ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------
NGÔ THỊ NGỌC MAI
HAI MÔ HÌNH CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở CÁC NỀN KINH TẾ ĐANG CHUYỂN ĐỔI VÀ HỘI NHẬP VÀ
GỢI
Ý
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Hà Nội, 2012
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------
NGÔ THỊ NGỌC MAI
HAI MÔ HÌNH CẢI CÁCH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở CÁC NỀN KINH TẾ ĐANG CHUYỂN ĐỔI VÀ HỘI NHẬP VÀ
GỢI
Ý
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính và ngân hàng
Mã ngành: 60 34 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
Hà Nội, 2012
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG ..................................................................................
DANH MỤC BIỂU ĐỒ.......................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................................
Chương 1: Cơ sở lý luận về cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh tế
đang chuyển đổi và hội nhập ............................................................................
1.1. Đặc điểm cơ bản của các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập ....
1.2. Hệ thống NHTM ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập .......
Chương 2: Hai mô hình cải cách hệ thống NHTM phổ biến ở các nền
kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập ...............................................................
2.1. Mô hình “phục hồi”- trường hợp nghiên cứu của hệ thống ngân hàng
Trung Quốc ..................................................................................................
2.1.1. Thực trạng hệ thống ngân hàng Trung Quốc trước cải cách (trước
1997) .........................................................................................................
2.1.2. Quá trình cải cách Hệ thống ngân hàng Trung Quốc .....................
2.1.3. Bài học kinh nghiệm .......................................................................
2.2. Mô hình “cấp mới”- Trường hợp nghiên cứu của hệ thống NH Nga ...
2.2.1. Hệ thống ngân hàng của Nga trước cải cách ..................................
2.2.2. Quá trình cải cách Hệ thống ngân hàng Nga ..................................
2.2.3. Bài học kinh nghiệm từ cải cách hệ thống ngân hàng Nga ............
2
2.3. So sánh mô hình “phục hồi” và “cấp mới” qua hai trường hợp nghiên
cứu và những thuận lợi, khó khăn nếu áp dụng vào Việt Nam....................58
Chương 3: Một số hàm ý chính sách cho việc cải cách..................................64
hệ thống NHTM của Việt Nam........................................................................ 64
3.1. Đặc điểm cơ bản của hệ thống NHTM tại Việt Nam và sự cần thiết phải
cải cách hệ thống NHTM Việt Nam............................................................64
3.1.1. Điểm mạnh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam...........65
3.1.2. Điểm yếu.........................................................................................65
3.2. Nguyên tắc chung của quá trình cải cách..............................................71
3.3. Các mục tiêu cải cách hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.......73
3.3.1. Mục tiêu của giai đoạn 1.................................................................74
3.3.2. Giai đoạn 2 từ năm 2016 – 2020.....................................................80
3.4. Các định hướng cải cách hệ thống NHTM của Việt Nam....................81
3.4.1. Định hướng chung.......................................................................... 81
3.4.2. Định hướng cụ thể.......................................................................... 82
3.5. Một số kiến nghị về các giải pháp thực hiện........................................ 89
3.5.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam........................................ 89
3.5.2. Đối với các NHTM Việt Nam........................................................ 98
KẾT LUẬN......................................................................................................101
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 102
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
7
Ký hiệu
1
CMKT
2
CNH
3
HĐH
4
IAF
5
IFRS
6
NHTM
NHTMCPNgân hàng thương mại cổ phần
8
NHNN
9
TMCP
10
TCTD
11
USD
12
VND
13
WTO
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
1
2
3
4
5
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT
1
2
3
ii
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong 25 năm đổi mới, cùng với nền kinh tế của đất nước, ngành
ngân hàng Việt Nam đã có những chuyển đổi quan trọng, từ hệ thống
ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Ngân hàng thương
mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng (TCTD) trực tiếp kinh doanh tiền
tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng với sự có mặt của hàng chục ngân
hàng quốc doanh, cổ phần, liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng lớn mạnh
về mọi mặt, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện của
đất nước.
