BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG
THEO PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
LÊ ĐĂNG LINH
HÀ NỘI - 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG
THEO PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG Ở VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC NINH
LÊ ĐĂNG LINH
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN TRUNG TÍN
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Lê Đăng Linh, học viên lớp … khóa … xin cam đoan đây là
công trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài liệu
nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận văn
đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ quan
cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả nghiên
cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan. Tôi
xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu cũng
như các thông tin sử dụng trong công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Đăng Linh
i
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành tới
PGS.TS Nguyễn Trung Tín là người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo
tôi trong suốt thời gian thực hiện Luận văn.
Tôi xin cám ơn chân thành tới Lãnh đạo Khoa Luật, Đại Học Mở Hà
Nội đặc biệt là các thầy, cô và toàn thể cán bộ, giảng viên của Khoa Luật đã
động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn.
Trong quá trình thực hiện Luận văn, tôi cũng đã nhận được sự khích lệ,
động viên, ủng hộ nhiệt tình từ phía gia đình, cơ quan, bạn bè và các đồng
nghiệp. Tôi xin cảm ơn chân thành nhất về sự giúp đỡ quý báu đó.
Hà Nội, ngày 22 tháng 01 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Đăng Linh
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................... v
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC PHÁP LÝ
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG ....................................... 6
1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức hành nghề công chứng Việt Nam ....... 6
1.1.1. Khái niệm Tổ chức hành nghề công chứng và các hình thức pháp lý .... 6
1.1.2. Các hình thức pháp lý của các tổ chức hành nghề công chứng tại Việt
Nam theo quy định của pháp luật hiện hành được mô tả như sau .................... 8
CHƯƠNG 2: HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA VĂN PHÒNG CÔNG
CHỨNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG HIỆN
HÀNH – THỰC TRẠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ............... 15
2.1. Hình thức pháp Lý và thực trạng tình hình hoạt động của các Văn
phòng công chứng theo quy định của pháp luật công chứng hiện hành . 15
2.1.1. Tiêu chuẩn thành lập VPCC.................................................................. 15
2.2. Thực trạng hoạt động của VPCC trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .......... 30
2.2.1. Khái quát chung về các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Bắc
Ninh trong thời gian qua. ................................................................................ 30
2.2.2. Tình hình hoạt động thực tế của các tổ chức hành nghề Công chứng
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .............................................................................. 35
2.3. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai
Luật công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................. 36
2.3.1. Khó khăn trong việc triển khai áp dụng trong thực tiễn của VPCC ..... 36
2.3.3. Nên thực hiện việc xã hội hoá về Hoạt động công chứng tại tỉnh Bắc
Ninh ................................................................................................................. 40
iii
2.3.4. Nên thực hiện chuyển đổi mô hình từ PCC sang VPCC tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển hoạt động................................................................... 43
2.3.5. Việc bỏ quy hoạch VPCC ảnh hưởng gì đến các Tổ chức HNCC tại địa
phương, giải pháp và những kiến nghị ............................................................ 45
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT CÔNG CHỨNG VỀ HÌNH THỨC PHÁP LÝ CỦA VPCC ......... 52
3.1. Bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự đối với VPCC .................. 52
3.2. Quy định cụ thể về điều kiện thành lập VPCC ................................... 53
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của VPCC trên cả nước và
tại tỉnh Bắc Ninh............................................................................................ 56
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 60
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
Viết tắt
Diễn giải
1
PCC
Phòng công chứng
2
VPCC
Văn phòng công chứng
3
TCHNCC
Tổ chức hành nghề công chứng
4
LCC
Luật Công chứng
5
UBND
Ủy ban Nhân dân
v
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 19/06/2014, sau khi được đại đa số đại biểu Quốc hội thông qua
vào Đại hội Khoá 13, Luật Công chứng chính thức đi vào thi hành trên thực
tiễn kể từ 01/01/2015. Đối với tất cả những người đang hoạt động và có liên
quan tới lĩnh vực Công chứng thì đây được coi là một bước tiến cực kỳ quan
trọng trong việc phổ biến xã hội hóa các loại hình dịch vụ về công chứng của
nước ta hiện nay.
