kg , m3 = 3 kg. Biết nhiệt dung
riêng
và
nhiệt
độ
của
chúng
lần
lượt
là
c1 2000 J / kg.K , t1 100 C, c2 4000 J / kg.K , t2 100 C, c3 3000 J / kg.K , t30C . Nhiệt độ
hỗn hợp khi cân bằng là t = 20,50C. Tính nhiệt độ t3.
Trong bài tập phần nhiệt học, học sinh cũng hay lúng túng khi tính
nhiệt lượng hoặc khối lượng của các chất trong đó không có (hoặc có) sự
mất mát nhiệt lượng do môi trường.
Bài 3. Một thau nhôm khối lượng 0,5kg đựng 2kg nước ở 200c.
Trang 16
a. Thả vào thau nước một thỏi đồng có khối lượng 200g lấy ra ở lò.
Nước nóng đến 21,20c. Tìm nhiệt độ của bếp lò. Biết nhiệt dung riêng
của
nhôm,
nước,đồng
lần
lượt
là
c1 880 J / kgK ; c2 4200 J / kgK ; c3 380 J / kgK . Bỏ qua sự toả nhiệt ra
môi trường
b. Thực ra trong trường hợp này, nhiệt toả ra môi trường là 10% nhiệt
lượng cung cấp cho thau nước. Tính nhiệt độ thực sự của bếp lò
Nhận xét: ở bài toán này khi giải cả hai câu a,b thì không phải là khó
nhưng so với các bài toán khác thì bài này có sự toả nhiệt lượng ra môi
trường nên khi giải giáo viên cân làm rõ cho học sinh thấy sự toả nhiệt ra
môi trường ở đây là đều nên 10% nhiệt toả ra môi trường chính là nhiệt
lượng mà nhôm và nước tỏa ra môi trường, khi đó giải học sinh sẽ không
nhầm lẫn được
HD Giải.
a) Gọi t0clà nhiệt độ của bếp lò, cũng là nhiệt độ ban đầu của thỏi đồng
Nhiệt lượng thau nhôm nhận được để tăng từ t1 200C đến t 2 21,20C
Q1 m1c1 .(t 2 t1 ) ( m1 là khối lượng thau nhôm )
Nhiệt lượng nước nhận được để tăng từ t1 200Cđến t 2 21,20C
Q2 m2 c2 (t 2 t1 ) m2 là khối lượng nước
Nhiệt lượng đồng toả ra để hạ từ t0c đến t 2 21,20C
Q3 m3 c3 (t t 2 ) ( m3 khối lượng thỏi đồng)
Do không có sự toả nhiệt ra môi trường nên theo phương trình cân bằng
nhiệt ta có: Q3 Q1 Q2 m3c3 (t 't 2 ) (m1c1 m2 c2 )(t 2 t1 )
t =
(( m1c1 m2 c2 )(t 2 t1 ) m3 c3t 2
m3c3
Thay số vào ta được t = 160,780c
b) Thực tế do có sự toả nhiệt ra môi trường nên phương trình cân bằng
Trang 17
nhiệt được viết lại
Q3 10%(Q1 Q2 ) (Q1 Q2 )
Q3 110 %(Q1 Q2 ) 1,1(Q1 Q2 )
Hay m3c3 (t 't 2 ) 1,1(m1c1 m2 c2 )(t 2 t1 )
t' =
(( m1c1 m2 c2 )(t 2 t1 ) m3 c3t 2
+ t2
m3c3
t’ = 174,740c
Giáo viên cần lưu ý HS xác định các đối tượng trong bài toán, đối
tượng nào thu nhiệt, đối tượng nào tỏa nhiệt. Phải tóm đề cho từng đối
tượng và từng giai đọan. (Bài toán sẽ phức tạp nếu có nhiều giai đọan các
đối tượng tiếp xúc nhiệt với nhau).
- Phõn biệt cho rừ Qtỏa , Qthu và viết công thức tính tương ứng với từng đối
tượng.
- Viết phương trỡnh cõn bằng nhiệt cho từng giai đọan.
- Tập hợp các phương trỡnh cõn bằng nhiệt để lập các phương trỡnh
- Giải cỏc phương trỡnh ta tỡm được kết quả theo yêu cầu
Để kích thích sự hứng thú, say mê học tập cho học sinh rèn thói quen
tìm tòi lời giải hay cho một bài toán Vật lí. Trong một bài tập giáo viên cần
hướng cho học sinh tìm nhiều cách giải (nếu có thể) và đặt một bài toán
tương tự, đặt một bài toán mới từ bài toán đã cho.