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang chưa
đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của yêu cầu ổn định kinh tế
vĩ mô, tăng trưởng bền vững, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH, HĐH), cũng như những thách thức to lớn của quá trình tự do hoá
tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đã chính thức
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hệ thống NHTM hiện
nay còn chưa có được quy mô hợp lý về số lượng các ngân hàng cũng
như các hình thức NHTM để có thể tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng và
hiệu quả. Điều này dẫn tới một hệ quả là hệ thống NHTM còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro và chất lượng dịch vụ ngân hàng không cao. Bối cảnh này
đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần được cải cách.
Công cuộc tái cấu trúc - cải cách hệ thống ngân hàng ở các nền
kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam luôn đứng trước sự lựa chọn khó
khăn giữa việc đảm bảo ổn định và tăng cường hiệu quả kinh tế của hệ
thống ngân hàng. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Việt Nam đã đặt mục tiêu đảm
1
bảo ổn định hệ thống ngân hàng lên hàng đầu. Tuy nhiên, ổn định và
hiệu quả là hai mục tiêu thường đối lập nhau trong quá trình cải cách nên
Việt Nam đã trả giá cho mục tiêu ổn định bằng tốc độ cải cách chậm trễ
dẫn đến hiệu quả còn thấp của hệ thống ngân hàng.
Việc học hỏi kinh nghiệm cải cách hệ thống NHTM ở các nền
kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập sẽ giúp Việt Nam có được một
chiến lược và lộ trình cải cách hệ thống NHTM phù hợp. Luận văn này
sẽ nghiên cứu hai xu hướng có thể gọi là hai mô hình cải cách hệ thống
NHTM phổ biến ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập là “phục
hồi” và “cấp mới”, để rút ra hàm ý chính sách cho Việt Nam trong quá
trình cải cách hệ thống NHTM. Nhận thấy sự cần thiết của việc cải cách
hệ thống NHTM, tác giả đã chọn đề tài “Hai mô hình cải cách hệ thống
ngân hàng thương mại ở các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập
và gợi ý chính sách cho Việt Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
Cho đến nay, có khá nhiều nghiên cứu ngoài nước về cải cách hệ
thống ngân hàng (xem danh mục tài liệu tham khảo). Hầu hết các nghiên
cứu này cho thấy, cải cách hệ thống ngân hàng là một vấn đề lớn, có ảnh
hưởng sâu rộng tới nền kinh tế của các quốc gia.
Nhìn chung, các quốc gia thường cải cách hệ thống ngân hàng khi
xảy ra khủng hoảng tài chính, kinh tế hoặc sau khủng hoảng và đang
thực hiện các chính sách hỗ trợ phục hồi. Thực tiễn này đã được chứng
minh trong giai đoạn khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 (Hawkins
và Turner, 1999; Hawkins, 1999; Dookyung Kim, 1999). Trong cuộc
khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ bắt đầu từ năm 2007, Mỹ cũng
2
thực hiện một biện pháp cải cách mạnh mẽ là tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng trong quá trình xảy ra khủng hoảng và sau khi thực hiện các chính
sách kích thích kinh tế. Nae-Youn Lee (2000) và Dominique StraussKahn (2009) cho rằng, khi các quốc gia đối mặt với những cuộc khủng
hoảng kinh tế và đang theo đuổi các chính sách khôi phục nền kinh tế,
cải cách hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng yếu kém được
coi là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Sự ổn định của hệ
thống tài chính được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất về
mặt thể chế cho sự hoạt động hiệu quả của nền kinh tế thị trường và cho
quá trình phục hồi nền kinh tế.
Theo Hawkins and Turner (1999), Goldstein and Turner (1996),
Klingebiel và Caprio (1996), có thể chia thành các nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng và cải cách thành 3 nhóm sau:
*
Yếu tố vi mô, gồm:
- Các quy định và thực tiễn hoạt động ngân hàng kém: đặc biệt lưu
ý
là tình trạng không đủ vốn, vi phạm chính sách cho vay.
- Các vấn đề liên quan tới mẫu thuẫn giữa chủ sở hữu và người điều
hành cũng đóng vai trò quan trọng đặc biệt là các chính sách thưởng để
khuyến khích nhân viên cho vay dựa trên số lượng các khoản vay mà
không chú ý tới rủi ro ngân hàng có thể gặp phải.
