H ÌN H TH Ứ C
CỦA CÁC NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI
Khoa luật trực thuộc ĐHQGHN
giữ bản quyền
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PGS TS. NGUYỄN ĐẢNG DUNG
HÌNH THÚC
CỦA CÁC NHÀ NUâC
BUDNGBẠI
■
^
NHÌXUẤIBẢNTHẾGIỨI
HA N Ộ I - 2004
Chuyên khảo này được xuất bản ứieo Nghị quyết sô'
15/NCKH ngày 28 tháng 7 năm 2004 của Hội đồng Khoa
học và Đào tạo - Khoa Luật ưực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Người Nhận xét:
PGS. TS. HOÀNG THỊ KIM QUẾ
PGS. TS. PHAM HỒNG THÁI
MỤC LỤC
• LÒI NÓI ĐÂU ......................................................................................................... 5
CHƯƠNG ĩ
• Những vấn đề chung về hình thức nhà nước .......................................... 7
1. 'í'àm quan irọng của vấn đề hình thức nhà nước
và khái niệm của n ó .........................................................................................12
2. Phân loại hình thức nhà n ư ớ c ...........................................................................
CHƯONG II
• ỉ lì nh thức cấu trúc lảnh t h ổ ........................................................................ 25
1. jlln h Ihức nhà nước với cấu trúc lành thổ đơn nhất
(Hình thức nhà nước đơn nhất) ....................................................................25
2. H ình thức nhà nước với cấu trúc lãnh thổ liên bang
(I lình thức nhà nước liên b a n g ) ....................................................................43
3. Liiên minh các nhà nước độc lập ................................................................. 49
CHDƠNCr III
• Ilìỉnh thức chính thể của nhà nước tư bản ......................................51
1. K .hái n i ệ m ...............................................................................................................................51
2. H ình thức chính thể quân chủ ...................................................................... 59
3. í rinh thức chính thể cộng hoà .....................................................'...............79
4. Chính thể cộng hoà lưỡng lính .................................................................... 110
C H IJ (J N 0 ĨV
• SiỊĩ biến dạng của các chính thể ........................................................... 121
1. Sụr biến dạng chính Ihể đại nghị kể cả quân chủ lản cộng h ò a .........126
2. Siự biến dạng của chính thể cộng hòa Tổng th ố n g ..................................153
3. Sự biến dạng của chính thể lưỡng tính cộng h o à ............................... .167
4. Quy luật chung của các loại hình chính thể khác nhau
là phải có một hành pháp là trung tâm của bộ máy nhà nước............... 171
CHƯƠNG V
• Nhà nước pháp quyền - từ một học thuyết dần trở thành
một hình thức nhà n ư ớ c ......................................................................... .219
1. Khái n iệ m ..................................................................................................... 219
2. Những đặc điểm của nhà nước pháp q u y ề n ..................................... .. .228
CHƯƠNG VI
• Hình thức chính thể của các nhà nước xã hộichủ nghĩa.............. 253
1. Công xã Paris năm 1871 ...........................................................................253
2. Cộng hoà Xô v i ế t ....................................................................................... .256
3. Cộng hoà Dân chủ nhân dân ................................................................... .258
CHƯƠNG VII
• H'ưih thức nhà nước Việt N a m ................................................................261
1. Nhà nước cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam
là nhà nước đơn n h ấ l ................................................................................. 266
2. Nhà nước Viột Nam hiện đại từ một nhà nước
Cộng hoà Dân chủ nhân dân dần lên Cộng hoà xã hội chủ nghĩa . . .296
3. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa .. . .432
• KẾT L U Ậ N ................................................................................................... 489
• TÀI LIÊU THAM KHẢO .........................................................................491
LỜI NÓI ĐẦU
Hình thức nhà nước là một trong những vấn đề rất quan trọng
trong chương trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động bộ máy
nhà nước. Đây không phải là vấn đề mới, bởi nó đã được nhiều
nhà nghiên cứu của các khoa học xã hội khác nhau đề cập.
Nhitng nghiên cứu một cách sâu sắc dưới góc độ của khoa học
Hiến pháp và chính trị học thì rất ít.
