Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng cái tôi văn hóa trong tùy bút đỗ chu...

Tài liệu Hình tượng cái tôi văn hóa trong tùy bút đỗ chu

.PDF
127
310
83

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay ở Việt Nam, vấn đề văn hóa đang được quan tâm, chú ý vì nhu cầu nhận thức dân tộc, vì sự cần thiết phải quảng bá những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam, đất nước con người Việt Nam với thế giới; vì mục tiêu“xây dựng và phát triển một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc đều gắn liền với vận mệnh của dân tộc đó. Vì vậy việc xác định những giá trị văn hóa trong đời sống tinh thần của con người là cần thiết và quan trọng. Văn học vốn được coi là gương mặt của văn hóa, tiêu biểu cho diện mạo và các giá trị văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần. Mỗi tác phẩm văn học đều mang tính đại diện cho văn hóa, có khả năng nhận thức, phản ánh, sáng tạo, chuyển tải và giữ gìn văn hóa. Thông qua tác phẩm văn học, người đọc không chỉ nhìn thấy bức tranh đời sống con người với những sự kiện văn hóa đa dạng của nó, mà chính đặc điểm văn hóa còn là cơ sở khu biệt các giai đoạn, thời kì văn học và những đặc trưng nghệ thuật của văn chương. Văn hóa không chỉ hiện diện trên bề mặt mà nó còn có khả năng chi phối, tác động ở chiều sâu đối với văn học, đặc biệt là đối với tâm thức sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm văn chương vì thế mà thể hiện những dấu ấn văn hóa nhất định. Thực tế cho thấy, đã xuất hiện và tồn tại nhiều tác phẩm văn chương mang dấu ấn văn hóa, tạo thành một mảng màu khá đậm nét trong bức tranh toàn cảnh của nền văn học Việt Nam. Trong đó phải kể đến những sáng tác của các nhà văn như: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đỗ Chu… Đỗ Chu đến với bạn đọc ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường với truyện ngắn Ao làng trích in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội (1962). Từ đó đến nay ông vẫn sáng tác đều đặn và hiệu quả . Trên hành trình đến với văn chương, Đỗ Chu đã thử ngòi bút trên nhiều thể loại: truyện vừa, truyện ngắn, bút kí…Trong đó, truyện ngắn là thể loại là m nên văn hiệu của ông. Bản thân nhà văn từng cho rằng: “tôi thấy mình chủ yếu là ngòi bút viết 1 truyện ngắn”, “định mệnh đã gắn mình với truyện ngắn”. Tuy nhiên với sự ra đời của tập tùy bút Tản mạn trước đèn (đã được nhận giải thưởng của Hội nhà văn năm 2005), ba năm sau tác giả lại trình làng tập tùy bút Thăm thẳm bóng người (tháng1/ 2008), dường như đã phá vỡ “định mệnh” của một cây bút có sở trường về truyện ngắn. Đến với hai tập tuỳ bút này, Đỗ Chu đã đóng góp vào nền văn học nước nhà một tiếng nói đầy bản lĩnh và tài năng, một cái nhìn mới về con người và cuộc sống trong chiều sâu văn hóa. Và đến nay với hai tác phẩm đậm chất văn hóa này, Đỗ Chu trở thành một trong số ít các nhà văn hiện đại Việt Nam tạo được dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc. Với cảm quan văn hóa, Đỗ Chu đã tạo dựng một thế giới nghệ thuật đặc sắc mà ở đó thiên nhiên, con người, tâm hồn dân tộc cùng hòa điệu trong nhịp trầm sâu văn hóa. Đặc biệt, trong thế giới nghệ thuật ấy, người đọc thấy nổi bật lên hình tượng cái tôi văn hóa đầy bản lĩnh. Dưới cái nhìn văn hóa, mỗi nhân vật mà Đỗ Chu nói đến trong tác phẩm đều mang trong mình những nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Điều ấy thể hiện trong cách con người ứng xử với quê hương, với những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, với người thân bạn bè - đồng nghiệp và với chính mình. Họ là hiện thân của những giá trị văn hóa, là nơi bảo tồn và nuôi dưỡng văn hóa Việt, tâm hồn Việt. Các vấn đề về văn hóa - lịch sử, về xã hội và con người… được đặt ra trong hai tùy bút của Đỗ Chu đạt tới tầm triết lý nhân sinh, tới tầng sâu nhân bản. Ngoài ra, trong sách Tiếng Việt của học sinh phổ thông, tên tuổi của Đỗ Chu đã được các em biết đến qua những đoạn văn tả cảnh mẫu mực về cách sử dụng ngôn từ và cú pháp. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm của Đỗ Chu cũng là một việc làm thiết thực và bổ ích đối với những người làm công tác giảng dạy văn học. Về tùy bút của Đỗ Chu, đã có một số bài viết, bài nghiên cứu rải rác trên báo chí, internet tuy nhiên tính đến thời điểm này, tùy bút của Đỗ Chu vẫn chưa được tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống. Vấn đề đặt ra là bên cạnh thành tựu về truyện ngắn cần đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu tùy bút Đỗ Chu - một thể loại ghi nhận thành tựu mới của nhà văn trong lao 2 động sáng tạo. Trên cơ sở đó luận văn góp phần khẳng định đóng góp của Đỗ Chu trong tiến trình phát triển của thể tùy bút nói riêng và văn xuôi đương đại nói chung. Với những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Hình tượng cái tôi văn hóa trong tùy bút Đỗ Chu”. 