- Giới hạn về trình độ của nhân viên có thể cản trở việc áp dụng
công nghệ mới.
*
Yếu tố vĩ mô: sự biến động mạnh về giá cả hoặc các yếu tố kinh
tế vĩ mô như nền kinh tế tăng trưởng nóng. Ví dụ cú sốc về dầu trong
những năm 1970 ở châu Mỹ Latinh đã dẫn đến khủng hoảng nợ đầu
những năm 1980.
3
*
hệ
Yếu tố có tính hệ thống: môi trường không tạo điều kiện cho
thống ngân hàng hiệu quả phát triển như:
- Số lượng ngân hàng quốc doanh lớn có thể bóp méo cả xu hướng
cho vay, thu hút tiền gửi và tính cạnh tranh trong ngành ngân hàng, cũng
như khả năng đa dạng hóa hoạt động của các ngân hàng.
-
Sự định hướng của chính phủ về tín dụng có thể hạn chế các ngân
hàng phát triển kỹ năng đánh giá các khoản cho vay.
-
Hệ thống pháp luật không đầy đủ có thể hạn chế tính hiệu quả của
hệ thống ngân hàng. Ví dụ: các quy định về an toàn trong hoạt động
ngân hàng lỏng lẻo, không phù hợp với yêu cầu hoạt động của hệ thống
ngân hàng, thông tin và các chinh sách không minh bạch. Theo
Goldstein (1996), hầu hết các nhà phân tích cho rằng hệ thống kế toán và
các quy định làm hạn chế vai trò của kỷ luật thị trường. Tại nhiều quốc
gia châu Á, quy định phân loại nợ không chặt chẽ khiến các ngân hàng
có thể giấu nợ xấu.
- Các quy định và cơ chế giám sát không đầy đủ và hiệu quả. Trong
nghiên cứu của Ouarda Merrouche và Erlend Nier (2010) về nguyên
nhân sâu xa của các cuộc khủng hoảng tài chính từ 1999 đến 2007 về
mối quan hệ giữa năng lực giám sát, quản lý với khả năng tích tụ rủi ro
(hay mất cân đối về tài chính), kết quả cho thấy các quy định đảm bảo an
toàn kém và rủi ro đạo đức đã góp phần làm tăng tích tụ rủi ro trong hệ
thống tài chính.
- Thị trường chứng khoán chưa phát triển, đặc biệt là đối với các
chứng khoán dài hạn, thì các khoản vay dài hạn phải được ngân hàng
cung cấp, khi đó ngân hàng sẽ tập trung quá nhiều rủi ro.
4
Các nghiên cứu về kinh nghiệm quốc tế trong tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng đều đề cập tới các phương pháp sau (Dziobek, 1998):
1.
Chính phủ bơm vốn/ hoặc mua cổ phiếu để nắm giữ quyền
quản lý
2.
Đóng cửa các ngân hàng không có khả năng tồn tại một
cách có trật tự (đồng thời chi trả bảo hiểm tiền gửi hoặc bán
phần hoạt
động tốt cho ngân hàng khác).
3. Sáp nhập các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước
ngoài.
4.
Sáp nhập ngân hàng trong nước với nhau.
5.
Thành lập công ty quản lý tài sản.
6.
Thay đổi cơ cấu sở hữu ngân hàng (ví dụ tư nhân hóa) .
Dziobek (1998) cho rằng ngoài các biện pháp trên, cần có những
biện pháp vĩ mô đối với từng thể chế và các yếu tố về pháp lý nhằm điều
chỉnh và khôi phục hệ thống ngân hàng có vấn đề nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời bền vững. Ví dụ như thay đổi, cải
tổ các quy định, chính sách về hoạt động ngân hàng, giám sát hệ thống
tài chính, ngân hàng cũng cần được thực hiện. Thực tế cho thấy, các
quốc gia sử dụng kết hợp nhiều phương pháp (từ 4 tới 6 phương pháp),
chỉ có một vài quốc gia sử dụng 2 phương pháp như Nga, Ả rập
(Demirgüç-Kunt, Detragiache, và Poonam Gupta, 2006).