I.3.3.Bài toán 3.
Một ấm điện có hai điện trở: R 1 = 4 và R2 = 6 . Nếu bếp chỉ dùng
một điện trở R1 thì đun sôi ấm nước trong 10 phút. Tính thời gian cần thiết
để đun sôi ấm nước trên khi:
a. Chỉ dùng R1.
b. Dùng R1 nối tiếp R2.
c. Dùng R1 song song R2.
(Biết không có sự mất nhiệt ra môi trường và mạng điện có hiệu điện
thế không đổi).
Hướng dẫn giải:
Trang 18
* Tìm hiểu các điều kiện đã cho của bài.
- Cho biết giá trị của hai điện trở.
- Thời gian đun sôi nước khi chỉ dùng điện trở R1.
- Tóm tắt:
R1 = 4 ;
R2 = 6
t1 = 10 phút
t2?
t3? khi R1nt R2.
t4? khi R1//R2.
* Phân tích bài toán.
-Bài toán này xuất phát từ định luật Jun-len xơ với biểu thức:
Q =I2.R.t
(1)
trong đó nhiệt lượng mà nước thu vào bằng nhiệt lượng do các điện trở toả
ra.
- Theo điều kiện đầu bài thì nếu sử dụng biểu thức (1) của định luật
Jun-len xơ, thì việc giải bài toán rất phức tạp hoặc không thực hiện được.
Vậy ở bài toán này mối liên hệ giữa các đại lượng để tìm cấu trúc công thức
rất quan trọng, đóng vai trò quyết định đến sự thành công.
- Như ta đã biết từ công thức (1). Ta có thể viết được một số biểu thức
tương đương trên cơ sở mối liên hệ của một số đại lượng trong công thức
với các đại lượng khác, để việc tính toán không làm bài toán phức tạp.
U = I.R nên (1) Q = U.I.t
Thật vậy: vì
U
mặt khác theo định luật Ôm: I =
R
nên (2)
U2
.t
Q=
R
(2)
(3)
- Từ đây nên chọn công thức nào để giải bài toán, điều này đòi hỏi sự
nhanh nhạy, suy diễn cao.
Nếu chọn (2) thì vẫn còn đại lượng I chưa biết, do đó chọn công
thức (3)
- Cần biểu diễn các đại lượng cần tính.
+ Giá trị điện trở của ấm trong 4 trường hợp:
1/ R = R1
2/ R = R2
3/ R = R1 + R2
Trang 19
1
1
1
R .R
1
2
4/ R R R hay R = R R
1
2
1
2
-Với chú ý rằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra trong 4
trường hợp là như nhau.
- Hiệu điện thế trong các trường hợp là không đổi.
* Bài giải.
- Gọi thời gian đun sôi nước trong 4 trường hợp lần lượt là: t1, t2, t3, t4.
- Do không có sự mất nhiệt ra môi trường nên nhiệt lượng cần để đun
sôi nước bằng nhiệt lượng mà dây điện trở của ấm toả ra.
U2
.t
Q=
R
- Áp dụng công thức:
(Theo công thức (3))
cho các trường hợp ta có:
a. Chỉ dùng dây R1:
Q1 =
U2
t1
R1
(1)
b.
Q2 =
U2
t2
R2
(2)
Chỉ dùng dây R2:
từ (1) và (2)
U2
U2
t1 =
t2
R1
R2
t2
c. Khi dùng R1 nối tiếp R2:
từ (1) và (3)
R2
6
t1 .10 15( ph)
R1
4
Q3 =
U2
t3
R1 R2
U2
U2
t1 =
t3
R1
R1 R2
t3
(3)
R1 R2
46
t1
.10 25( ph)
R1
4
d. Khi dùng R1 song song R2:
1
1
2
Q4 = U t4
R1 R2
từ (1), (2) và (4)
(4)
1 1 1
t4 t1 t2
t4
t1t2
10.15
6( ph)
t1 t2 10 15
Về việc phân loại bài tập theo phương tiện giải tôi xin trình bày cụ thể với
Trang 20
- Xem thêm -