2. Lịch sử vấn đề Vào nghề viết từ năm 1962, khi Đỗ Chu mới 17 tuổi, đang là học sinh năm cuối của một ngôi trường cấp ba mang tên người đầu tiên sáng tạo ra loại văn học mới (văn Nôm) - trường Hàn Thuyên, được chào đón như một nhà văn tiêu biểu của thế hệ mới, sau thế hệ “tiền chiến” và “kháng chiến”, ông nổi tiếng với những truyện ngắn đầy phong vị trữ tình. Với hàng loạt các tác phẩm Thung lũng cò, Hương cỏ mật, Mùa cá bột… Đỗ Chu được biết đến như là một cây bút truyện ngắn đầy hứa hẹn. Tên tuổi Đỗ Chu khiến các bậc đàn anh như Nguyễn Minh Châu, Hồ Phương, Phạm Tiến Duật, Nghiêm Văn Đa, “sửng sốt” và trầm trồ khen ngợi. Nhớ lại những năm tháng ấy, nhà văn Nguyên An tâm sự: “còn nhớ, vào giữa và cuối những năm1960, truyện ngắn của Đỗ Chu từ Hà Nội vào tuyến lửa khu Tư qua đường bưu điện và giao liên, qua túi quà tết hay quà nhân khai giảng của người nhà ở Hà Nội đưa về,... đã làm rất nhiều rất nhiều thanh niên chuyền tay nhau đọc như tập Từ tuyến đầu Tổ quốc. Rồi các truyện Hương cỏ mật, Thung lũng cò, Mùa cá bột, Phù sa...” [II.1, 6]. Nguyễn Hoàng Sơn trong một bài viết của mình cũng khẳng định: “Hương cỏ mật” và một số truyện ngắn khác của Đỗ Chu là “một loạt truyện ngắn đẹp như thơ, tươi rói như anh tân binh mới nhận được quân phục, được cả làng văn và bạn đọc đón nhận chằm bặp” [II.34]. Là người luôn theo sát những sáng tác của Đỗ Chu, Phan Hồng Giang khái quát: “những gì mà Đỗ Chu đem đến cho chúng ta đã rất quý”. Bởi “... đọc anh, không bao giờ chúng ta có thể tìm thấy sự yên tĩnh. Cuộc sống trong tác phẩm của anh luôn lung linh, xao động, như chào mời, như khơi dậy, nhóm lên, đốt cháy trong lòng ta ngọn lửa khát vọng sống, khát vọng cống hiến thật nhiều cho lý tưởng” [II.17, 37]. Những thành công bước đầu ấy đã lôi 3 cuốn trong Đỗ Chu một niềm say mê sáng tạo không ngừng và cuộc đời ông là một hành trình theo đuổi một nguồn văn không bao giờ cạn. Trong quá trình sáng tạo, Đỗ Chu thường huy động tới mức tối đa chất liệu cái tôi. Nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang đã tinh tế nhận ra kí ức tuổi thơ trong những trang văn của Đỗ Chu: “Những kỉ niệm của Đỗ Chu về quê hương, về quá khứ đâu còn là những hồi tưởng đơn thuần về quá khứ nữa, nó chính là tình yêu con người, yêu quê hương đã bao trùm lên năm tháng, vượt qua mọi khoảng cách về không gian và thời gian để nối liền những con người hiện tại (…) Đỗ Chu là người có khả năng phát hiện cái đẹp cái đẹp tâm hồn,(…) là người nhạy bén trong việc cảm thụ cái đẹp của thiên nhiên, đất nước.” [II.17, 28]. Nhà văn Nguyên An thì lại nhận thấy : “Đã đôi ba lần tôi thấy Đỗ Chu tự trào, tự xỉ vả như Tú Xương, Nguyễn Khuyến hơn một trăm năm trước, lại cũng có lúc bi thương thống thiết như Phan Bội Châu thuở nào. Nhưng một lát sau, từ trong cặp mắt đã nhuốm vẻ mỏi mệt của một người trải đời và cả nghĩ nơi anh, tôi thấy có gì đó như là sự cầm lòng vậy, tự bằng lòng đã, mà không phải an phận, hơn thế, vẫn đau đáu một niềm tin hi vọng những người đã làm nên lịch sử nước nhà” [II.1, 5]. Văn Đỗ Chu chính là cuộc đời của ông. Và đặc biệt, cái tôi nhà văn được thể hiện một cách sâu sắc, trọn vẹn trong những trang tùy bút khi ông đã có độ chín về tuổi đời, tuổi nghề. Hơn bốn mươi năm cầm bút, một khoảng thời gian không phải là ngắn đối với một đời người, Đỗ Chu đã sở hữu một khối lượng tác phẩm đáng kể. Xuất hiện trên văn đàn với nhiều truyện ngắn đặc sắc, Đỗ Chu tự nhận mình là người sinh ra để viết truyện ngắn, cơ duyên đã đưa đẩy ông đến với thể loại này và thành công với nó. Tuy nhiên đến khi tùy bút Tản mạn trước đèn và tiếp đó là tùy bút Thăm thẳm bóng người xuất hiện dưới cái tên Đỗ Chu khiến người đọc phải nhìn nhận lại. Hóa ra tác giả của những truyện ngắn trữ tình lại có tạng cảm xúc rất hợp với thể tài tùy bút. Vì vậy, tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu, Đỗ Chu đã tự tay viết cho tác phẩm của mình “giấy thông hành” vào thế giới của thể tài tùy bút. Hai tập tùy bút 4 Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người đã thực sự chiếm được thiện cảm của bạn đọc và được giới sáng tác cũng như phê bình chú ý. Trong một bài viết của mình, nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa đã nhấn mạnh: “Với Đỗ Chu, về tài văn của anh tôi đồng ý với nhận xét của người bạn tôi rằng, có thể nói nửa cuối thế kỉ XX nếu Nguyễn Huy Thiệp góp phần tạo nên bước phát triển thứ hai trong truyện ngắn thì người làm nên bước phát tiển thứ nhất là Đỗ Chu (…) Sung sức hơn bốn mươi năm, tuổi càng cao, văn Đỗ Chu càng tinh tế, lịch lãm, đặc biệt là cái “vốn” anh tích lũy được đã trở thành vỉa quặng tinh chất để anh khai thác, ngẫm ngợi, giãi bày, sẻ chia…”. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến khẳng định: “anh đi từ Mùa cá bột, Hương cỏ mật tới Tản mạn trước đèn, Thăm thẳm bóng người mà hầu như không hề trồi sụt. Ở Việt Nam người viết văn như Đỗ Chu không nhiều” [III.1]. Theo dõi suốt hành trình sáng tạo của Đỗ Chu từ truyện ngắn đến những tập tùy bút, nhà văn Nguyên An trong bài viết Phiên bản Đỗ Chu cũng khẳng định: “Đỗ Chu là Đỗ Chu. Anh là sản phẩm đích thực của khí hậu thời tiết chính trị xã hội, của tập tục mới vừa xưa cũ của một đất nước trải qua chiến tranh, sang thời hòa bình đã lâu mà chưa hết bức xúc buồn đau với ít tủi hờn. Cái chất kẻ sĩ nơi anh hay để cho người ta thấy có chút tự hào vì đã đi cùng dân tộc, vượt qua bao cơ cực mà không sờn lòng, không oán thán, nhưng nhiều hơn cả, là cả một tâm sự ngổn