Theo Joseph Stiglitz (2002), cải cách hệ thống ngân hàng sẽ khó
hơn rất nhiều tại các nước đang phát triển bởi một số lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, tại các nước này thường thiếu cơ sở luật pháp, khoa học
và năng lực thể chế cho việc tái cấu trúc hệ thống (ví dụ như cơ chế xử lý
tài sản).
5
Thứ hai, tại các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ các ngân hàng ở
trong tình trạng thiếu thanh khoản và có tài sản xấu chiếm tỷ trọng lớn
trong hệ thống ngân hàng, số lượng ngân hàng hoạt động hiệu quả để có
khả năng mua lại, thâu tóm ít hơn nhiều so với số lượng các ngân hàng
yếu kém.
Thứ ba, hệ thống ngân hàng có thể phức tạp hơn, bao gồm cả các
ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân. Những ngân hàng nhà nước
có thể hoạt động với một cơ chế bảo lãnh ngầm đối với người gửi tiền.
Những tuyên bố của chính phủ về việc không bảo đảm cho các ngân
hàng tư nhân có thể tạo ra việc rút tiền khỏi những ngân hàng này, đặc
biệt nếu chính phủ đóng cửa một số ngân hàng và gây ra sự nghi ngờ về
sự lành mạnh của những ngân hàng khác trong hệ thống.”
Tình hình nghiên cứu trong nước
Nhìn chung, cho đến nay có rất ít các công trình nghiên cứu trong
nước tập trung vào vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng một cách
chuyên sâu, mà hầu hết mới chỉ dừng lại ở việc phân tích sơ lược vấn đề
cải cách hệ thống ngân hàng, những vấn đề liên quan đến cơ cấu lại từng
ngân hàng, hay đánh giá hiệu quả hoạt động của từng ngân hàng độc lập.
Xuất phát điểm của các nghiên cứu trong nước là các đánh giá thực
trạng về hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng. Điểm mạnh của các
nghiên cứu này là đang ngày càng áp dụng các công cụ và mô hình phân
tích theo các chuẩn mực nghiên cứu trên thế giới.
Trong những năm gần đây, trước sự yếu kém của hệ thống tài chính,
ngân hàng của Việt Nam và yêu cầu cần phải cải cách, một loạt công
trình nghiên cứu khoa học công phu được tiến hành nhằm phân tích,
đánh giá thực trạng của hệ thống này, tìm hiểu các kinh nghiệm
6
quốc tế và đưa ra các kiến nghị chính sách. Có thể kể ra một số công
trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:
Đề tài cấp nhà nước của Viện Nghiên cứu về Quản lý Kinh tế
Trung ương “Phát triển thị trường tài chính Việt Nam đến năm 2020”
được xem là một nghiên cứu tổng thể, toàn diện và cập nhật các vấn đề
phát triển của thị trường tài chính.
Đề tài “Lý luận và thực tiễn về tự do hóa các giao dịch vốn và sự
ổn định khu vực tài chính Việt Nam: Khuôn khổ chính sách đến năm
2020” đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước về tự do hóa giao
dịch vốn trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997 như Thái
Lan, Indonesia và của Trung Quốc, Ấn Độ, Hungary, từ đó rút ra bài học
cho Việt Nam.
Liên quan đến yêu cầu cải cách hệ thống Ngân hàng nhà nước
(NHNN) Việt nam, Nguyễn Hồng Sơn và các tác giả khác (2008) đã chỉ
ra những hạn chế trong mô hình tổ chức bộ máy của hệ thống này hiện
nay, đó là (i) tính độc lập tương đối so với các tổ chức bộ máy nhà nước
khác, (ii) không phân định rõ ràng giữa chức năng của Ngân hàng Trung
ương (NHTW) và chức năng quản lý, (iii) chưa tác bạch chức năng quản
trị và điều hành, (iv) tổ chức bộ máy quá cồng kềnh.
Trong nghiên cứu về “Cải cách Ngân hàng Việt Nam”, Nguyễn
Hồng Sơn và nhóm tác giả (2008) đã đánh giá thực trạng hoạt động của
Ngân hàng chính sách xã hội, từ chiến lược hoạt động đến nguồn vốn,
chất lượng tài sản, và lợi nhuận. Nghiên cứu này cũng đề xuất định
hướng phát triển Ngân hàng chính sách xã hội trở thành một ngân hàng
bền vững về tài chính đồng thời tăng được khả năng tiếp cận dịch vụ
ngân hàng cho người nghèo và đối tượng chính sách.