Sau nhiều năm làm công tác thực tế và giảng dạy, tôi có tập
trung sức lực của mình vào vấn đề này, mà trọng tâm của nó vào
các đặc điểm của các loại hình thức tổ chức quyền lực nhà nước,
chủ yếu là chúứi thể cùng nhũng cách thức thực hiện của chúng
trên thực tế.
Thiển nghĩ rằng, về vấn đề này tôi có một số đóng góp nhỏ.
Xin dược viết ra và muốn cống hiến cho các độc giả.
Chuyên khảo này có thể dành cho những học viên cao học và
nghiên cứu sinh các chuyên ngành Lý luận chung VQ nhà nước,
Luật Hiến pháp và Chính trị học.
Mong được sự đóng góp của các bạn đọc giả.
Những tháng của năm 2004
NGUYỄN ĐẢNG DUNG
CHƯƠNG I
HÌNH THỨC NHÀ Nước
1.
Tầm quan trọng của vấn đề hình thức nhà nước và khái
niệm của nó
Chúng ta thừa nhận những chán lý tự nhiên rằng tất cả
mọi người đều sinh ra bình dẳng, râng tạo hoá trao cho họ
những quyền không thể tước (loạt, dó lả quyền sống, quyền tự
dơ và mini cẩu hạnh phúc. Đ ể đảm bảo những quyền này,
nẹười ta đ ã tạo nên một chính phủ với những quyền hạn được
trao bởi chính nhữn^ người nó cai Irị.
_ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ _
Những chữ trên trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ
không những chỉ có nghĩa đối với người dân của nước này, mà nó
đã nhanh chóng vượt ra khỏi Mỹ quốc trở thành chân lý chung
của cả nhân loại. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân
Việt Nam thòi hiện đại đã phải mượn câu nói trên làm cơ sở cho
bản Tuyên ngôn Độc lập của Nhà nước Việt Nam, ngày 2 tháng
9 nãm 1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Con ngưòfi chúng
ta tồn tại không phải để phục vụ chính phủ như trong các xã hội
chuyên chế và độc tài đã từng tuyên bố, mà chúứi các chửih phủ
tồn tại để bảo vệ người dân, các quyền của họ và có tác dụng làm
cho xã hội phát triển thông qua sự phát triển của mọi người.
Nhà nước, tức chứih phủ là rất cần cho cuộc sống của mọi
người. Đúng như vị chủ tịch của Ngân hàng thế giới G.
W ulfenson trong Lời nói đầu của bản báo cáo của cơ quan này
với nhan đề “Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi” đã viết:
lịch sử đã nhiều lần chứng minh, một chính phủ tốt không
phải là một món xa xỉ phẩm, mà là một điều cần thiết Sống còn.
Không có một nhà nước hữu hiệu thì sẽ không thể có một sự phát
triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn về mặt xã hội”.^
Nhưng tạo ra một chúứi phủ như thế nào và nó có hình thức ra
sao luôn luôn là câu hỏi lớn của nhân loại. “Tạo ra một chúứi phủ
không đòi hỏi nhiều sự cẩn trọng. Phân chia quyền lực; dạy cách
tuân phục; và công việc thế là xong. Q io quyền tự do còn dễ dàng
hơn nữa. Không cần hướng dẫn; nó chỉ đòi hỏi xoá bỏ sự cai trị.
Nhưng để thành lập một chứứi phủ dân chủ tự do, có nghĩa là
dung hoà tất cả những yếu tố đối ngịch giữa tự do và kiểm toả
trong một thể thống nhất, thì phải đòi hỏi đến một sự suy nghĩ
cẩn thận, nói đòi hỏi một sự suy nghĩ thấu đáo; một trí tuệ minh
mẫn, mạnh mẽ và tổng hợp.”^
Nếu quá vì quyền tự do sẽ dẫn đến tình trạng vô chính phủ,
nhưng ngược lại nếu quá vì kìm hãm sẽ dẫn đến sự độc tài.