ngang những lo toan về thời cuộc đã qua và hội nhập hôm nay với thân phận của mỗi người dân Việt, không trừ một ai, từ ông thủ tướng đến người cuốc đất nhặt cỏ” [II.1, 5]. Nhiều ý kiến nghiên cứu và phê bình văn chương đã cho rằng: hôm nay là thời của tản văn và tạp bút khi quãng thời gian của người đọc không đủ dành cho tiểu thuyết dông dài. Tạp bút tản mạn đâu phải chuyện “thiên tào” mà là chuyện rất người. Năm 2005, khi cuốn Tản mạn trước đèn của nhà văn Đỗ Chu nhận giải thưởng của Hội nhà văn, cũng là thời kỳ tản văn và tạp bút xuất hiện ồ ạt. Hầu hết trên các báo đều lần lượt có mục tạp văn, tạp bút hay tản văn. Và Tản mạn trước đèn của nhà văn Đỗ Chu là một khởi đầu đầy suôn sẻ cho thời của tản văn và tạp bút. 5 Trong bài viết “Đỗ Chu chiêm nghiệm về nghề văn và nghệ thuật” tác giả Phan Huy Dũng đã có cái nhìn khách quan về những thành công cũng như hạn chế của tập tùy bút này. Trước hết tác giả bài báo khẳng định: “Tác phẩm (Tản mạn trước đèn – NTH) đã chứa đựng những suy tư, trăn trở đầy trách nhiệm về nghề văn, về nghệ thuật, về phong cách của nghệ sỹ dù mức độ đậm nhạt khác nhau”. Với chiều sâu phân tích và lý giải, Phan Huy Dũng đã khái quát: “khi tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề và trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của người nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm” [II.14, 57]. Cũng thống nhất với quan điểm này, Lý Hoài Thu trong Hồi ký và bút ký thời kì đổi mới đã viết: “Trong Tản mạn trước đèn (2005) của Đỗ Chu, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc nỗi “ưu tư” lớn của tác giả về con đường mà chính ông cũng đang là người bộ hành, can đảm và cô độc” [II.41, 82]. Nói về những vấn đề nhạy cảm của đời sống xã hội và văn học, Đỗ Chu nói bằng một giọng điệu riêng nhằm thuyết phục người đọc. Bằng cái tinh tế của người phê bình Phan Huy Dũng đã nhận ra cái giọng điệu “điềm tĩnh, khoan hòa” của Đỗ Chu và khẳng định: “Đó là giọng của người đang tự nói với mình hay đang tâm sự rủ rỉ cùng bạn bè, sau nhiều trải nghiệm và có thể cả trả giá nữa, một giọng văn như thế hẳn dễ được chấp nhận, lắng nghe, dễ khơi lên chưa phải sự tranh luận mà là sự đồng cảm” [II.14, 57]. Cũng ở phương diện nghệ thuật trong tùy bút Đỗ Chu, Lý Hoài Thu một lần nữa khẳng định những sáng tạo, cách tân của nhà văn trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và kiến tạo giọng điệu chủ thể: “Trong bút ký của Đỗ Chu, người đọc bắt gặp một thứ ngôn từ giản dị, chân phương, nhẹ nhàng song vẫn thấm đượm chất triết lí, suy tư”. Đó là thứ ngôn ngữ và giọng điệu “nhẩn nha, nhỏ nhẹ, tâm tình nhưng lắng đọng một chiều sâu cảm xúc” [II.41, 85]. Lần theo con đường lao động và sáng tạo của nhà văn Đỗ Chu từ những ngày đầu đến với văn học cho tới những trang tùy bút nảy nở ở tuổi lục tuần, Phan Huy Dũng vẫn thấy sự thống nhất trong phong cách của Đỗ Chu: “Ta 6 được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột - người từng thể hiện rất tinh tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu ” [II.14, 60]. Bên cạnh thành tựu của tập tùy bút, Phan Huy Dũng cũng chỉ ra những hạn chế: “ở một vài chỗ giọng chính luận đã không được kết hợp nhuần nhị với giọng nhỏ nhẹ chuyện trò, khiến một số trang viết mang tính chất nửa văn nửa báo, chưa thoát được kiểu trình bày ý kiến trong chuyên mục Tiếng nói nhà văn của báo Văn nghệ, thiếu đi cái ý vị hàm súc mênh mang mà hẳn tác giả - người rất kỹ tính trong việc trau chuốt lời văn - dụng tâm đạt tới ”. Hay như ở đoạn “viết về sự cần thiết phải có một bút pháp riêng (với mỗi nhà văn) và bàn về cái hay của văn chương (trong Hoa trước thềm văn) còn quá chung chung và thậm chí hơi luẩn quẩn” [II.14, 60]. Tuy nhiên, về cơ bản bài báo đề cao những đóng góp của tập tùy bút, đặc biệt “là cách phát hiện riêng và đóng góp riêng của Đỗ Chu trên phương diện dựng chân dung văn học” và qua tập sách thấy được “điều khiến tác giả trăn trở nhiều nhất là làm sao giữ vững được cốt cách nhà văn giữa náo động xô bồ, làm sao vun đắp được cho mình một vốn văn hóa sâu dày để mỗi trang viết luôn chở nặng tự tình dân tộc, luôn chứa chất niềm tự hào về cái đẹp, cái thanh cao của nghề, của nghệ thuật ” [II.14, 60]. Kết lại giá trị của tập tùy bút Tản mạn trước đèn Phan Huy Dũng một lần nữa nhấn mạnh: “có hương vị riêng, sức nặng riêng, đáng được sẻ chia, trân trọng” [II.14, 61]. Sau sự thành công của của tập tùy bút Tản mạn trước đèn (Giải thưởng Hội nhà văn, 2005), với tinh thần “thừa thắng xông lên” Đỗ Chu đã cho ra mắt bạn đọc tập tùy bút nối tiếp Thăm thẳm bóng người, có độ dày hơn 300 trang, và với số lượng in lên tới 2500 cuốn. Khi mới trích đăng trên báo Tiền phong với tên gọi Miên man tùy bút, những dòng viết của Đỗ Chu đã cuốn hút người đọc. Đến khi in ra sách tác giả đổi tên thành Thăm thẳm bóng người thì người đọc không thể không thừa nhận tài năng của ngòi bút Đỗ Chu ở thể loại “dễ viết mà khó hay” này. 7 Nếu như ở tập Tản mạn trước đèn Đỗ Chu nhấn mạnh hai chữ: “Trước đèn” thì đến Thăm thẳm bóng người ông lại nhấn mạnh vào hai chữ: “bóng người”. Nói về vấn đề này Đỗ Chu tâm sự: “Hai tập sách giống nhau là ở tên sách đều giới