7
Đặc biệt, trong một nghiên cứu gần đây, nhóm nghiên cứu của
Nguyễn Hồng Sơn và Khoa tài chính ngân hàng – Đại học kinh tế, Đại
học quốc gia Hà Nội đã có những tổng thuật hết sức công phu về vấn đề
cải cách và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng trên thế giới và Việt Nam.
Luận văn này kế thừa nhiều thông tin, phân tích và đánh giá của nghiên
cứu nói trên.
Do thiếu vắng một nền tảng lý thuyết vững chắc, các nghiên cứu
trong nước hiện nay hầu như rất bế tắc trong việc đưa ra một cách tiếp
cận phù hợp, nói rộng hơn là một “triết lý”, đối với việc tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng Việt Nam. Các kiến nghị chính sách vì thế trở nên rời
rạc, ngắn hạn và thiếu tính hệ thống, liên thông.
Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các nghiên cứu về hệ thống ngân
hàng thương mại chủ yếu mới dừng lại ở mức độ mô tả thực trạng. Các
nghiên cứu mang tính lý luận khái quát về cải cách NHTM còn chưa
nhiều. Đặc biệt, các nghiên cứu hiện nay đều chưa đề xuất được một mô
thức phù hợp cho việc cải cách hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt
Nam.
3.
-
Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu các mô hình cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh
tế đang hội nhập và chuyển đổi trên thế giới.
dựa
Đề xuất mô hình cải cách hệ thống NHTM của Việt Nam
trên nghiên cứu mô hình cải cách hệ thống NHTM của các nền kinh tế
đang hội nhập và chuyển đổi trên thế giới.
4.
-
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh
tế đang hội nhập, chuyển đổi và Việt Nam.
8
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài không đi sâu vào mô tả thực
trạng
quá trình cải cách hệ thống NHTM mà tập trung nghiên cứu, đánh giá
mô hình và cách thức cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh tế đang
chuyển đổi và hội nhập¸từ đó rút ra hàm ý chính sách đối với mô hình và
cách thức cải cách hệ thống NHTM của Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phân tích mô
hình lý thuyết, nghiên cứu trường hợp và so sánh
Hai trường hợp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được lựa chọn là:
+
Nga: theo mô hình cấp mới
+
Trung Quốc: theo mô hình phục hồi
Luận văn sẽ sử dụng khung dưới đây để tổng hợp và so sánh các
trường hợp nghiên cứu của các nước. Khung này cho phép hình dung rõ
nét và tìm ra mối liên hệ giữa những điểm khác biệt giữa hai trường hợp
nghiên cứu và những điểm khác biệt trong mo hình tái cấu trúc hệ thống
ngân hàng.
6.
Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục luận
văn gồm có 3 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cải cách hệ thống NHTM ở các nền
kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập.
Chương 2: Hai mô hình cải cách hệ thống NHTM phổ biến ở các
nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập.
Chương 3: Một số hàm ý chính sách cho việc cải cách hệ thống
NHTM của Việt Nam.
9
Chương 1
Cơ sở lý luận về cải cách hệ thống NHTM ở các nền kinh tế
đang chuyển đổi và hội nhập
1.1. Đặc điểm cơ bản của các nền kinh tế đang chuyển đổi và hội
nhập
Kể từ khi Liên Xô và khối các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa Đông
Âu tan vỡ vào đầu thập kỷ 90 của thế kỹ XX, quá trình phát triển của nền
kinh tế thế giới đã nhanh chóng chuyển sang một giai đoạn mới. Bối
cảnh phát triển mới đó của thế giới được nhìn nhận với nhiều đặc trưng
quan trọng: (1) Trật tự thế giới hai cực đã tan vỡ và xu hướng chủ đạo là
sự hình thành một thế giới đa cực với nhiều trung tâm phát triển khác
nhau; (2) Đồng thời với sự chấm dứt của trật tự hai cực, các nền kinh tế
trên thế giới đều có xu hướng tăng cường hội nhập quốc tế; (3) Quá trình
hội nhập được tăng cường khiến cho hầu hết các nền kinh tế trở nên
thống nhất hơn, cùng chia sẻ với nhau về cách thức điều hành, điều tiết
kinh tế vĩ mô cũng như các phương thức hội nhập, bao gồm cả hội nhập
bên trong - điều chỉnh, cải cách nền kinh tế từ bên trong cho phù hợp với
điều kiện mới và hội nhập bên ngoài - tức là chủ động tham gia vào quá
trình hội nhập, liên kết với các đối tác quốc tế khác.
