ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------------------------
Trần Thị Mai Vân
HIỆP ĐỊNH VỀ CÁC KHÍA CẠNH LIÊN QUAN
ĐẾN THƢƠNG MẠI CỦA QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ (TRIPs) VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT
RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 60 31 07
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. KHU THỊ TUYẾT MAI
Hà Nội - 2009
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.........................................................................................i
DANH MỤC CÁC BẢNG...........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ....................................................................................................iv
DANH MỤC CÁC HỘP................................................................................................................v
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TRIPs VÀ SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA HỆ THỐNG SỞ HỮU TRÍ TUỆ LIÊN
QUAN ĐẾN THƢƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI......................8
1.1 Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ và Hiệp định TRIPs.....................8
1.1.1 Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ.........................................................8
1.1.2 Khái quát Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại
của quyền sở hữu trí tuệ TRIPs 19
1.2 Sự cần thiết của việc thiết lập một hệ thống sở hữu trí tuệ thống nhất .. 23
1.2.1 Sự cần thiết của việc thiết lập một hệ thống sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại thống nhất trên thế giới
23
1.2.2 Hệ thống sở hữu trí tuệ về thương mại ở các nước phát triển...........25
1.2.3 Khả năng phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ về thương mại ở
các nước đang phát triển 27
1.3 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thực thi Hiệp định TRIPs và
một số bài học cho Việt Nam.............................................................................................29
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong thực thi Hiệp định TRIPs.......29
1.3.2 Một số bài học rút ra cho Việt Nam..................................................................35
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ TRONG THỰC THI
HIỆP ĐỊNH TRIPs Ở VIỆT NAM 37
2.1 Hệ thống sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại ở Việt Nam...................37
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ liên quan
đến thương mại ở Việt Nam
37
2.1.2 Cam kết của Việt Nam về thực hiện Hiệp định TRIPs..........................38
-
3
2.1.3 Lợi ích của Việt Nam trong thực thi Hiệp định TRIPs..........................40
2.2 Một số vấn đề đặt ra trong thực thi Hiệp định TRIPs ở Việt Nam
hiện nay...........................................................................................................................................42
2.2.1 IPR hiện đại, Hiệp định TRIPs và nền kinh tế mới..................................42
2.2.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, R&D và Hiệp định TRIPs 46
2.2.3 Sáp nhập và mua lại (M&A) dựa trên Hiệp định TRIPs51
2.2.4 Vấn đề thương hiệu và hàng giả - hàng nhái...............................................56
2.2.5 Bản quyền trong thời đại kỹ thuật số................................................................62
2.2.6 Thương mại điện tử và bảo vệ nhãn hiệu thương mại trên
Internet...............................................................................................................................68
2.2.7 Thị trường bằng độc quyền sáng chế trên mạng.........................................75
2.2.8 Thông tin được sở hữu bởi công chúng...........................................................76
2.3 Thuận lợi và thách thức của Việt Nam trong thực thi Hiệp định TRIPs.78
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH THỰC
THI HIỆP ĐỊNH TRIPs Ở VIỆT NAM............................................85
3.1 Triển vọng phát triển và khuynh hướng vận động của hệ thống sở hữu
trí tuệ liên quan đến thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới..............85
3.2 Một số đề xuất góp phần thúc đẩy nhanh quá trình thực thi Hiệp
định TRIPs ở Việt Nam.......................................................................................................88
3.2.1 Nâng cao năng lực sáng tạo quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập .. .88
3.2.2 Nâng cao kiến thức về sở hữu trí tuệ và Hiệp định TRIPs của
doanh nghiệp...................................................................................................................90
3.2.3 Quản lý thực thi Hiệp định TRIPs và nâng cao năng lực của các
cơ quan thi hành bảo hộ sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPs.........93
3.2.4 Vấn đề thương hiệu và hàng giả hàng nhái....................................................96
3.2.5 Vấn đề bản quyền..........................................................................................................99
3.2.6 Luật pháp về sở hữu trí tuệ phù hợp Hiệp định TRIPs..........................101
KẾT LUẬN............................................................................................................................................104
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................105
PHỤ LỤC
-
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
5
i -
18
19
20
21
22
23
24
6
ii -
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
1
2
3
4
5
7
iii -
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
8
iv -
1
Biểu đồ 2.1
2
Biểu đồ 2.2
DANH MỤC CÁC HỘP
v9-
1
Hộp 2.1
2
Hộp 2.2
3
Hộp 2.3
LỜI MỞ ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, sở hữu trí tuệ là
vấn đề ngày càng được đề cập đến nhiều và nhận được sự quan tâm của toàn xã
hội. Sở hữu trí tuệ đóng một vai trò quan trọng không thể phủ nhận trong nỗ lực
phát triển kinh tế của một quốc gia.