thiệu cho người ta một cái gì cùng nhịp điệu và nội dung nặng về kỉ niệm, gợi những gì mình đã sống và nghe thấy. Thoạt đầu, cuốn sách mới này tôi định đặt tên là Miên man tùy bút” và tác giả khẳng định: “trong miên man có thăm thẳm mà trong thăm thẳm có miên man. Miên man một cách nông nổi sẽ hóa mơn man, miên man sâu xa hóa ra thăm thẳm” [I.2, 304]. Cuốn sách chia làm 3 phần: Hoa bờ giậu, Thăm thẳm bóng người, Về quê đốt lửa. Xuyên suốt ba phần là chiều dài thời gian lịch sử của một dân tộc, của những đời người, của những thân phận vinh quang có, cay đắng có, nổi danh có, âm thầm có, là chiều rộng không gian của nước Việt mở ra đến những bờ bến lạ, những xứ sở xa xôi. Có thể thấy, ở đâu, lúc nào, con người với những nỗi niềm trăn trở của nó vẫn là cái đích đến của văn học, vẫn là cái neo cho ngòi bút sáng tạo, vẫn là câu hỏi muôn đời đặt ra và đi tìm câu trả lời. Đỗ Chu viết Thăm thẳm bóng người cũng là một cách đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó. Đây là câu trả lời của riêng ông, góp vào câu trả lời của nhiều người khác. Từ đầu đến cuối tác phẩm được thấm tràn một mạch nguồn cảm xúc say đắm, nồng nàn, da diết của một con người đã trải những buồn vui thế sự đời người, đời văn đủ để trang trải lòng mình lên trang giấy sẻ chia đồng vọng cùng người đời. Tiếp cận tùy bút Thăm thẳm bóng người, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến nhận định: “cách nhìn“Thăm thẳm bóng người” là một cách nhìn nhân hậu, nhiều chỗ có màu sắc tâm linh. Trong“Thăm thẳm bóng người” có bóng ta. Có thăm thẳm bóng nguyễn Tuân với những kiệt tác ông để lại cho đời. Tô Hoài còn đấy, “đứng chống đòn gánh, dưới chân là hai quang sách nặng”, bóng của hàng triệu độc giả hòa vào bóng Tô Hoài trong những tác phẩm bất hủ của ông” [I.20, 89]. Có thể thấy đằng sau những bóng 8 dáng ấy là dấu ấn của một thời đã qua, dấu ấn của những con người bình thường nhưng lớn lao bởi chính họ đã làm ra văn hóa, làm nên lịch sử. Trong các thể loại văn học thì tùy bút, bút ký, hồi ký, tự truyện là khó làm giả nhất vì nhà văn phải viết bằng chính cái tôi của họ. Đặc biệt ở thể loại tùy bút, cái tôi nhà văn là linh hồn làm nên sức sống của tác phẩm. Không phải ai cũng viết được tùy bút, phải là người có tài năng, có độ từng trải, có uy tín văn học mới có thể viết được bài tùy bút hay. Không phải ngẫu nhiên trong bài viết “Cái tôi trong tùy bút”, Nguyễn La khẳng định: “Làng văn xứ ta (…) có được mấy tên tuổi đáng phục: Nguyễn Tuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường… và gần đây, qua tập Thăm thẳm bóng người có Đỗ Chu” [II.23]. Như vậy với Thăm thẳm bóng người, Đỗ Chu đã một lần nữa xác lập được cái uy văn chương cùng những khái niệm văn chương mới trên từng trang viết. Vẫn tác giả Nguyễn La nhận định: “Tùy bút Đỗ Chu luôn bám lấy cái gốc trữ tình, trong đó đậm đà nhất là cái tình quê mà phần ba của tập sách là về quê đốt lửa rất rõ cái tình ấy. (...) Suốt tập sách thể hiện một Đỗ Chu nhất quán với cái nhìn về con người luôn bằng tấm lòng trân trọng, cảm phục, đáng quý, đáng mến. (...) Đấy là một bài học về đối nhân xử thế lấy chữ tình làm trọng” [II.23]. Những câu chuyện Đỗ Chu kể trong tác phẩm của mình không chỉ có chuyện đời mà cả chuyện nghề. Thăm thẳm bóng người là sự nối tiếp của Tản mạn trước đèn nhưng sâu sắc hơn, nhuần nhị hơn trong từng câu, từng chữ, từng chi tiết, hình ảnh cho tới từng nhịp kể. Ở tập tùy bút này, người đọc thấy Đỗ Chu viết văn bằng sự hiểu đời của chính ông. Hoàng Ngọc Hiến gọi đó là “thứ văn biết đời”. Nói như Nguyễn La: “Đỗ Chu cũng đủ cái biết đời để mà cắt nghĩa, lí giải, triết lí về sự đời. Đọc văn anh ta thấy thêm yêu cái văn hóa xứ mình”. Thật hiếm thấy một tác phẩm văn học nào mà khi người đọc cầm nó lại không thể dứt ra được. Nói như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến: “Có một cảm giác thăng hoa như vừa được uống rượu quý, một cảm 9 giác bình yên khi ta gấp lại tập tùy bút này. Vui đấy mà nghiệm lắm đấy, đây là những trang sách của người thắp lửa.” [II.20, 93]. Nhìn lại những gì Đỗ Chu đã sống và viết, nhà văn Nguyên An khẳng định: “Nếu làng văn ta ở Hà Nội vắng Đỗ Chu bởi anh đang trốn về quê ngồi viết hay lên Tây Nguyên rồi lại đi Lào, đi Thái, đi Trung Quốc, hoặc sang tận Âu – Mĩ vài tuần vài tháng, thì quả là nhạt chuyện thế nào...vắng anh, người ta lại mang anh ra kể với nhau, Đỗ Chu thành nhân vật, thành hình tượng tự bao giờ không biết nữa” [II.1, 5]. Đây cũng chính là cái nhìn khách quan của tác giả bài báo nhằm khẳng định vị trí, tài năng của Đỗ Chu trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Tuy không nhiều nhưng các bài nghiên cứu xoay quanh tùy bút của Đỗ Chu đã khẳng định tài văn của Đỗ Chu không hề trồi sụt từ những truyện ngắn đầu tay tới những trang tùy bút được ông viết ra lúc tuổi đã ngoài sáu mươi. Với hành trình lao động sáng tạo bền bỉ Đỗ Chu đã tạc khắc được một dấu ấn phong cách riêng trên các thể loại truyện ngắn, tùy bút. Đặc biệt, với Tản mạn trước đèn, Thăm thẳm bóng người ông đã nối tiếp tên tuổi của mình sau những cây tùy bút cự phách của làng văn như: Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường... Có