Bối cảnh phát triển mới của thế giới thời kỳ từ đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ XX đến nay đã dẫn tới sự hình thành của nhóm các nền kinh tế
đang chuyển đổi, hội nhập. Khái niệm nền kinh tế đang chuyển đổi, hội
nhập được sử dụng để chỉ nhóm các nền kinh tế đang trong quá trình cải
cách, chuyển đổi từ hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang phát
triển kinh tế thị trường tự do. Quá trình chuyển đổi này được thực hiện
với một số nội dung chuyển đổi chủ yếu bao gồm:
10
-
Tự do hoá kinh tế, theo đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ do thị
trường quyết định chứ không xác lập bởi các tổ chức kế hoạch hoá tập
trung
-
Quá trình chuyển đổi đòi hỏi phải tăng cường hội nhập quốc tế,
đặc biệt là hội nhập thương mại theo đó các rào cản thương mại sẽ bị xoá
bỏ
-
Quá trình tư nhân hoá được đẩy mạnh để chuyển các doanh
nghiệp quốc doanh thành doanh nghiệp tư nhân với hiệu quả cao hơn
trong sử dụng các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế
-
Hệ thống tài chính được xây dựng để tạo thuận lợi cho ổn định
kinh tế vĩ mô và cho sự chuyển dịch của các dòng vốn tư nhân
Với các đặc trưng như vậy, nền kinh tế của hàng loạt các quốc gia
khác nhau được xác định là đang trong quá trình chuyển đổi, chủ yếu bao
gồm các nhóm quốc gia như: các quốc gia thuộc Liên Xô cũ, các quốc
gia Trung và Đông Âu thuộc khối XHCN trước đây, Trung Quốc, Việt
Nam và nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ 3. Xem xét ở bối cảnh rộng
hơn thì bất kỳ một nền kinh tế nào đang nỗ lực cải cách, thay đổi từ cơ
chế kinh tế cũ để chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường đều có thể
được coi là nền kinh tế chuyển đổi. Mặc dù vậy, khái niệm kinh tế
chuyển đổi thường được gắn với các trường hợp điển hình hơn là các
quốc gia Trung và Đông Âu. Từ năm 2000, Quỹ tiền tệ Quốc tế đã liệt kê
các nền kinh tế được coi là đang chuyển đổi như trong Bảng 1.
Bảng 1.1. Danh sách các nền kinh tế đang chuyển đổi
Phân loại theo khu vực
1. Trung và Đông Âu
11
2. Nhóm thuộc Liên Xô cũ
3. Các nước khác
Nguồn: Transition Economies: An IMF Perspective on Progress and
Prospects, IMF. 2000-11-03.
Nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập đứng trước nhiều
ngưỡng cửa, nhiều sự lựa chọn, đang trong giai đoạn có những biến
chuyển lớn và đứng trước những cơ hội cũng như những thách thức lớn,
do đó nó có sự chuyển đổi lớn về mô hình kinh tế, cơ cấu kinh tế, các
quan hệ sở hữu, …
*
Mô hình kinh tế tổng quát: từ kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường, chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, giải phóng lực lượng sản xuất, hình thành những động lực
phát triển mới cho nền kinh tế. Trên thực tế, những thay đổi sâu sắc được
thực hiện thông qua việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.
*
Quan hệ sở hữu chuyển đổi theo hướng đa dạng hóa các hình
thức sở hữu, từng bước phân định quyền sở hữu, quyền sử dụng và
quyền quản lý. Hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành
12
- Xem thêm -