Trong triết học, hình thức và nội dung là một cặp phạm trù
phán ánh mối quan hệ qua lại giữa 2 mặt của hiện tượng tự nhiên
và xã hội. Nếu nội dung là toàn bộ những yếu tố và sự tương tác
giữa các yếu tố ấy với nhau và với các sự vật khác và hiện tượng
1. X em , N gân hàng thế giới, N hà nước tro n g m ột th ế giới chuyển đổi, Báo cáo cúa
N gân hàng th ế giới về tình hình phát triển kinh tế - xã hội nàm 1996. NXB Chính trị
Q uốc gia H à N ội, 1997.
2. X em , Edm ưn Butke (1790), vể những khó khăn trong việc xây dựng m ột chính phủ
tự do. Trong cuốn Individual Freedom and the Bill o f R ights by M elvin Urofky.
khác, cấu thành nên sự vật, hiện tượng được nghiên cứu, thì hình
thức la phưcmg thức tồn tại và là biểu hiện của nội dung đó và
những biến thể khác nhau của nó, là tổ chức bên trong của nó.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung là
mặt chủ đạo, năng động quyết định của khách thể, còn hình thức
là mặt tương đối ổn định của khách thể, thay đổi tuỳ theo sự thay
đổi cỉia nội dung. Nhưng hình thức cũng có sự tác động ngược
trở lại nội dung. Khi hình thức thích ứng với nội dung thì thúc
đẩy sự phát triển của nội dung. Ngược lại khi hình thức không
thích ứng với nội dụng thì nó trở thành kìm hãm sự phát triển của
nội dung'.
Mọi sự vật, sự kiện đều có hình thức tồn tại của nó. Nội dung
và hình thức liên quan mật thiết với nhau. Không có nội dung sẽ
không có hình thức. Và ngược lại không có hình thức tồn tại tức
là không có nội dung. Nghiên cứu nhà nước cũng như nghiên cứu
các sự vật, sự việc khác, đòi hỏi chúng ta phải hiểu được nội dung
và hình thức của nó. Nhà nước là một hiện tượng xã hội, nó cũng
giống như những hiện tượng xã hội khác đều phải có hình thức
thể hiện.
Hoạt động và cơ cấu của Nhà nước rất đa dạng nhưng luôn
luôn được quy kết thành một sô' dạng điển hình đó là các hình
thức Nhà nước.
ỉỉình thức nhà nước là thuật ngữ chuyên ngành luật hiến
pháp và của một s ố ngành khoa học xã hội khác, nhâm khái quát
hoá mô hình nhà nước thông qua những dặc điểm thể hiện nội
dung của các yếu tố cấu thành là các bộ phận tạo ra bộ máy nhà
nước và mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau.
1. X em , T ừ điển bách khoa V iệt N am . Trung tâm từ điển bách khoa V iệt N am , Hà
Nôi, 2002.
Hình thức nhà nước là một vấn đề quan trọng của việc tổ chức
và hoạt động nhà nước. Việc cơ cấu tổ chức các cơ quan nhà
nước, quyền, nghĩa vụ của từng cơ quan, mối quan hệ giữa
chúng với nhau, nguồn gốc quyền lực nhà nước đều phụ thuộc
vào vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ nhà nước. Ngược lại,
chính vấn đề chứih thể, cơ cấu lãnh thổ nhà nước lại có tác động
đến cơ cấu, quyền hạn và mối quan hộ giữa các cơ quan nhà
nước với nhau.
Với tầm quan trọng như vậy, cho nên chính thể cũng như cơ
cấu lãnh thổ nhà nước bao giờ cũng được quy định trong văn bản
có hiệu lực pháp lý cao nhất của nhà nước, đó là hiến pháp. Hiến
pháp có thể dành m ột chương riêng nói về chmh thể, cũng như
hình thức cơ cấu lãnh thổ nhà nước. Hoặc có thể trong hiến pháp
không có chương riêng, nhưng qua các quy định của hiến pháp
toát lên cho chúng ta vấn đề chính thể và cơ cấu lãnh thổ của nhà
nước, tức là mô hình nhà nước.