thể nói, cho tới thời điểm này chưa có một công trình nghiên nào đi sâu tìm hiểu về tùy bút Đỗ Chu, nhất là dấu ấn phong cách của cái tôi Đỗ Chu ở thể tùy bút. Trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi bước đầu đưa ra một cái nhìn về hình tượng cái tôi trong tùy bút Đỗ Chu. Từ đó góp phần khẳng định tài năng, phong cách cũng như vị trí của nhà văn Đỗ Chu trong đời sống văn học đương đại Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu về tùy bút Đỗ Chu và hình tượng cái tôi văn hóa trong tùy bút của ông là một vấn đề mới và khó.Tuy nhiên với luận văn này chúng tôi sẽ cố gắng đảm bảo tính nghiêm túc, khoa học, khách quan trong nhận định, đánh giá nhằm hướng tới các mục đích sau: 10 • Khảo sát thống kê và phân tích để làm rõ những đặc điểm về hình tượng cái tôi văn hóa trong hai tùy bút Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu. • Nhận diện một vài phương thức biểu hiện cái tôi văn hóa văn hóa trong tùy bút của Đỗ Chu. • Xác định những đóng góp của nhà văn Đỗ Chu đối với thể loại tùy bút nói riêng và đối với sự phát triển của nền văn học đương đại nói chung. 4. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu Để thực hiện đề tài: “Hình tượng cái tôi văn hóa trong tùy bút Đỗ Chu”, chúng tôi tập trung khảo sát và nghiên cứu hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn (tái bản lần thứ nhất năm 2005), và Thăm thẳm bóng người (xuất bản năm 2008). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đối chiếu so sánh với truyện ngắn Đỗ Chu để thấy được tài năng và sức sáng tạo mạnh mẽ của nhà văn từ truyện ngắn đến tùy bút. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận văn đã chọn, chúng tôi đã kết hợp sử dụng kết hợp những phương pháp sau: - Phương pháp phân tích - tổng hợp - Phương pháp khảo sát thống kê - phân loại - Phương pháp hệ thống - Phương pháp so sánh văn học 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được trình bày trong ba chương: Chương I: Một số vấn đề về lý thuyết và tác giả Đỗ Chu Chương II: Đặc điểm cái tôi văn hóa trong tùy bút Đỗ Chu Chương II: Một vài phương thức thể hiện cái tôi văn hóa trong tùy bút Đỗ Chu 11 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÝ THUYẾT VÀ TÁC GIẢ ĐỖ CHU 1.1. Khái lược về thể loại tùy bút 1.1.1. Khái niệm tùy bút Văn chương không chỉ phản ánh hiện thực cuộc sống bên ngoài mà còn thể hiện sâu sắc đời sống tâm hồn của con người. Mỗi thể loại văn học theo M.Bakhtin: “thường thể hiện một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người”. Như vậy, thể loại vốn được coi là dạng thức tổ chức tác phẩm, qui tụ những hình thức nhìn nhận và phản ánh đời sống, là “nhân vật chính” của tiến trình văn học. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ văn học, thể loại với tư cách là một mô hình nghệ thuật tương ứng, phản ánh đặc điểm văn hóa, trình độ nhận thức và nhu cầu thẩm mỹ của người đọc đã tồn tại bằng chính sự vận động của nó cùng với sự liên kết và tác động với các thể loại khác. Trong quá trình vận động và phát triển, mỗi thể loại luôn có sự vận động dưới tác động biến đổi của các quan niệm về con người, về hiện thực, quan niệm văn chương về chính bản thân nó và đặc biệt là ý thức nhà văn, góp phần làm nên giá trị văn chương. Là “một hiện tượng mang tính thời đại” và ở một chừng mực nhất định, thể loại phản ánh tư tưởng, khuynh hướng nghệ thuật của nhà văn. Trong qua trình sáng tạo, nhà văn sẽ phát huy khả năng khám phá, tái tạo hiện thực qua việc vận dụng ngôn ngữ và các đặc trưng của thể loại mà mình đã lựa chọn. Có thể thấy, mỗi thể loại văn học đều có những đặc trưng riêng của nó. Có những thể loại là sự giao thoa của nhiều thể loại văn học khác nhau và ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định. Ký là một thể loại như vậy. Một thể loại thường phát triển mạnh mẽ trong những thời kỳ mà xã hội có nhiều biến động, ký phản ánh những sự việc và con người có thật trong cuộc sống. Yếu tố chính xác được đặt lên hàng đầu, do đó sức hấp dẫn, sức 12 thuyết phục của ký một phần lớn nằm ở chính sự việc phản ánh trong tác phẩm. Do đặc trưng riêng nên so với truyện ngắn, tiểu thuyết, ký phản ánh cuộc sống nhanh chóng và linh hoạt hơn. Ở Việt Nam, thể loại ký ra đời không phải là sớm. Mãi đến khoảng thế kỉ XVIII những tác phẩm ký đầu tiên mới ra đời như: Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ… Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ký là “một loại hình trung gian nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể, chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút ký, hồi ký, du ký, phóng sự, ký sự, nhật ký, tùy bút” [I.19, 423] Như vậy, tùy bút là một trong những thể loại ký văn học. Tuy ra đời không phải là sớm, số lượng tác phẩm cũng không nhiều nhưng các sáng tác thuộc thể văn này đã đóng một vai trò quan trọng, góp phần làm phong phú kho tàng nền văn học nước nhà. Gắn liền với thể loại văn học này là tên tuổi của những tài năng xuất sắc - những người góp phần xác định diện mạo của thể loại này và đưa nó sánh ngang hàng với các thể loại khác trong nền văn học như: Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Băng Sơn... và mới đây