Nhìn chung, mọi nghiên cứu và sáng tạo của con người đều hướng vào việc
phục vụ đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Chúng luôn thể hiện tính mới
mẻ và khác biệt, hàm chứa một lượng thông tin có giá trị kinh tế trong trường hợp
hàng hóa được lưu thông trên thị trường. Khi đạt tới một trình độ trao đổi nhất
định, giá trị tiềm ẩn này sẽ bộc lộ, và vì thế, hình thành giá trị sở hữu trí tuệ. Nếu
sở hữu trí tuệ được pháp luật thừa nhận thì sẽ hình thành quyền sở hữu trí tuệ. Tập
hợp các quyền sở hữu trí tuệ và các chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tạo
thành một hệ thống sở hữu trí tuệ. Một hệ thống sở hữu trí tuệ có hiệu quả và
mạnh sẽ tạo ra và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội và văn hóa quốc gia. Nó có
thể kích thích đầu tư, R&D và các hoạt động liên quan trong sáng tạo và phổ biến
sản phẩm, dịch vụ mới và quan trọng nhất là có sự tăng trưởng rất nhanh tri thức
mới được tạo ra mà đến lượt nó tạo ra thêm động lực cho xã hội. Kết quả thu được
là một chu trình chia sẻ và khai thác tri thức mới một cách hữu ích nhất.
Thực tế của thương mại quốc tế đòi hỏi phải hình thành và phát triển một tư
duy mới đối với sở hữu trí tuệ trên góc độ thương mại. Hiệp định về các khía cạnh
liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs - Traderelated aspects of Intellectual Property Rights) ra đời thừa nhận tầm quan trọng
của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với hoạt động thương mại, đầu tư và các thiệt
hại đối với các quyền lợi thương mại hợp pháp khi quyền sở hữu trí tuệ không
được bảo hộ một cách thỏa đáng, hiệu quả. Từ khi ra đời và chính thức có hiệu
lực, Hiệp định TRIPs đã mang lại những thay đổi căn bản trong lĩnh vực sở hữu trí
tuệ, khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực và quy định về sở hữu trí tuệ, tiến
tới loại bỏ các quy định về hành chính, thủ tục, và kỹ thuật bất lợi cho hoạt động
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ quốc tế.
-1-
Từ trước khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO (World Trade Organization), nước ta đã tích cực chuẩn bị nhiều biện
pháp thúc đẩy các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là cam kết thực
hiện Hiệp định TRIPs.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh
vực thương mại không chỉ xuất phát từ nhu cầu tự thân của nền kinh tế trong quá
trình phát triển nhằm khuyến khích các hoạt động nghiên cứu sáng tạo và ứng
dụng khoa học, công nghệ trong nước mà còn là một yêu cầu bắt buộc của quá
trình hội nhập. Thực hiện quyền và nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ trong thương mại là
một trong những cam kết quan trọng của Việt Nam khi gia nhập WTO. Các chính
sách về lĩnh vực này cần được sửa đổi theo hướng phù hợp và nâng cao tính khả
thi trong thực hiện; cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sáng
tạo và bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu sáng tạo cần được nâng cao. Nhờ được bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm của mình, các nhà sáng tạo mới đầu tư
phát minh ra nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích, nhiều kiểu dáng mới thúc đẩy
nhanh quá trình tăng trưởng, nâng cao đời sống xã hội. Sở hữu trí tuệ đã, đang và
sẽ luôn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong tiến trình phát triển và hội
nhập nền kinh tế thế giới của nước ta. Vì thế, nghiên cứu về sở hữu trí tuệ, Hiệp
định TRIPs và các vấn đề kinh tế đặt ra cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập
luôn rất cần thiết và có tính thực tiễn cao.