Vì vậy, vấn đề chính thể, và cơ cấu lãnh thổ là vấn đề thuộc
nội dung cơ bản của hiến pháp thực định. Nhiều khi thực tế và
hiến pháp thực định lại rất xa nhau. Lý do việc xa rời đó là sự
khác nhau giữa chứih thể được quy định trong hiến pháp và sự
biến dạng của nó trong đời sống chứih trị của mỗi nước.
Nghiên cứu về hình thức nhà nưóc là một vấn đề rất khó,
không khác nào nghiên cứu về con người, vì ngay từ thời kỳ cổ
đại nhà triết học vĩ đại của thời kỳ này đã từng cho rằng, nhà
nước là một hình ảnh phóng đại của con người. Trong tác phẩm
“Nền Cộng hoà”, Plato đã chia ra 5 loại hình thức nhà nước. Đó
là hình thức quý tộc, danh vọng, tài phiệt, dân chủ và chuyên
chế. Ông cho rằng nhà nước lý tưởng đối với ông là nhà nước
quý tộc do các các triết gia điều khiển. Trong đó yếu tò tối
thượng là lý tính được nhập thể vào con người triết gia - nhà cai
trị và lý trí cúa người dân điều khiển các dục vọng của họ'.
Arisitotle là người đầu tiên phân biệt 3 loại chính quyền: Một
chính quyền có thể do một, một ít, hay nhiều người cai trị.
Nhưiig loại nào cũng có thể tốt hoặc Xấu. Một chính quyền là tốt
khi nó cai trị vì lợi ích chung của toàn dân. Một chính quyền xấu
khi Iió cai trị vì lợi ích hay sớ thích riêng của mình. Theo
Aristotle, các hình thức chính quyền chân chính gồm có chế độ
quân chủ (một), quý tộc (một ít) và tổ chức nhà nước (nhiều).
Các hình thức suy đồi gồm có chế độ chuyên quyền (một), đầu
sỏ (một ít) và dân chủ (nhiều). Lý tưởng của Aristotle là một cá
nhân xuất sắc cai trị thì vẫn hcm, nhưng không mấy khi kiếm
được những người như vậy. Cho nên, bản thân ông vẫn ủng hộ
chế cỉộ qúy tộc người thầy của mình là Plato. Trong chế độ quý
tộc, việc cai trị do một nhóm người có trình độ, tài năng và của
cải khiến họ có trách nhiệm và nãng lực lãnh đạo hơn^. Locke J.
trong lác phẩm Kháo luận thứ hai về clìínli quyền đã vẽ ra một
bức tranh nhà nước khác với luận thuyết Chúa tể trong xã hội
của Hobbes. Chúa tể của Hobbes là tuyệt đối. Locke đồng ý rằng
phải có một “quyền lực tối cao”, nhưng ông thận trọng đặt nó
trong tay cơ quan lập pháp, là đại diện cho ý muốn của đa số dân
chúng. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân chia quyền
lực, chủ yếu để những người thi hành luật và bảo vệ luật không
phải là những người làm luật, vì “họ có thể miễn chước cho bản
thân họ việc tuân thủ những luật họ làm ra, và thích nghi luật, cả
trong việc làm luật và thi hành luật, cho phù hợp với lợi ích riêng
tư cùa họ”. Vì vậy, cơ quan hành pháp ở dưới luật. Cả cơ quan
lập pháp cũng không phải tuyệt đối, mặc dù nó là “tối cao”, vì
!. Xcni, Samuel Enoch Stum pf: Lịch sứ Triẽì học và các iiiận đề. NXB Lao động, Hà
Nội. 2 0 0 4 .tr. 65.
2. Xem. Samuel Enoch Slum pf: Lịch sử Triết học và các luận đề. NXB Lao động, Hà
Nội, 2004. ir. 89- 90.
quyền lập pháp được coi như là m ột sự uỷ thác. Rút cuộc, “vẫn
còn trong tay nhân dân m ột quyền lực tối cao để loại bỏ hay thay
đổi khi thấy cơ quan lập pháp đi ngược lại sự uỷ thác của họ. *
Chủ nghĩa M ác phân tích lịch sử hình thành và phát triển xã
hội loài người thành năm hình thái kinh tế - xã hội, nhưng chỉ có
bốn hình thái có nhà nước: chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong
kiến, chế độ tư bản và chế độ xã hội chủ nghĩa, ứng với mỗi hình
thái này là một kiểu nhà nước. Kiểu nhà nước là tổng tíiể các dấu
hiệu (đặc điểm) cơ bản của nhà nước thể hiện bản chất giai cấp,
vai trò xã hội, và những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển
của nhà nước trong m ột hình ứiái kinh tế xã hội nhất định. Phù
họp với mỗi một kiểu nhà nước là m ột bản chất nhà nước, hay nói
một cách khác, mỗi m ột kiểu nhà có một bản chất nhà nước
riêng. Bản chất nhà nước có thể là m ột, nhưng hình thức thể hiện
bản chất thì lại hết sức đa dạng. Cùng là nhà nước thể hiện bản
chất tư sản, nhưng hình thức tổ chức nhà nước lại rất khác nhau,
phụ thuộc vào từng hoàn cảnh lịch sử xã hội cụ thể, đặc điểm dân
tộc... khác nhau. Xét cho cùng thì kiểu nhà nước cũng là một loại
hình nhà nước mà thôi.
Quy định cơ cấu tổ chức bộ m áy nhà nước, tức là quy định
hình thức nhà nước là một vấn đề quan trọng bậc nhất của mỗi
một hiến văn. Điều này có nghĩa là H iến pháp có đối tượng phải
quy định hình thức tổ chức của Nhà nước của mình.
2. Phân loại hình thức nhà nước
Mô hình tổ chức nhà nước có được phân tích dưới nhiều lăng
kính khác nhau. M ỗi lăng kinh là m ột tiêu chí. Có tiêu chí giúp
ì. X em , Saniue! Enoch Stum pf; L ịch sử Triết h ọ c v à c á c luận để, NX B 1 ^0 động, Hà
N ội, 2004. tr. 222.
chúng ta nhận biết mô hình nhà nước rất sâu sắc ở phương diện
này, nhưng lại mờ nhạt ở một phưcnig diện khác. Vì vậy việc phân
tích mổ xẻ, phân loại nhằm mục đích hiểu biết một cách toàn diện
về một nhà nước cũng như các loại nhà nước khác nhau đòi hỏi
phải sử dụng nhiều lăng kứih khác nhau, nhiều tiêu chí khác nhau.
Hình thức nhà nước tư sản hiện nay thường được phân tích
thành hai dạng: Hlnh thức chính thể, và hình thức cơ cấu lãnh
thổ. Có một số quan điểm còn phân tích hình thức nhà nước dưới
ba giác độ: Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc lãnh thổ và
chế độ chính trị.'
Hình thức chính thể là mô hình tổ chức và hoạt động của nhà
nước được phân tích dưới giác độ tổ chức, hoạt động và mối
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương với nhân dân.
Hay nói một các khái quát, qua hình thức chính thể cho chúng
ta biết nhà nước do ai thống trị và thống trị như thế nào. Quyền
lực nhà nước được tổ chức tập trung hay là phân tán cũng tạo ra
nhiổu dạng, hình thức tổ chức nhà nước. Quyền lực nhà nước
được phân chia ở chiều ngang giữa iập pháp, hành pháp và tư
pháp hoặc theo cách diễn giải hiện nay của các nhà nước xã hội
chủ nghĩa là sự phân công và phối hợp giữa 3 quyền nói trên tạo
ra các nhà nước tư bản và xã hội chủ nghĩa.
H ình thức nhà nước cấu trúc lãnlj thổ là mô hình nhà nước
được xem xét dưới giác độ cấu trúc lãnh thổ hợp thành quốc
gia, m ối quan hệ giữa nhà nước toàn thể với các đơn vị lãnh thổ
cấu thành. Q uyền lực nhà nước được phàn tích theo chiều dọc
từ trung ương xuống đến các cơ sở địa phương. Và quyền lực
đó theo lý thuyết của các học giả tư sản phải phân chia giữa
1. X em , G iáo trình Lý luận n hà nước và pháp luật, Chú biên N. M atuzov và A. M alko.
M alskva, 2001, tr 79.
trung ương và địa phương; của các lý thuyết gia xã hội chủ
nghĩa là một sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa trung
ương với địa phưofng.
C hế độ chúih trị là hình thức nhà nước được xem xét dưới giác
độ các biện pháp thực thi quyền lực nhà nước. Trong nhiều trường
hợp nhất định thì chúih thể và chế độ chúứi trị được dùng cùng
m ột nội hàm, nghĩa là giữa chúng không có sự phân biệt. Kể từ
khi nhà nước được thành lập đến nay, giai cấp thống trị đã dùng
nhiều thủ đoạn khác nhau để thực hiện quyền lực nhà nước. Có
hai biện pháp chính được dùng để thực hiện quyền lực nhà nước.
Đó là: Phương pháp dân chủ và phương pháp độc tài, chuyên chế.
Phưcmg pháp độc tài, chuyên chế còn được gọi là những phưcmg
pháp phản dân chủ, được dùng cho các ch ế độ nhà nước của phát
xít, của địa chủ phong kiến, chiếm hữu nô lệ. Nhân dân không
được tham gia m ột cách trực tiếp hay gián tiếp vào việc giải quyết
các công việc của nhà nước. Hình thức nhà nước của chế độ này
được cấu tạo một cách giản đơn. Mọi cơ quan nhà nước hoạt
động và tổ chức của các cơ quan nhất nhất phải tuân theo chỉ thị
của các cơ quan nhà nước cấp trên.
Nhà xã hội học người M ỹ John J. M acionis trong tác phẩm xã
hội học của mình phân biệt sự khác nhau giữa chế độ độc tài và
chế độ chuyên chế. Theo ông: Chế độ độc tài là ch ế độ loại trừ đa
số ra khỏi sự tham gia chứứi trị, nhưng chúứi phủ lại ít can thiệp
đến đời sống của người dân. Ngược lại đôi chút, chế độ chuyên
chế, cũng là chế độ loại trừ đa số dân chúng ra khỏi sự tham gia
chính trị, nhưng chúih phủ của chế độ này lại can thiệp quá đáng
vào đời sống của con người^ ô n g còn cho rằng không có một xã
hội nào có thể có tất cả mọi người dân đều có thể tham gia vào
1. X em , Jo h n J. M acionis: X ã hội học. NX B T hống kê. H à N ội, 2004, tr. 568.
16
mọi công việc của nhà nước, tất cả mọi chính phủ đều chứa đựng
tính độc đoán ở mức độ nhất định. “Chúng ta lưu ý rằng việc ra
quyếl định chính trị ở Mỹ do hàng triệu viên chức chính phủ
quyết định, họ không chịu trách nhiệm giải thích trực tiếp với
nhân dàn và những lãnh tụ được bầu hàng đầu thường là những
người có sổ của cải kếch sù, nhưng do hầu như mọi người Mỹ
trên 18 tuổi đều có quyền bầu cử nên hệ thống chính trị của Mỹ
thực ra không mang tính độc đoán quá mức.” *
Phương pháp dân chủ là phương pháp tổ chức và hoạt động
nhà nước phải tuân theo luật định, mọi người dân bình đẳng đều
có quyền tham gia vào các công việc nhà nước. Nhân dân được
quyền tham gia vào các công việc nhà nước.
Mô hình tổ chức nhà nước còn phụ thuộc vào sự quan niệm
chính thống của nhà nước về vị trí vai trò của nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường; M ô hình thị trường tự do không có sự can
thiộp hoặc can thiệp vừa phải rất ít của nhà nước, và những nhà
nước này tránh sử dụng chính sách công để ủng hộ những ngành
kinh tế cụ thể (Mỹ, Anh, Canada); mô hừih thị trưòìig xã hội Nhà nước điều tiết, duy trì sự độc quyền nhà nước trong nhiều
ngành sản xuất và dịch vụ công cộng (Đức, Thuỵ Điển, Nauy,
Phần Lan....); và mô hình nhà nước Ỷì sự phát triển - Nhà nước
can thiệp mạnh mẽ vào nền kinh tế, thực thi những chính sách
ủng hộ và dẫn dắt sự phát triển kinh tế (Nhật Bản, Pháp, Italia).
Nếu trong hầu hết các nền kinh tế khác nhau trên thế giới đều
phải chuyển đổi từ m ột mô hình Ihể chế kinh tế nào đó đến m ột
nền kinh tế dựa trên thị trưòfng tự do, thì quá trình chuyển đổi
nền kinh tế của nhà nước Mỹ lại di theo hưóíng ngược lại. Trong
giai đoạn từ khi lập quốc tới thập kỷ 1930, thể chế kinh tế của
1. X em , John J. M acionis: X ã hội học. NXB Thống kê, Hà N ội, 2004, tr. 569.
M ỹ đã gần như ià m ột thể chế kinh tế thị trường tự do với sự can
thiệp rất ít và không nhiều của Nhà nước. Cũng trái ngược với
khá nhiều nước, phái Bảo thủ ở Mỹ, mà đại diện là Đảng Cộng
hoà lại là những người chủ trương bảo toàn và phát triển Ihể chế
thị trường tự do, trong khi phái cấp tiến, m à đại diện là Đảng
D ân chủ lại là những người chủ trương tăng cường sự điều tiết
và can thiệp của nhà nước^ Chính sách kinh tế của chính quyền
M ỹ từ thời lập quốc cho đến năm 2001 có thể chia ra làm 2 thời
kỳ: Thời kỳ chủ động và thời kỳ bị động. Thời kỳ bị động kéo
dài từ năm 1776 cho đến 1935. Chính quyền M ỹ hầu như không
có chính sách can thiệp kinh tế. Cho nên cơ cấu và hình thức tổ
chức nhà nước của M ỹ hết sức đơn giản. N hà nước được xác
định là cơ quan dân cử có trách nhiệm thu thuế để trang trải
những chí phí m à từng cá nhân không thể làm được như quốc
phòng, ngoại giao, cảnh sát và quan toà bảo vệ luật pháp cũng
như các công trình công cộng. Những gì mà cá nhân làm được
thì luôn luôn làm tốt. Cũng vào thời kỳ này, M ỹ phát triển kinh
tế nhanh hcfn bất kỳ nhà nước nào trên th ế giới. Vào khoíing
năm 1929 đến năm 1933, nước M ỹ cũng như nhiều nước khác
bước vào m ột thời kỳ đại suy thoái. Buộc họ phải thay đổi quan
điểm . N hiều người đã cho rằng thể chế kinh tế tự do hoàn toàn
thất bại. Chính phủ cần phải ngăn chặn sự cạnh tranh tự do của
thị trưcmg. K hởi đầu bằng chương trình New Deal (Chương
trình kinh tế - xã hội - chính trị mới). Nhà nước Mỹ càng ngày
càng can thiệp sâu vào thị trường, nên bộ m áy nhà nước càng
được tổ chức theo các ngành và lĩnh vực kinh tế cần phải can
thiệp. Đ ây là thời kỳ mà nền kinh tế Mỹ không còn chỉ đi bởi
m ột chân thị trường, m à còn dựa cả vào m ột chân thứ hai là vai
trò điều tiết của nhà nước. Từ những năm 1980 cho đến nay, có
1. V iện ng h iên cứ u q u ả n lý kinh tế trung ưcmg: Thể ch ế - cải cách thể chế và phát triển /
Lý luận và thực tiẻn ở nước ngoài và V iệt N am , N X B T hống kê, H à N ội, 2002, tr. 50.
một xu hướng mới chỉ trích sự tập quvền trung ương cũng như
các chinh sách kinh tế công và vai trò ngày càng m ở rộng của
nhà nước trong nền kinh tế Mỹ. Xu hướng này dựa trên nền
móng ùhính là lý thuyết kinh tế tân tự do, với bốn trụ cột chính
sách quan trọng là: Giải điều tiết, Tư nhân hoá, Tự do hoá và
Toàn cầu hoá.^
Troig một chừng mực nhất định nào đó, thì hình thức nhà
nước còn có thể được phân tích dưới dạng bản chất gắn với các
kiểu cứa nhà nước. Xét dưới giác độ này thì mô hình tổ chức và
hoạt động của nhà nước được xem xét phụ thuộc vào ý chí của
giai cáp thống trị. Rõ ràng rằng một nhà nước của giai cấp công
nhân, vô sản về nguyên tắc phải có hình thức tổ chức và hoạt
động khác vói của tư sản và phải càng khác xa với nhà nước độc
tài chuyên chế. Nhưng giữa chúng phải có sự k ế thừa, những cái
gì ]à tốt cho nhân dân trong chế độ tư sản cũng có thể là tốt cho
cả nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì nhà nước thuở mới
ra đời đều sản phẩm tốt của nhân loại cần phải có.
Trcng lịch sử phát triển của việc tổ chức quyền lực Nhà nước
có hai hình thức cơ bản xác định chính thể của N hà nước dựa
trên cích thức thành lập nên chức vị nguyên thủ quốc gia người đứng đầu Nhà nước. Đó là chính thể cộng hoà và chính
thể quàn chủ.
Ch.nh thể cộng hoà là mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước
phổ bỉến của xã hội tư bản chủ nghĩa. Xã hội m à ở đó nguyên
thủ qtốc gia do bầu cử mà ra - nhân dân ít nhiều có quyền lợi,
và đươc tham gia vào công cuộc quản lý Nhà nước (công việc
chính trị).
1. Viện Ighiốn cứu quản lý kinh tế trung ương: The ch ế -cái cách thể c h ế và phái trién /
Lý luẠn và thực tiễn ở nước ngoài và Việt Nam. NXB Thống kê, H à N ội, 2002, tr. 5 1*52.
Thuật ngữ “cộng hoà” có gốc là “Respublica est res populi”
có nghĩa N hà nước là công việc của nhân dân. Mô hình tổ chức
Nhà nước này cũng có từ thời cổ đại La M ã - Hy Lạp. Nhưng
sang đến chế độ chm h trị phong kiến nó bị loại dần, mãi đến chế
độ chính trị tư bản mới được trở thành mô hình phổ biến. Chế độ
chính trị cộng hoà còn được gọi là chế độ chính trị dân chủ. Dân
chủ cũng là thuật ngữ có nguồn gốc từ cổ Hy Lạp, “Democrat”
có nghĩa là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Cộng hoà trong Từ điển Bách khoa V iệt Nam cũng được giải
nghĩa là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó các cơ quan quyền
lực cao nhất do bầu cử m à ra, hoặc được cơ quan đại diện toàn
quốc (nghị viện, quốc hội) bổ nhiệm trong một thời gian nhất
định (nhiệm kỳ). Chính thể cộng hoà xuất hiện từ thời cổ đại của
Châu  u như là m ột hình thức tổ chức nhà nước đối lập với chính
thể quân chủ. Vì vậy đó là hình tíiức tổ chức nhà nước tiến bộ hơn
so với chính thể quân chủ, nhưng ý nghĩa tiến bộ thực sự của nó
còn phụ thuộc vào chế độ kinh tế - xã hội và tương quan trong sự
so sánh các giai cấp. Chẳng hạn trong lịch sử đã tồn tại các loại
hình chính thể cộng hoà nô lệ, cộng hoà phong kiến, nhưng thực
chất cũng vẫn là của chế độ chuyên chế nô lệ và chuyên chế
phong kiến.'
Chính thể quân chủ là mô hình tổ chức Nhà nước tiêu biểu
của xã hội chiếm hữu nô lộ và phong kiến. N hà vua, người
đứng đầu N hà nước không do bầu cử m à do thế tập, truyền
ngôi. Các thần dần, những thành viên sống trong lãnh thổ quốc
gia đó, là những người không có quyền tham gia vào các công
việc N hà nước.
ỉ. X em , T ừ điển Bách khoa V iệt N am , T .l T rung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt
N am , H à Nội, 1995.
- Xem thêm -