có sự góp mặt của nhà văn Đỗ Chu. Và chắc hẳn trong tương lai, với tiềm năng dồi dào, thể loại này sẽ còn đón nhận nhiều gương mặt khác tham gia thử sức. Về khái niệm tùy bút, từ trước đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì: “Tùy bút là một thể thuộc loại hình kí. Có lối viết tương đối phóng thoáng, nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đi; có thể từ việc này sang sự việc kia, từ liên tưởng này đến liên tưởng kia, để bộc lộ những cảm xúc, những tình cảm, những phát biểu, những nhận xét về người, về cảnh. Cái bản ngã nhà văn được thể hiện gần như trong thơ trữ tình. Tùy bút là thể văn giàu chất trữ tình nhất trong các thể loại kí” [II.19, 380]. Trong Lí luận văn học, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định: “Tùy bút là thể loại văn xuôi phóng thoáng. Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất thả mình theo dòng liên tưởng, cảm xúc mà tả người, 13 kể việc. Cái hay của tùy bút là qua sự bộc lộ những cảm xúc, nhận xét, suy tưởng của tác giả, làm hiện lên một nhân cách, một chủ thể giàu có về tâm tình, sắc sảo về trí tuệ. Các sự vật, hiện tượng, con người được nhắc đến là để làm cơ sở, nguyên cớ, khêu gợi một cái tôi suy nghĩ và trữ tình” [II.26, 362]. Dù có những cách diễn đạt khác nhau nhưng các ý kiến đều khẳng định tùy bút là một thể loại thuộc thể ký, mang những đặc trưng của thể ký. Đây là một thể loại tương đối phóng thoáng, viết theo cảm hứng, nghĩ gì viết nấy, viết theo dòng cảm xúc của chính mình. Và như vậy, tùy bút là thể loại mang tính chủ quan, người viết có thể tùy theo cảm xúc của mình mà tả người, kể việc đồng thời tự do bộc lộ cảm xúc và bày tỏ suy ngẫm về cuộc sống. Ở đây, cái tôi nhà văn càng hằn rõ bao nhiêu, đậm nét bao nhiêu càng dễ đi vào lòng người bấy nhiêu. Đề cập đến vấn đề này, giáo sư nguyễn Đăng Mạnh trong Tuyển tập Nguyễn Tuân cũng cho rằng: “Trong văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan và tự do nhất”, đồng thời giáo sư cũng nhấn mạnh “Người viết thường mượn cớ thuật lại một sự kiện, một mẩu chuyện nào đó mà mình có trải qua để nhân đấy nêu lên những vấn đề này khác mà bàn bạc, mà nghị luận triết luận, ném ra những suy tưởng của mình một cách thoải mái, phóng thoáng”. Trong cuốn Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại, giáo sư còn nhấn mạnh: “Đặc điểm của tùy bút là giàu tính trữ tình. Nghĩa là tác giả được phép trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ của mình, thông qua cái “tôi” chủ quan mà phản ánh hiện thực” [II. 28, 279]. Đến Băng Sơn - một nhà văn đã thành công khi đến với thể loại tùy bút đã cho rằng: “Tùy bút rất gần với thơ nó biểu đạt về cảm xúc là chính. Viết tùy bút cũng giống như làm thơ từ cách tìm đề tài, lập tứ, ngôn ngữ, hình ảnh… chỉ khác làm thơ là diễn tả nó bằng hình ảnh mà thôi”. Các ý kiến trên đều đi đến nhấn mạnh đặc điểm tự do và tính chất trữ tình, giàu chất thơ của thể loại tùy bút. Chính vì đặc điểm này mà các nhà 14 nghiên cứu lý luận văn học đã xếp thể loại tùy bút vào loại tác phẩm trữ tình bên cạnh thơ trữ tình, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng chú ý đến đặc điểm riêng, độc đáo của thể loại tùy bút. Đây là một thể loại khó. Người viết phải có bản lĩnh riêng với cách cảm cách nghĩ sâu sắc, về cuộc đời. Mỗi tác giả tùy bút phải đem lại một điều gì mới mẻ với mọi người trong cách phát hiện, đề cập và lí giải vấn đề. Đây là một “lối chơi độc tấu” như lời của nhà văn Nguyễn Tuân từng khẳng định lúc sinh thời. Điều ấy cũng có nghĩa là ở thể loại này, cái tôi bản ngã của nhà văn mới được bộc lộ rõ nét nhất, trực tiếp nhất. Đó là mảnh đất chỉ dung nạp những người có cốt cách riêng, độc đáo, cá tính và thực sự có tài năng và tâm huyết. Đề cập đến vấn đề này, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã thể hiện quan niệm của mình khi cho rằng “Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó có nổi lên những bình diện thứ nhất, những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn… những người đó mới đi vào tùy bút”. Như vậy, một lần nữa ta có thể khẳng định, đây là lĩnh vực mà chỉ những người có tài năng, có độ từng trải, có uy tín văn học và có bản lĩnh văn hóa mới có được những bài tùy bút hay và khẳng định được tên tuổi của mình. Về cơ bản, các quan điểm trên không đối lập và mâu thuẫn với nhau mà chúng đều góp phần bổ sung lẫn nhau làm hoàn thiện khái niệm tùy bút là gì? Tùy bút có đặc điểm như thế nào? Qua khảo sát các định nghĩa, các ý kiến đánh giá về thể loại này chúng ta thấy: tùy bút là một thể loại tiêu biểu thuộc thể loại ký. Thể loại này có sự đan xen giữa trữ tình và tự sự, giữa văn học và báo chí, vừa mang tính khách quan vừa mang đậm màu sắc chủ quan. Đây là thể tài có tính chất tự do, phóng túng và hết sức linh hoạt. Ở tùy bút, cái tôi nhà văn giữ vị trí trung tâm, trở thành linh hồn và hạt nhân cốt lõi của những thiên tùy bút. Chính cái tôi giữ vai trò “độc tấu” này sẽ chi phối toàn 15 bộ thế giới nghệ thuật của tùy bút như hình tượng, ngôn ngữ, giọng điệu… Và chính cái tôi tác giả ấy đã góp phần tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng mang màu sắc cá nhân đậm nét. Trên cơ sở đó, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về hình tượng cái tôi tác giả trong thể tùy bút để thấy được vị trí vai trò của nó trong việc kiến tạo nên sự thành công của bài tùy bút. 1.1.2. Hình tượng cái tôi tác giả trong thể tài tùy bút 1.1.2.1. Hình tượng nhân vật trong tác phẩm văn học Văn học thể hiện cuộc sống bằng hình tượng, có nghĩa là văn học làm sống lại một cách sinh động, gợi cảm một thế giới trong đó có những sự vật, hiện tượng, con người. Thế giới ấy chính là hình tượng. Trong tác phẩm văn học, hình tượng có nhiều cấp độ, có thể là một cảnh vật, một hình ảnh, một cảm xúc, có thể là cuộc đời cả một hoặc nhiều nhân vật và thế giới xung quanh nó. Hình tượng trong tác phẩm văn học bao giờ cũng là sự khái quát về một tư tưởng, thái độ và quan niệm của chủ thể về cuộc đời. Mỗi một hình tượng nghệ thuật đều có một hình thức chủ quan đặc biệt, ghi dấu cách cảm nhận và thể hiện thế giới độc đáo, riêng biệt, không lặp lại của từng tác giả. Có thể nói mỗi hình tượng văn học không phải là sự sao chép nguyên xi đời sống hiện thực mà mang quan niệm, đánh giá về thế giới, chứa đựng tư tưởng, thái độ và tình cảm của nhà văn. Trong hệ thống hình tượng nghệ thuật của tác phẩm văn học thì hình tượng nhân vật là hình tượng trung tâm nhất, nó có vai trò quyết định sự thành bại, sống còn của tác phẩm văn học. Nhân vật là hình tượng nghệ thuật quan trọng nhất trong một tác phẩm văn học, là hình thức cơ bản để qua đó văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Đồng thời qua nhân vật, nhà văn có thể bày tỏ quan niệm, tư tưởng, thái độ và tình cảm của mình đối với con người và cuộc đời. Không có nhân vật thì không có sự tồn tại của tác phẩm văn học và không có chỗ đứng cho nhà văn. Nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ nhân vật là con đường 16 ngắn nhất để tìm đến giá trị của tác phẩm văn học đó và hiểu được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Như trên đã khẳng định, văn học bao giờ cũng là chuyện của con người. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Tùy thuộc vào quan niệm riêng của mỗi nhà văn mà họ có thể xây dựng trong tác phẩm của mình những kiểu loại nhân vật riêng độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của các nhà văn và cả dấu ấn của thời đại mà tác giả sống và sáng tác. Có thể thấy cùng là một kiểu loại nhân vật, một mô túyp nhân vật nhưng ở các tác phẩm khác nhau với những tác giả khác nhau thì chúng lại mang những diện mạo, cá tính… không giống nhau. Chính điểm khác biệt này mới thể hiện được được cá tính riêng độc đáo của người nghệ sỹ trên hành trình đi tìm cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp để khẳng định tài năng và nhân cách của mình. 1.1.2.2. Hình tượng tác giả trong thể tài tùy bút Nhà văn là người sáng tạo ra tác phẩm và tác phẩm dù ở mọi dạng thức đều mang dấu ấn cá nhân của người sáng tạo ra nó. Tác phẩm văn học ra đời là kết quả của quá trình lao động sáng tạo âm thầm và vất vả của nhà văn. Nó mang dấu ấn của người sáng tạo từ cách cảm, cách nghĩ, cách lựa chọn câu từ, hình ảnh, cách xây dựng nhân vật, tổ chức tác phẩm… Và chủ nhân của những sản phẩm tinh thần ấy được gọi với cái tên chung là tác giả văn học. Tác giả là người làm ra tác phẩm. Để hiểu được con người cùng tài văn của một nhà văn không có con đường nào khác là đi tìm hiểu về tác phẩm của họ. Và muốn tìm hiểu tác phẩm đó thì con đường ngắn nhất là đi sâu nghiên cứu về cái tôi tác giả ngự trị trong tác phẩm. Đây là một loại hình tượng được sáng tạo trong tác phẩm như hình tượng nhân vật. Tuy nhiên nó lại được xây dựng theo một nguyên tắc khác và ở từng thể loại văn học nó lại được biểu hiện khác nhau. 17 Nếu hình tượng nhân vật được xây dựng theo nguyên tắc hư cấu, được miêu tả theo một quan niệm nghệ thuật nhất định… thì hình tượng tác giả lại được thể hiện theo nguyên tắc tự biểu hiện. Ẩn tàng đằng sau cách lựa chọn, sử dụng từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu, cách xây dựng nhân vật trong một không gian và thời gian nhất định, cách kết cấu, tổ chức tác phẩm… là hình bóng của cái tôi nhà văn. Tác phẩm văn học đó có đến được và xác lập được chỗ đứng trong lòng độc giả hay không đều quyết định bởi tài năng, sự khéo léo của chính cái tôi nhà văn. Có thể thấy tác phẩm văn học vừa là nơi chứa chất những điều nhà văn nghĩ, nhà văn muốn nói, muốn sẻ chia cùng người đọc, vừa là nơi góp phần tạo cho nhà văn một chỗ đứng trong đời sống văn học. Nhà văn sinh ra tác phẩm và góp phần tạo nên linh hồn sức sống cho nó, còn tác phẩm văn học lại làm nên tên tuổi của nhà văn. Nó xác lập được tầm vóc tinh thần, sự sắc sảo trong trí tuệ của nhà văn. Đó là mối quan hệ hai chiều giữa tác phẩm và tác giả. Hình tượng tác giả được biểu hiện trong tác phẩm một cách đặc biệt. Nhà thơ Đức I.W.Goethe từng cho rằng: “mỗi nhà văn, bất kể muốn hay không, đều miêu tả chính mình trong tác phẩm của mình một cách đặc biệt. Có nghĩa là cái tôi nghệ sỹ của nhà văn biểu hiện cảm nhận của mình về thế giới, cách suy nghĩ và ngôn ngữ, cách diễn đạt của mình. Cảm nhận đó trở thành trung tâm tổ chức tác phẩm, tạo thành sự thống nhất nội tại của tác