Ngoài ra, nhằm giúp cho các quy định liên quan đến pháp luật về công
chứng dễ dàng tiếp và áp dụng vào thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 29/2015/NĐ-CP nhằm có giải thích, hướng dẫn cụ thể hơn các quy định này,
một mặt giúp cho các cơ quan tư pháp có thể quản lý tốt lĩnh vực công chứng,
mặt khác, là cơ sở cho các cá nhân, tổ chức dự tính hành nghề công chứng có
thể tham khảo nhằm đảm bảo hoạt động công chứng đúng quy định và thống
nhất trên cả nước. Việc cố gắng xã hội hoá lĩnh vực công chứng là một trong
những mục tiêu quan trọng nhất mà Đảng và Nhà nước đã đề cập đến trong lộ
trình cải cách tư pháp nói riêng và việc phát triển đất nước nói chung. Việc có
thể để mọi chủ thể trong xã hội có thể dễ dàng tiếp cận và thực hiện các hoạt
động công chức, chứng thực sẽ thúc đẩy được sự tăng trưởng của rất nhiều
quan hệ xã hội khác như lĩnh vực hành chính công, một lĩnh vực được tập trung
xây dựng và phát triển trong giai đoạn hiện nay hay việc đưa lĩnh vực công
chứng có thể đi sâu vào quần chúng nhân dân, nhất là các khu vực miền quê
nông thôn, vùng sâu vùng xa – nơi mà trước đây để tiếp cận lĩnh vực này gần
như là không thể.
Trong giai đoạn mà sự phát triển vượt bậc của kinh tế, các vấn đề liên
quan đến hành chính – tư pháp cũng đang cố gắng theo kịp với sự phát triển
này, đảm bảo các quan hệ kinh tế liên quan lĩnh vực này không bị sự lạc hậu
của hành chính – tư pháp làm cảm trợ sự vận động của mình, chính vì thế
trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, việc xây dựng một hệ thống hành
chính công lập hiện đại, dễ tiếp cận là một trong năm mục tiêu quan trọng
nhất của tiến trình cải cách tư pháp nói riêng và sự phát triển của đất nước nói
chung. Cụ thể trong đó, cần đề cao hơn vai trò của các cơ quan quản lý hành
1
chính trong việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính đến toàn bộ chủ thể
trong xã hội nhưng vẫn phải đề cao được tính dân chủ, minh bạch, rõ ràng,
phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Và quan trọng nhất trong các hoạt
động liên quan đến cải cách hành chính công đó việc đơn giản hoá lĩnh vực
công chứng – lĩnh vực liên quan trực tiếp đến hầu hết các hoạt động hành
chính, dịch vụ công khác. Đó cũng là lý do mặc dù không có sự ảnh hưởng
lớn như luật sư, giám định tư pháp nhưng pháp luật về công chứng vẫn được
quan tâm xây dựng, thể hiện ở sự ra đời của Luật Công chứng 2006 và tiếp
tục được sửa đổi nội dung nhằm phù hợp hơn ở Luật Công chứng năm 2014
nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng
có thể dễ dàng hơn trong hoạt động của mình, thúc đẩy sự đầu tư cả trong và
ngoài nước vào lĩnh vực này, giúp cho hoạt động công chứng có thể bắt kịp
xu hướng chung của thế giới.
Mục tiêu to lớn và rõ ràng là vậy, nhưng việc hành nghề công chứng
của các cá nhân, tổ chức nói chung và việc thành lập Văn phòng công chứng
nói riêng vẫn lại tồn tại nhiều bất cập mà các nhà làm luật chưa thể dự liệu hết
được trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật về công chứng, nhất là
việc làm sao để các quy phạm pháp luật này có thể dễ dàng tiếp cận đến các
chủ thể trong xã hội và đảm bảo các chủ thể này hiểu được các nội dung mà
nhà luật mong muốn, vì sự mơ hồ trong nhận thức về pháp luật công chứng
mà thực tế nhiều người vẫn cho rằng Phòng công chứng và Văn phòng công
chứng là giống nhau vì chúng đều là các tổ chức hành nghề công chứng và
mô hình hoạt động của các bên là giống nhau… Chính vì vậy, tôi chọn đề tài
“Hình thức pháp lý của văn phòng công chứng theo pháp luật về công
chứng ở Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài Luận văn Thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay ở nước ta, mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về công
chứng dưới góc độ như quản lý nhà nước về công chứng, xã hội hóa công
chứng, thực trạng pháp luật về công chứng, hoạt động của công chứng, chứng
thực và rất nhiều góc độ khác… Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào
nói về Hình thức pháp lý của văn phòng công chứng theo pháp luật về
2
công chứng và đặc biệt là có gắn liền với một địa bàn cụ thể ở Việt Nam,
theo đề tài này thì tôi chọn liên hệ với thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh.
Hiện nay tổ chức hành nghề công chứng đang rất được quan tâm và
thậm chí luôn được hệ thống pháp luật Việt Nam chú trọng để cải thiện, sửa
đổi mỗi thời kỳ cho phù hợp với thực tế đời sống cũng như kinh tế-xã hội
Việt Nam gắn liền với thế giới. Mặc dù Luật công chứng 2014 đã đang có
nhiều điểm tích cực và phát triển hơn so với Luật Công chứng 2006 và các
văn bản luật có liên quan khác, song vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc khi
thực hiện ở Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
Chính vì lẽ đó, Hình thức pháp lý của văn phòng công chứng theo
pháp luật về công chứng ở Việt Nam từ thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh là đề tài
nghiên cứu tương đối hệ thống về hình thức pháp lý của tổ chức hành nghề
công chứng nói chung, Văn phòng công chứng nói riêng để từ đó đưa ra
những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện hơn cả về hình thức pháp lý
cũng như hoạt động của Văn phòng công chứng ở Việt Nam từ thực tiễn tại
tỉnh Bắc Ninh, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Luật công chứng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là từ những lý luận thực tiễn, hoạt động thực
tiễn về lĩnh vực công chứng để làm sáng tỏ và phân tích rõ về hình thức pháp
lý của các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và Văn phòng công
chứng nói riêng, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn nữa quy định của pháp luật về hình thức pháp lý của Văn phòng
công chứng. Đồng thời liên hệ đến thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về hình thức pháp lý của tổ chức
hành nghề công chứng;
- Phân tích hình thức pháp lý của văn phòng công chứng theo quy định của
pháp luật công chứng hiện hành – thực trạng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng về hình
thức pháp lý của Văn phòng công chứng;
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản nhất về hoạt động
công chứng, hình thức pháp lý của VPCC; thực trạng quy định và áp dụng
pháp luật về hình thức pháp lý của VPCC ở Việt Nam hiện nay và cụ thể hơn
là thực tiễn hoạt động của các Văn phòng công chứng tại tỉnh Bắc Ninh;
- Phạm vi nghiên cứu: Tổ chức hành nghề công chứng ra đời từ yêu cầu tất
yếu của xã hội và là hoạt động xã hội hóa công chứng từ khi nghị định của
chính phủ về công chứng, chứng thực có hiệu lực. Tổ chức hành nghề công
chứng khi sơ khai chỉ mới tồn tại dưới hình thức Phòng công chứng Nhà
nước, nhưng qua các thời kì phát triển và đặc biệt sau khi Luật công chứng
2006 có hiệu lực, và nay là Luật công chứng 2014 thì Tổ chức hành nghề
công chứng hiện nay bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng;
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận được sử dụng là phương pháp luận từ CN Marx – Lenin
(Mác - Lênin)
- Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài bao gồm:
+ Phương pháp tìm hiểu từ các tư liệu: Là nghiên cứu về lý luận thông qua
những tài liệu đã có liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành
nghề công chứng trên Thế giới và Việt Nam. Qua đó xây dựng lý thuyết của
đề tài.
+ Phương pháp so sánh: Sẽ phân tích việc giống và khác nhau, những điểm
tích cực, không tích cực, thiếu sót của Luật công chứng 2014 so với Luật
công chứng 2006 và các văn bản pháp luật quy định có liên quan về công
chứng từ trước tới nay. Để đưa ra kết luận về thuận lợi và hạn chế cần khắc
phục trong thực tế thi hành Luật công chứng 2014, đề ra những giải pháp phù
hợp, những phương pháp giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tôi đánh giá đây là một phương pháp
quan cực kỳ quan trọng trong cả quá trình nghiên cứu đề tài. Dựa trên cơ sở
các tài liệu, các thông tin và những dữ liệu tìm hiểu được, tôi sẽ phân tích,
đánh giá, xem xét trên tất cả các khía cạnh. Qua đó tổng hợp lại để có những
kết luận, những đề xuất, những giải pháp mang tính khoa học, phù hợp với lý
4
luận và thực tiễn trong tất cả các hình thức pháp lý về hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn đã hệ thống, phân tích và bổ sung những vấn
đề có tính lý luận về tổ chức hành nghề công chứng nói chung và hình thức
pháp lý văn phòng công chứng nói riêng; chỉ ra những điểm khác trong tổ
chức giữa Phòng công chứng và Văn phòng công chứng, những vướng mắc
bất cập, hạn chế còn tồn tại trong Luật công chứng 2014 và dựa trên cơ sở đó
đề xuất đưa ra những giải pháp phù hợp để đóng góp.
Về thực tế, các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng được cho
việc hoàn thiện các chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề
công chứng trên thực tế, việc hoàn thiện về hình thức pháp lý của Văn phòng
công chứng để phù hợp với thực tế đời sống, luận văn còn là tài liệu tham
khảo phục vụ cho nghiên cứu, hoặc có tính phổ biến tham khảo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu Luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình thức pháp lý của tổ chức hành
nghề công chứng
Chương 2: Hình thức pháp lý của văn phòng công chứng theo quy định
của pháp luật công chứng hiện hành – thực trạng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng về
hình thức pháp lý của VPCC
5
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THỨC PHÁP LÝ
CỦA TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1.1. Hình thức pháp lý của tổ chức hành nghề công chứng Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Tổ chức hành nghề công chứng và các hình thức pháp lý
Hiện nay, hầu như các quan điểm về nội hàm khái niệm công chứng
được các nhà nghiên cứu thống nhất, đồng thuận với quy định của pháp luật:
“Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công
chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự
khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi
là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,
tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng [1]”.
Như vậy, chủ thể của hành vi công chứng được ghi nhận là CCV của
một TCHNCC (VPCC hoặc PCC); Mục đích của hoạt động này là nhằm
chứng minh một giao dịch dân sự nói chung thật sự tồn tại trên thực tế và việc
xác lập giao dịch dân sự hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật. Đối
tượng của hành vi công chứng là giao dịch dân sự nói chung và bản dịch;
phạm vi của công chứng bao gồm các trường hợp bắt buộc hoặc theo yêu cầu
hợp pháp.
Khoản 5 Điều 2 LCC năm 2014 cũng quy định “Tổ chức hành nghề
công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ
chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan [2]”.
Đây cũng là thay đổi khác biệt và mở rộng hơn so với Luật công chứng
2006. Luật công chứng 2006 chỉ quy định “Tổ chức hành nghề công chứng
là: PCC và VPCC” (theo Điều 23, LCC năm 2006).
Tại Điều 19 Luật công chứng năm 2014 quy định:
“Phòng công chứng do UBND cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị
sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư Pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng.
Người đại diện theo pháp luật của Phòng công chứng là Trưởng phòng,
6
trưởng phòng công chứng phải là công chứng viên, do Chủ tịch UBND cấp
tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tên gọi của Phòng công chứng bao
gồm cụm từ “Phòng công chứng” kèm theo số thứ tự thành lập và tên của
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Phòng công chứng được thành lập
[3]”.
Như vậy, PCC sẽ có con dấu riêng, được khắc, sử dụng, quản lý con
dấu sau khi có quyết định thành lập, tuy nhiên vì không phải làm một tổ chức
nhà nước hoàn toàn nên con dấu của PCC sẽ không có quốc huy. Nhằm đảm
bảo sự thống nhất quản lý, việc khắc con dấu của các PCC sẽ được tiến hành
thống nhất qua một trình tự, thủ tục cụ thể theo pháp luật về con dấu và những
quy định riêng của pháp luật về công chứng. [4] Theo Luật Công chứng năm
2014, ngoài Công chứng viên của Tổ chức hành nghề công chứng ra, viên
chức lãnh sự, viên chức ngoại giao thuộc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan
lãnh sự cũng có thẩm quyền công chứng một số giao dịch như CCV nhưng
không được thể hiện trong khái niệm; ngoài ra, khái niệm công chứng nêu
trên chưa thể hiện đúng bản chất của hoạt động công chứng.
Sở Tư Pháp là cơ quan hành chính quản lý trực tiếp các PCC trên địa
bàn của mình, do là đơn vị có thu phí nên các PCC nên bên cạnh các kinh phí
do Nhà nước hỗ trợ, các đơn vi còn được phép sử dụng một phần doanh thu
của đơn vị cho các hoạt động tổ chức của PCC. Tuy nhiên, PCC không phải
được tự do trong việc sử dụng doanh thu của mình, theo trình tự, các đơn vị
phải nộp lại toàn bộ các phí, lệ phí thu được cho ngân sách Nhà nước, sau đó
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành kiểm tra việc kê khai và nộp
tiền của PCC, nếu không có sai sót gì thì PCC sẽ được nhận lại nửa doanh thu
mà họ có được để chi trả cho các hoạt động của PCC.
Điều 22 của Luật công chứng 2014 quy định:
“Văn phòng Công chứng là tổ chức dịch vụ công được tổ chức và hoạt
động theo loại hình công ty hợp danh; phải có từ hai công chứng viên hợp
danh trở lên, không có thành viên góp vốn. Tên của Văn phòng công chứng
được lấy theo tên của Trưởng văn phòng hoặc tên của Công chứng viên hợp
danh” [5].
7
Tất cả các quyền lợi và nghĩa vụ của VPCC được quy định trong Luật
công chứng 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Thông
tư 06/2015/TT-BTP hay Thông tư 01/2021/TT-BTP đã đưa ra rất rõ. Loại
hình công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên là thành viên góp vốn và
thành viên hợp danh, do các hoạt động công chứng đòi hỏi ở các CCV tính
đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp rất cao, vì vậy buộc họ phải là các thành
viên hợp danh, nhằm ràng buộc trách nhiệm tài sản của họ với trách nhiệm
của VPCC nói riêng và trách nhiệm với hoạt động công chứng nói riêng, bên
cạnh đó, việc không có thành viên góp vốn nhằm đảm bảo các khoản thu phí
của VPCC có thể dễ dàng quản lý và trách các xung đột giữa lợi ích cá nhân
với lợi ích Nhà nước.
1.1.2. Các hình thức pháp lý của các tổ chức hành nghề công chứng tại
Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành được mô tả như sau
1.1.2.1. Sự giống nhau giữa PCC và VPCC
- Cả 2 mô hình đều là các tổ chức mang tính dịch vụ pháp lý, đều cùng
cung cấp “dịch vụ công chứng” với tư cách là một doanh nghiệp hợp pháp
theo các loại hình mà pháp luật cho phép và cùng hướng đến các lợi ích chính
sau:
+ Lợi ích thứ nhất thuộc về Nhà nước: Về bản chất, hoạt động công
chứng có mục đích chính là bảo vệ quyền lợi của các chủ thể khi tham gia vào
các giao dịch dân sự, nhưng trên hết các chủ thể sử dụng hoạt động công
chứng phổ biến nhất vẫn là nhằm thực hiện các công việc hành chính – tư
pháp với hệ thống các cơ quan nhà nước, vì vậy, có thể xem hoạt động công
chứng là một hoạt động bổ trợ tư pháp, giúp hỗ trợ các chủ thể khi tham gia
và các hoạt động có liên quan đến cơ quan Nhà nước. [6]. Hầu hết hoạt động
công chứng đều mang tính dịch vụ pháp lý vô cùng riêng biệt. Chịu sự quản
lý chặt chẽ của Nhà nước vì vậy có thể xem các CCV là các cá nhân thay mặt
Nhà nước để xác minh cho yêu cầu công chứng các giao dịch dân sự của các
chủ thể hoặc công chứng các giao dịch bắt buộc nhằm đảm bảo sự quản lý của
Nhà nước nói chung và quyền lợi hợp pháp của các chủ thể nói riêng.
+ Lợi ích thứ hai thuộc về các bên chủ thể trong giao dịch: Với sự phát
triển của xã hội, nhu cầu tìm kiếm các phương thức tự bảo vệ của người dân
8
ngày càng tăng cao, nhất là các phương thức có mang tính chất pháp lý cụ thể,
và công chứng được xem là phương thức an toàn và hiệu quả, vì vậy, việc xã
hội hoá hoạt động này, giúp cho người dân dễ dàng hơn trong việc xây dựng
hàng rào bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời là cơ sở
để ổn định trật tự xã tại các địa phương khi hoạt động này có liên quan trực
tiếp đến các tranh chấp quyền sử dụng đất – loại tranh chấp phức tạp, có thể
gây ra những hậu quả xấu đến trật tự xã hội, các chủ thể luôn tìm mọi cách để
bảo vệ được quyền sử dụng đất của mình. Hay nói cách khác, chính hoạt động
này đã tự tạo ra một hàng rào chắn pháp lý vững chắc cho các chủ thể có thể
an tâm khi tham gia vào các giao dịch dân sự có rủi ro cao, từ đó giảm thiểu
các tranh chấp không đáng có cũng như là các tài liệu, chứng cứ pháp lý hiệu
quả khi giải quyết các tranh chấp xảy ra, rút ngắn thời gian, chi phí và lượng
công việc mà các cơ quan xét xử khi phải xử lý các tranh chấp khó nhằn này.
+ Lợi ích thứ ba thuộc về chính các PCC, VPCC: Về cơ bản, các tổ
chức hành nghề công chứng vẫn có doanh thu từ việc thu phí, lệ phí các hoạt
động công chứng tại đơn vị của mình, với việc nhu cầu của người dân trong
hoạt động này đang ngày càng tăng nhanh như hiện nay thì lợi nhuận thu
được của các đơn vị từ đó cũng được cải thiện đáng kể.
1.1.2.2. Sự khác nhau giữa PCC và VPCC
- CCV thuộc PCC phải là công chức hoặc viên chức thuộc biên chế
Nhà nước, đồng thời cũng sẽ được hưởng các chính sách lương – thưởng từ
Ngân sách Nhà nước.
- CCV thuộc VPPC chỉ là các cá nhân được đào tạo và có chứng chỉ
hành nghề công chứng theo quy định của pháp luật công chứng, vì vậy, chế
độ tiền lương và ưu đãi của họ cũng tự do hơn, phù thuộc vào nội quy của
từng VPPC và hoạt động công chứng cá nhân của họ.
- Nguồn tài chính của tổ chức hành nghề công chứng:
PCC là các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Tư Pháp địa
phương, nguồn thu chính của PPC đến từ kinh phí do Nhà nước cấp theo quy
định và nửa lợi nhuận thu được từ hoạt động của đơn vị sau khi đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét nguồn thu. Trong khi đó, VPCC hoạt
động một cách độc lập và tự do, kinh phí của văn phòng do các thành viên
9
hợp danh góp, tự chịu trách nhiệm về tài sản liên quan đến các nghĩa vụ của
văn phòng, nguồn thu trực tiếp đến từ phí, lệ phí thu được bởi các hoat động
công chứng trong và ngoài trụ sở, các hoạt động bổ trợ khác như giám định,
xác minh,…[7]
Khác với thời gian trước, khi chỉ các PCC trực thuộc Sở Tư pháp mới
được phép hành nghề công chứng dẫn đến việc số lượng các PCC trên địa bàn
mỗi tỉnh là rất ít, việc tiến hành các hoạt động này cũng gặp nhiều hạn chế
cũng như gây khó khăn cho các cá nhân có nguyện vọng đầu tư vào lĩnh vực
này, vì vậy quy định về VPCC ra đời, được UBDN cấp tỉnh cấp phép thành
lập đã giúp cho lĩnh vực này trở nên thương mại hoá hơn.
Dù khác nhau ở cơ cấu tổ chức cũng như mức độ quản lý của Nhà nước
nhưng về bản chất cả 02 loại hình tổ chức này đều bình đẳng về tất cả các
chức năng, nhiệm vụ khi tiến hành các hoạt động công chứng. Các chủ thể tìm
đến PCC và VPCC như một phương thức giao dịch dân sự - dịch vụ có thu
phí, không có sự khác nhau về tính pháp lý của các văn bản công chứng do cả
hai thực hiện. Các văn bản của Nhà nước đều quy định mức phí chung cho
Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. Cung như không có quy định
riêng biệt nào về lượng khách hàng, văn bản công chúng dành riêng cho cả
hai, điều này hoàn toàn phù thuộc vào nhu cầu của khách hàng trong địa
phương đó. Loại hình nào gây ra các thiệt hại hay có sự gian dối trong hoạt
động đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau trước pháp luật.
Tuy vậy, do là một hoạt động mang lại doanh thu nên hoạt động công
chứng được xem là một ngành, nghề kinh doanh theo quy định tại Quyết định
số 28/2018/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ vì vậy các tổ chức hành nghề
công chứng được coi là các tổ chức kinh doanh dịch vụ pháp lý nên các đơn
vị khi hoạt động phải đảm các quy định của pháp luật về doanh nghiệp cũng
như là các điều kiện mà pháp luật về công chứng đặt ra. Điều này tương ứng
với loại hình VPCC. Loại hình này chỉ được thành lập dưới dạng công ty hợp
danh, với điều kiện là các CCV sẽ là thành viên hợp danh đồng thời sẽ không
có thành viên góp vốn để đảm bảo dù được độc lập về hạch sách kế toán,
nhứng các VPCC vẫn phải chịu sự quản lý chặt chẽ của các Sở Tư pháp và Sở
Kế hoạch – Đầu tư và các kế hoạch phát triển củ Chính phủ tại các địa
phương, điều không xảy ra với các doanh nghiệp là công ty hợp danh thông
10
thường. Hay nói cách khác, điều kiện thành lập công ty hợp danh kinh doanh
lĩnh vực công chứng sẽ có những điều kiện khắc khe hơn không chỉ đến từ
các quy định của pháp luật về doanh nghiệp, về thuế, về công chứng mà đó
còn là các điều kiện khác được theo Quy hoạch phát triển tổng thể lĩnh vực
công chứng nói riêng và phát triển đô thị tại từng địa phương nói chung do
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cụ thể, để thành lập VPCC cần ít nhất 02
thành viên hợp danh là CCV được bổ nhiệm đúng trình tự pháp luật, không có
thành viên góp vốn và được tổ chức hoạt động theo các quy định của Luật
Doanh nghiệp 2020:
+ Các CCV và các thành viên hợp danh khác sẽ phải chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ trong suốt hoạt động của
VPCC. Trách nhiệm này sẽ không có ngoại lệ với bất kỳ thành viên nào. Nếu
họ có thỏa thuận khác với nhau, lập tức công ty sẽ chuyển sang thành công ty
hợp vốn khi đó sẽ vi phạm quy định của pháp luật về công chứng, VPCC
đương nhiên sẽ không thể tiếp tục hoạt động.
+ Quản lý và đại diện cho VPCC: Các thành viên VPCC được phép
thoả thuận toàn bộ về việc quản lý, tổ chức văn phòng theo nội dung về nội
quy của Luật Doanh nghiệp. Theo đó, các CCV và các thành viên còn lại đều
được được đại diện một cách hợp pháp cho VPCC để thực hiện các nghĩa vụ
doanh nghiệp cũng như tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh dịch vụ pháp
lý công chứng hàng ngày của văn phòng, nếu như có các quy định nhằm hạn
chế quyền hạn này thì bên thứ ba phải biết được điều đó như việc thể hiện
trong nội quy hay các giao dịch dân sự.
+ Hạn chế một số quyền hạn của thành viên hợp danh: Cũng theo pháp
luật doanh nghiệp, thành viên hợp danh sẽ không được làm chủ doanh nghiệp
tư danh hay làm thành viên hợp danh của công ty khác, trừ các trường pháp
luật cho phép, hay nói cách khác, các CCV khi đã là thành viên hợp danh của
một VPCC họ sẽ không thể là thành viên hợp danh của bất kỳ VPCC nào
khác, quy định nằm nhằm đề cao tính trách nhiệm của một CCV với VPCC
mà họ đang làm việc, tránh trường hợp các CCV lợi dụng để thu lợi bất chính,
làm ảnh hưởng đến hoạt động công chứng nói chung. [9]
- Về tư cách pháp lý: VPCC là công ty hợp danh, một loại hình doanh
nghiệp có tư cách pháp nhân thể hiện ở việc ranh giới giữa tài sản của văn
11
phòng và các thành viên hợp danh, đồng thời cũng độc lập trong việc tham
gia vào các giao dịch dân sự khác của văn phòng. Nói cách khác, các CCV và
các thành viên hợp danh còn lại sẽ phải tiến hành góp vốn vào công ty, một
hình thức chuyển quyền sở hữu tài sản từ cá nhân sang cho doanh nghiệp, và
VPCC sẽ hoạt động dựa trên khối tài sản đó.
Các công việc mà các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện đều là
các công việc có tính chất pháp lý cao bao gồm công chứng các loại giao dịch
dân sự tại địa phương mà tổ chức đặt trụ sở chính vì vậy là một công việc có
tính trách nhiệm rất cao và họ bắt buộc phải thực hiện theo yêu cầu của
nguyện vọng của các chủ thể hoặc các trường hợp mà pháp luật quy định là
bắt buộc, tuy vậy, bản thân các đơn vị cũng được phép từ chối tiến hành các
hoạt động công chứng trong một số trường hợp liên quan đến việc thực hiện
quyền đối với bất động sản. [10]
Ngoài công chứng tính xác thực và hợp pháp của các giao dịch dân sự,
các tổ chức hành nghề công chứng còn tiến hành công chứng các bản dịch từ
tiếng Việt sang ngôn ngữ khác và ngược lại, việc này cũng có mục đích là
đảm bảo cho các giao dịch dân sự hay các hoạt động hành chính công sử dụng
các văn bản có tiếng nước ngoài có thể được thực hiện một cách hợp pháp sau
khi đã được các đơn vị hành nghề công chứng xem xét và xác nhận tính có
thực và đúng quy định pháp luật. [11]
Trong các văn bản xác thực của mình, các CCV phải ghi rõ thời gian,
địa điểm, tư cách chủ thể và nội dung thoả thuận giữa các chủ thể tham gia
vào quan hệ xã hội cần công chứng, việc này được tiến hành theo một trình tự
thống nhất ở tất cả các PCC, VPCC được pháp luật về công chứng quy định
chi tiết từng bước nhỏ và từng công việc cần phải làm. Việc quy định như vậy
nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các văn bản công chứng, nhất là khi nó
được sử dụng làm các tài liệu, chứng cứ trong các tranh chấp dân sự có liên
quan.
Bên cạnh các công việc công chứng, để tạo điều kiện tăng thêm doanh
thu cho các PCC, VPCC cũng như tiện lợi cho người dân có thể đến 1 địa
điểm nhất định, pháp luật còn cho phép các CCCV được tiến hành hoạt động
chứng thực các bản sao như CMND/CCCD/Hộ chiếu, các bản dịch từ tiếng
12
nước ngoài cần hợp thức hoá lãnh sự, các bản sao từ bản gốc, chữ ký,… theo
quy định của pháp luật về chứng thực được đề cập đến trong các văn bản như:
+ Luật công chứng năm 2014[12];
+ Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 2 năm 2015 của Chính
phủ về cấp bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng,
giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2015) [13];
+ Thông tư số 20/2015/TT-BTP ngày 29 tháng 12 năm 2015 của Bộ
trưởng Bộ Tư Pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ về
cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
chứng thực hợp đồng, giao dịch (có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 02 năm
2016) [14];
+ Thông tư liên tịch số 115/2015/TTLT-BTC-BTP ngày 11 tháng 8
năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính và Bộ trưởng Bộ Tư Pháp sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư Liên tịch số 08/2012/TTLT-BTC-BTP ngày
19 tháng 01 năm 2012 hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí công chứng (có hiệu lực kể từ ngày 29 tháng 9 năm 2015) [15].
+ Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 30/03/2020 về những quy định
chi tiết và hướng dẫn một số Điều của Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 [16].
13
- Xem thêm -