2/ Tình hình nghiên cứu đề tài
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới hiện đại, sở hữu trí tuệ liên
quan đến thương mại đã và đang trở thành lĩnh vực được nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Ở nước ngoài, có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
“Nhập môn sở hữu trí tuệ” của Giáo sư Thomas G.Field Jr thuộc
Trung
tâm Franklin Pierce - New Hamshire, Hoa Kỳ (2005).
Cuốn sách đưa ra những khái niệm cơ bản về sở hữu trí tuệ và một số vấn
đề nổi bật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói chung và trong việc thực thi Hiệp định
TRIPs nói riêng trên thế giới. Đây là một nghiên cứu có giá trị, cung cấp những
kiến thức và thông tin cơ bản nhất về sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại.
-2-
-
“Giới thiệu khái quát các điều ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ” của
Paul E.Salmon, phụ trách các vấn đề chuyên về bằng sách chế của Phòng hợp tác
quốc tế, Cục nhãn hiệu và bằng sách chế Hoa Kỳ (Ấn phẩm của chương trình
thông tin quốc tế - Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 1/2006).
Nghiên cứu tập trung giới thiệu về Hiệp định TRIPs và một số Hiệp định
khác của WIPO bổ sung cho Hiệp định TRIPs như Hiệp ước về Luật nhãn hiệu
1994; Hiệp ước về Luật chứng nhận phát minh, sáng chế 2000; hệ thống Hiệp ước
hợp tác về bằng phát minh sáng chế 1970; Nghị định thư Madrid về hệ thống đăng
ký các nhãn hiệu quốc tế 1989; và một số Hiệp định khác.
Tuy nghiên cứu này giúp các nhà kinh tế có cái nhìn tổng quát hơn về sở
hữu trí tuệ và Hiệp định TRIPs, nhưng chưa gắn kết tầm quan trọng của Hiệp định
TRIPs trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế hiện đại.
“Sở hữu trí tuệ - một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế” –
Kamil Idris
– Tổng giám đốc Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO (Tổ chức sở hữu trí tuệ thế
giới, tháng 5/2005).
Công trình nghiên cứu này bằng cách sử dụng những vụ việc và sự kiện, số
liệu cụ thể đã làm sáng tỏ các vấn đề về sở hữu trí tuệ trên khía cạnh “tại sao” và
“như thế nào”, không giống như nhiều cuốn sách chỉ tập trung vào giải thích cho
các câu hỏi “cái gì”. Đây không phải là một cuốn sách về lý thuyết pháp luật mà là
một cuốn sách hướng dẫn thực hành về sở hữu trí tuệ với vai trò một công cụ đắc
lực để phát triển kinh tế và tạo ra sự thịnh vượng, nhằm phục vụ các đối tượng
quan tâm không chỉ là chuyên gia (các nhà hoạch định chính sách) mà hướng tới
một cộng đồng đông đảo và bình thường hơn (doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và
người tiêu dùng).
-
“Tại sao bảo về quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại lại quan trọng”-
E.Anthony Wayne – Trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ phụ trách các vấn đề về kinh tế
và kinh doanh (Chuyên đề về quyền sở hữu trí tuệ, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tháng
1/2006)
Trong nghiên cứu này, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ
đối với tiến trình phát triển kinh tế của một quốc gia thông qua thực trạng nền
-3-
kinh tế ở Hoa Kỳ, Pháp và một số quốc gia khác trong các lĩnh vực giáo dục, thực
phẩm, dược phẩm, điện ảnh,... Tuy nhiên, tác giả mới chỉ tập trung vào các nước
phát triển, nghĩa là nghiên cứu các hiện tượng kinh tế liên quan đến sở hữu trí tuệ
ở các quốc gia phát triển, trong khi trên thực tế, sở hữu trí tuệ đóng một vai trò
không nhỏ đối với các nước đang phát triển. Vì thế, nghiên cứu chưa có cái nhìn
tổng thể và khái quát về vấn đề sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại trên toàn
thế giới.
Ngoài các nghiên cứu trên, còn có một số nghiên cứu về sở hữu trí tuệ
trong lĩnh vực thương mại của các tác giả khác. Phần lớn những nghiên cứu này đi
sâu phân tích các vấn đề kinh tế cụ thể liên quan đến sở hữu trí tuệ như “Tầm quan
trọng của những thông tin được sở hữu bởi công chúng” của Anita R. Eisenstadt Văn phòng các vấn đề kinh tế và kinh doanh của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ; “Thách
thức về vấn đề bản quyền trong thời đại kỹ thuật số” của Marybeth Peters - Cục
bản quyền Hoa Kỳ, Thư viện Quốc hội Mỹ; “Bảo vệ nhãn hiệu thương mại trên
Internet” của Angelo Mazza - Chủ tịch Quỹ liên minh chống hàng giả quốc tế
IACC;...
Về phía các công trình trong nước, có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
-
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2006 “So sánh hệ thống pháp luật về sở hữu
trí tuệ của Việt Nam theo Hiệp định TRIPs – WTO” của ThS Trần Hồng Minh,
Trung tâm thông tin tư liệu - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương.
Đề tài tập trung đánh giá mức độ phù hợp của hệ thống pháp luật về sở hữu
trí tuệ hiện hành của Việt Nam, đối chiếu với các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPs,
từ đó nêu ra một số bất cập trong quá trình xây dựng và thực hiện hệ thống pháp
luật về quyền sở hữu trí tuệ và đề xuất một số định hướng, giải pháp hoàn thiện
trong thời gian tới.
-
“Pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam: Đổi mới và hoàn thiện nhằm phù
hợp với các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPs-WTO” - Nguyễn Hữu Cẩn - Cục sở
hữu trí tuệ Việt Nam (2005).
Công trình nghiên cứu trình bày tổng quan về Tổ chức Thương mại thế giới
WTO và Hiệp định TRIPs, về quá trình đổi mới của Việt Nam trong tiến trình
-4-
phát triển của nền kinh tế toàn cầu, và những phương hướng hoàn thiện khung
pháp luật cũng như khả năng nâng cao nhận thức của doanh nghiệp trong nước về
sở hữu trí tuệ trong thương mại.
“Từ cam kết TRIPs đến việc đàm phán gia nhập WTO” – PGS.TS Phạm
-
Duy Nghĩa – www.nciec.gov.vn (Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế),
21/4/2005.
Nghiên cứu tập trung phân tích một số vấn đề kinh tế trong nước theo khía
cạnh liên quan đến sở hữu trí tuệ trong thương mại, qua đó đưa ra một số đánh giá
về những hệ lụy mà Việt Nam có thể phải gánh chịu khi chấp nhận những tiêu
chuẩn bảo hộ sở hữu trí tuệ quá cao khi thực thi Hiệp định TRIPs.
Ngoài ra, còn một số nghiên cứu khác về sở hữu trí tuệ và Hiệp định TRIPs
dựa trên góc độ các vấn đề kinh tế cụ thể như vấn đề thương hiệu, bản quyền,
hàng thật hàng giả,...
Nói chung, những nghiên cứu này chủ yếu làm rõ khía cạnh liên quan đến
pháp luật của sở hữu trí tuệ nói chung và Hiệp định TRIPs nói riêng, những nỗ lực
của Việt Nam trong việc xóa bỏ sự khác biệt giữa luật pháp của nước ta và các quy
định của luật sở hữu trí tuệ thế giới cũng như Hiệp định TRIPs thông qua một số
lý thuyết phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề khác chưa được quan tâm và đề cập đến như
các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo về sở hữu trí tuệ hay sự cần thiết trong
việc bổ sung kiến thức về sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp Việt Nam,... Những ảnh
hưởng của Hiệp định TRIPs đến thực trạng phát triển của nền kinh tế và quá trình
thực thi Hiệp định TRIPs của nước ta trong tiến trình hội nhập chưa được đánh giá
đầy đủ.
3/ Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
♦ Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu sự hình thành hệ thống sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
và những vấn đề kinh tế nảy sinh trong quá trình thực thi Hiệp định TRIPs tại Việt
Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất góp phần thúc đẩy quá trình thực thi
Hiệp định TRIPs tại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
-5-
♦ Nhiệm vụ nghiên cứu:
-
Nghiên cứu tổng quan về sở hữu trí tuệ, Hiệp định TRIPs và kinh nghiệm
của một số quốc gia đi trước trong việc thực thi Hiệp định TRIPs.
-
Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ liên
quan đến lĩnh vực thương mại và quá trình thực thi Hiệp định TRIPs ở Việt Nam.
-
Nghiên cứu xu hướng phát triển của hệ thống sở hữu trí tuệ liên quan đến
thương mại ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quá trình thực thi
Hiệp định TRIPs ở nước ta trong thời gian tới.
4/ Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
♦ Đối tượng nghiên cứu:
Hiệp định TRIPs và việc thực thi Hiệp định TRIPs ở Việt Nam trong tiến
trình hội nhập.
♦ Phạm vi nghiên cứu:
-
Luận văn giới hạn nghiên cứu những vấn đề đặt ra trong thực thi Hiệp
định TRIPs đối với Việt Nam trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới WTO.
-
Luận văn không đi sâu nghiên cứu theo khía cạnh luật pháp mà tập trung
vào những vấn đề kinh tế và thương mại có liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc trong thực thi Hiệp định
TRIPs.
5/ Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích
tổng hợp, thống kê so sánh. Trong quá trình thực hiện có kế thừa một số kết quả
nghiên cứu của các công trình đi trước và sử dụng tài liệu từ các nguồn tư liệu
tham khảo đáng tin cậy.
6/ Những đóng góp mới của luận văn
-
Phân tích ảnh hưởng của việc thực thi Hiệp định TRIPs đối với nền kinh
tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập thông qua những hiện tượng kinh tế cụ thể.
-
Làm rõ khuynh hướng phát triển của sở hữu trí tuệ liên quan đến thương
mại ở Việt Nam và đưa ra một số đề xuất góp phần thúc đẩy việc thực thi Hiệp
định TRIPs ở Việt Nam trong thời gian tới.
-6-
7/ Cấu trúc của đề tài
Ngoài Mục lục, Danh mục các chữ viết tắt và Danh mục bảng, Lời mở đầu,
Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
-
Chương 1: Tổng quan về Hiệp định TRIPs và sự phát triển của hệ thống
sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại trên thế giới.
Việt
Chương 2: Một số vấn đề kinh tế trong thực thi Hiệp định TRIPs ở
Nam.
-
Chương 3: Một số đề xuất thúc đẩy quá trình thực thi Hiệp định TRIPs ở
Việt Nam.
-7-
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH TRIPs VÀ SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA HỆ THỐNG SỞ HỮU TRÍ TUỆ LIÊN QUAN
ĐẾN THƢƠNG MẠI TRÊN THẾ GIỚI
1.1 Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ và Hiệp định TRIPs
1.1.1 Khái quát chung về quyền sở hữu trí tuệ (IPR - Intellectual
Property Rights)
1.1.1.1 Lịch sử của sáng chế và sở hữu trí tuệ
Trong vài trăm năm trở lại đây, công nghệ đã trở thành yếu tố quyết định
tạo ra sự thịnh vượng và là động lực cho sự phát triển của các dân tộc. Lịch sử
nhân loại là lịch sử của việc áp dụng trí tưởng tượng hoặc sự đổi mới và sáng tạo,
trên một nền tảng tri thức đang hiện hữu để giải quyết các vấn đề. Từ những nghi
lễ xa xưa nhất, qua buổi đầu của nghệ thật âm nhạc và múa thời tiền sử, đến những
công nghệ hiện đại như các loại phần mềm và kỹ thuật số, loài người đã tự nhận
biết và khẳng định bản thân thông qua hoạt động sáng tạo.
Sở hữu trí tuệ là một khái niệm đã lâu đời. Luật Venice 1474 thường được
nhắc đến như là sự tiếp cận có hệ thống đầu tiên đối với bảo hộ sáng chế dưới một
hình thức của bằng độc quyền sáng chế, bởi vì đây là lần đầu tiên luật này quy
định một loại độc quyền của một cá nhân. Vào thế kỷ 16, dưới triều đại Tudor,
nước Anh đã có một hệ thống bằng độc quyền sáng chế, đạo luật về Đặc quyền
năm 1642 là luật thành văn đầu tiên quy định việc cấp một đặc quyền cho sáng
chế trong một khoảng thời gian có giới hạn. Nửa sau của thế kỷ 18 là thời hoàng
kim của thương mại và công nghiệp đối với nhiều nước và cũng là thời của sáng
tạo nghệ thuật, đổi mới khoa học và cách mạng chính trị. Chính trong thời kỳ này,
một số nước đã thiết lập hệ thống bằng độc quyền sáng chế đầu tiên của họ như
Pháp, Hoa Kỳ,... Sau đó, quyền tác giả với sự phát triển của máy in và nhà in cùng
các quyền sở hữu trí tuệ khác như nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, chỉ
dẫn địa lý, mạch tích hợp, bảo hộ cạnh tranh không lành mạnh lần lượt được quan
tâm và công nhận ở nhiều quốc gia.
-8-
Bảng 1.1: Những sáng chế lớn đã làm thay đổi
tiến trình vận động của nhân loại
Tên tác giả
Maharaja
Jai Sigh
Alexander
G.Bell
Orville và
Wibur
Wright
Vladimir
K.Zworykin
Konrad
-9-
Zuse
James
Russell
Nguồn: [9, tr.11]
1.1.1.2 Quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát
triển không ngừng của khoa học và công nghệ, vấn đề quyền sở hữu trí tuệ đối với
tài sản tri thức ngày càng khẳng định vị trí và tầm quan trọng của nó trong tiến
trình phát triển. Khi tài sản trí tuệ được nhà nước bảo hộ thì người nắm giữ tài sản
đó có một số quyền nhất định đối với tài sản trí tuệ của mình. Như vậy, quyền sở
hữu trí tuệ là quyền mà nhà nước dành cho các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu tài
sản trí tuệ sự kiểm soát độc quyền trong một thời gian nhất định nhằm ngăn chặn
sự khai thác các tài sản này một cách bất hợp pháp. Theo Luật sở hữu trí tuệ được
thông qua vào tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ là quyền
của các tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền
liên quan đến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Tập hợp các quyền sở hữu trí tuệ và các chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ tạo thành một hệ thống sở hữu trí tuệ. Hệ thống sở hữu trí tuệ bao gồm chính
sách sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng cũng như nguồn nhân lực phục vụ cho việc thực
thi chính sách đó. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, mỗi quốc gia sẽ hình
thành hệ thống sở hữu trí tuệ riêng. Một chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
bao gồm:
-10-
-
Các tiêu chuẩn xác lập quyền của chủ sở hữu trong việc ngăn cấm người
khác khai thác kinh tế đối với sáng tạo của họ; các tiêu chuẩn này sẽ xác định
phạm vi được bảo hộ của các sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, bản quyền và các
quyền sở hữu trí tuệ khác.
-
Các giới hạn đối với các quyền nêu trên vì mục đích phát triển kinh tế
trong nước cũng như chính sách xã hội, bao gồm việc cho phép phát triển công
nghệ, sử dụng trong giáo dục đào tạo, chống độc quyền đảm bảo cạnh tranh bình
đẳng, thời hạn bảo hộ,...
-
Các biện pháp và chế tài bảo hộ các quyền nêu trên.
Xét trên phương diện vĩ mô, cùng với sự phát triển của kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, hệ thống quyền sở hữu trí tuệ sẽ có những ảnh hưởng quan trọng
đến hoạt động thương mại, và rộng hơn là đến nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế
toàn cầu.
Theo quy định của WIPO, có các loại hình sở hữu trí tuệ sau:
-
Bằng độc quyền sáng chế:
Bằng độc quyền sáng chế là một văn bằng do cơ quan có thẩm quyền cấp
trên cơ sở nộp đơn yêu cầu bảo hộ, trong đó mô tả sáng chế và thiết lập điều kiện
mà theo đó sáng chế đã được cấp bằng độc quyền chỉ có thể được khai thác một
cách bình thường (sản xuất, sử dụng, bán, nhập khẩu) với sự cho phép của chủ sở
hữu bằng độc quyền sáng chế. Việc bảo hộ theo bằng độc quyền sáng chế bị giới
hạn về mặt thời gian, thường là 20 năm tính từ ngày nộp đơn ở nước nơi sáng chế
đó được cấp bằng, đổi lại tác giả phải bộc lộ công khai sáng chế đó của mình. Chủ
sở hữu của một bằng độc quyền sáng chế có quyền quyết định ai có thể sử dụng
cũng như cho phép những bên khác sử dụng sáng chế theo các điều kiện đã thỏa
thuận. Chủ sở hữu cũng có thể nhượng quyền sáng chế cho một người khác, người
này sau đó sẽ trở thành chủ sở hữu mới của bằng độc quyền sáng chế đó. Khi một
bằng độc quyền sáng chế hết hiệu lực, chủ sở hữu bằng độc quyền sáng chế không
thể tiếp tục thực hiện sự kiểm soát đối với việc khai thác sáng chế, tức là độc
quyền của chủ sở hữu đối với sáng chế chấm dứt và người khác có thể sử dụng
sáng chế nhằm khai thác thương mại.
-11-
-
Quyền tác giả và các quyền liên quan:
Quyền tác giả bao gồm một tập hợp quyền dành cho người sáng tạo đối với
các tác phẩm văn học và nghệ thuật của họ. Các tác giả và người thừa kế của họ
nắm giữ các độc quyền để sử dụng hoặc cấp li-xăng cho người khác sử dụng tác
phẩm theo các điều kiện thỏa thuận. Đối tượng bảo hộ bản quyền bao gồm các tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học dưới bất kỳ hình thức và cách thức thể hiện
nào. Ý tưởng được thể hiện trong tác phẩm không cần phải mới song hình thức thể
hiện, cho dù là tác phẩm văn học hay nghệ thuật, phải là sự sáng tạo nguyên gốc
của tác giả. Việc bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng hoặc giá trị của tác phẩm
và cả mục đích mà tác phẩm hướng tới. Trên thực tế, tất cả các quốc gia quy định
bảo hộ đối với các loại tác phẩm: Tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm
nghệ thuật tạo hình, bản đồ và các hình vẽ kỹ thuật, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm
điện ảnh và chương trình máy tính.
Quyền liên quan là những quyền đã phát triển trong khoảng chừng vài chục
năm gần đây, xung quanh quyền tác giả và bao gồm quyền của người biểu diễn
đối với cuộc biểu diễn của người đó, quyền của người chế tạo bản ghi âm đối với
bản ghi âm đó và quyền của tổ chức phát sóng đối với cuộc phát sóng. Việc bảo
hộ này giúp cho sản phẩm trí tuệ của các tác giả được truyền bá và phổ biến tới
đông đảo công chúng được thực hiện thông qua các quyền liên quan.
-
Nhãn hiệu hàng hóa:
Một nhãn hiệu hàng hóa là dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa của
một doanh nghiệp với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, nhãn hiệu
hàng hóa có tính phân biệt, là một biểu tượng hoặc dấu hiệu nhận dạng được
nguồn gốc của sản phẩm hoặc dịch vụ. Nhãn hiệu hàng hóa giúp người tiêu dùng
phân biệt một sản phẩm hoặc dịch vụ từ một nguồn với các sản phẩm hoặc dịch vụ
do một nguồn khác tạo ra.
Các nhãn hiệu hàng hóa bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc
công nghiệp hóa và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện
đại của thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát
triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia
-12-
- Xem thêm -