phẩm về mặt phong cách học”. Theo như ý kiến trên thì cái tôi nhà văn có một sức sống nội tại trong tác phẩm, nó là trung tâm kết dính và tổ chức tác phẩm theo một quan niệm nhất định để tự biểu hiện ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Nói như L.Tônxtôi : “nếu trước mắt ta là một tác giả mới, thì câu hỏi tự nhiên đặt ra là liệu anh ta có nói điều gì mới với người đọc”. Là một nhà văn được tôi luyện trong nghề, Đỗ Chu đã tâm sự: “Với tôi, người viết và nhân vật là một. Tôi muốn huy động vai trò bản thân tới mức tối đa. Tôi không bám vào hiện tượng quan sát được, mà thường ướm mình vào nhân vật, không giả sử mình đóng vai người khác sẽ ra sao, mà 18 thường giả sử trong trường hợp đó, mình sẽ xử sự ra sao”. Và như vậy, thế giới nhân vật trong tác phẩm của Đỗ Chu là thế giới của sự phân thân. Tác giả hóa thân vào nhân vật và nhân vật là hình bóng của tác giả. Ở góc độ của nhà nghiên cứu văn học, giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: trong một tác phẩm, “hình tượng tác giả biểu hiện chủ yếu ở cái nhìn riêng, độc đáo, nhất quán và có ý nghĩa tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ; giọng điệu của tác giả thâm nhập vào cả giọng điệu nhân vật; và ở sự miêu tả, có sự hình dung của tác giả đối với chính mình” [II.35]. Như vậy theo ý kiến của nhà nghiên cứu thì hình tượng cái tôi tác giả được xem xét trên nhiều phương diện trong tác phẩm văn học. Hình tượng tác giả là một thành tố quan trọng để cấu thành nên chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm văn học. Giống như đạo diễn của một vở kịch hoặc một bộ phim, hình tượng cái tôi tác giả luôn giữ vai trò quan trọng trong điều khiển thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Tuy nhiên ở mỗi thể loại văn học khác nhau, hình tượng cái tôi tác giả lại được thể hiện khác nhau, theo những nguyên tắc biểu hiện khác nhau. Trong thơ, hình tượng cái tôi có vị trí quan trọng với tư cách là chủ thể sáng tạo có thế giới nội tâm vô cùng phong phú và phức tạp. Nhà thơ phải là người hiện diện. Người đọc sẽ tìm thấy trong thơ một cách cảm nghĩ về cuộc sống, có chiều sâu và bản sắc độc đáo, với giọng điệu thi ca riêng. Nhà thơ nói về cuộc sống thông qua những cảm nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là phương thức biểu hiện của thơ trữ tình dựa chủ yếu vào chủ thể sáng tạo. Cái tôi trong thơ là cái tôi tự biểu hiện, tự giãi bày, tự tạo cho mình một gương mặt riêng mà mọi người có thể tìm thấy để chia sẻ những cảm nghĩ của mình. Trong tiểu thuyết và truyện ngắn, nhân vật là hạt nhân của sự sáng tạo nghệ thuật, là trọng điểm để nhà văn lí giải tất cả mọi vấn đề của đời sống xã hội. Nhân vật trong hai thể loại này có thể chỉ là sự hóa thân, là hình bóng, là mộng tưởng của chính tác giả như trong tiểu thuyết lãng mạn; cũng có khi được xây dựng từ những nguyên mẫu của đời sống kết hợp với năng lực hư 19 cấu sáng tạo riêng của nhà văn như trong tiểu thuyết hiện thực. Như vậy hình tượng cái tôi tác giả ở đây được thể hiện thông qua nhân vật được hư cấu. Hoặc nó được thể hiện thông qua nhân vật trung gian - người kể chuyện. Khác với thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết… cái tôi tác giả trong thể loại kí lại có một phương thức tồn tại khác. Đa số trong các tác phẩm kí, nhân vật trần thuật chính là cái tôi tác giả. Sự có mặt của nhân vật trần thuật, nhất là tác giả, trước hết đóng vai trò người chứng kiến để tăng cường tính xác thực của con người và sự việc trong tác phẩm kí đồng thời cũng để bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của mình. Giống như người viết báo, người viết kí phải đặc biệt tôn trọng, phải truyền đạt trung thực, chính xác những sự kiện của đời thực, việc thực, xúc cảm thực. Nhà viết kí nào cũng phấn đấu theo phương châm xác thực tới mức tối đa. Cái xác thực đó có lúc thuộc về khách thể cũng có khi thuộc về chủ thể sáng tạo. Do đặc trưng này người viết kí đòi hỏi một sự chuẩn bị nghiêm túc như làm một công trình khoa học. Và các tác phẩm kí, do trần thuật về người thật, việc thật nên nó có giá trị cung cấp cho người tiếp nhận những tri thức về cuộc sống và có giá trị như những tư liệu lịch sử. Tuy nhiên, hình tượng cái tôi trong tác phẩm kí không mang tính chất ghi chép và phản ánh một cách thụ động, máy móc mà ngược lại rất năng động, chủ động và sáng tạo trong mọi tình huống. Trong nghệ thuật viết kí, điều quan trọng nhất là người viết kí phải biết lựa chọn, phải thấy được trong muôn vàn cảnh sắc của thiên nhiên đâu là những cảnh sắc thân quen, gần gũi nhất, dễ làm say đắm lòng người nhất. Và trong muôn vàn những nét đẹp của con người đâu là những nét đẹp tiêu biểu nhất cho tâm hồn con người, tính cách dân tộc, thời đại và giai cấp. Trong các tiểu loại của kí, tùy bút là thể tài tương đối tự do, phóng thoáng. Nhà văn tùy theo ngọn bút đưa đi, có thể từ sự việc này sang sự việc kia, từ liên tưởng này sang liên tưởng kia, để bộc lộ cảm xúc, tâm tình và phát biểu những nhận xét về người và cảnh. Tùy bút lấy cái tôi của mình để dẫn chuyện, đưa chuyện, dĩ nhiên cái tôi ấy đã là một sự bảo hiểm để cam 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan