SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO NGHỆ AN
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO DIỄN CHÂU
------------------o0o--------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
GIÚP HỌC SINH THỰC HIÊN TỐT TIẾT 44: BÀI TẬP LỊCH SỬ - LỚP 8
DIỄN CHÂU, THÁNG 06 NĂM 2008
1
MỞ ĐẦU
…Để phát triển tư duy độc lập sáng tạo cho học sinh trong học tập Lịch Sử, điều
quan trọng trước hết là bồi dưỡng niềm hứng thú say mê tự giác trong học tập và
nghiên cứu. Ngành giáo dục nước ta đó và đang có nhiều chuyển biến mạnh mẽ
trong công cuộc đổi mới. Không chỉ đổi mới phương pháp dạy học mà ngành
cũn chỳ trọng cụng tỏc quản lý, kiểm tra, thi cử nhằm nõng cao chất lượng giáo
dục. Từ năm học 2006 – 2007, Bộ giáo dục phát động phong trào chống tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục, chúng tôi cho rằng đây là một
chủ trương đúng đắn và là một việc làm có ý nghĩa thực tế để nền giáo dục nước
nhà có bước phát triển vững chắc hơn. Muốn vậy thầy và trũ ở cỏc cấp học cần
phải cú sự nỗ lực lớn: Thầy trăn trở tỡm tũi những những phương pháp tối ưu để
hướng dẫn học sinh học tập tốt; trũ phải say mờ hào hứng học bài, làm bài đạt
kết quả cao. Học sinh học tập tiếp thu kiến thức có sôi nổi hay không là nhờ vào
cách tổ chức hướng dẫn của người thầy.
Với mong muốn được giúp cho các em ngày càng cú nhiều tiết học hay hấp
dẫn và đạt hiệu quả cao, tụi dó chọn lọc nội dung và tỡm tũi những phương pháp
phù hợp nhất để hướng dẫn các em thực hiện tôt một tiết bài tập trong chương
trỡnh Lịch sử Việt Nam - Lớp 8.
A. NHẬN THỨC CŨ - TÌNH TRẠNG CŨ.
I. NHẬN THỨC CŨ:
Trước đây chúng ta quan niệm môn lịch sử chỉ là môn học thuộc lòng,
không cần phải tư duy, không có bài tập. Vì vậy, giáo viên giảng dạy theo lối
thuyết trình chứ không có các dạng bài tập đưa ra để củng cố kiến thức cho học
sinh. Còn học sinh thì chỉ học một cách hời hợt theo nội dung vở ghi, ít khi sử
dụng SGK. Kết quả là khi kiểm tra, học sinh rất thụ động không nắm bắt được
kiến thức và phải nhờ vào sự "hỗ trợ nguồn" từ bên ngoài. Một lối học như vậy,
thi cử như vậy kéo dài suốt hàng chục năm nay. Học sinh rất ít hứng thú học,
khả năng ghi nhớ sự kiện rất thấp, không liên hệ được với thực tế, không hiểu rõ
về lịch sử nước nhà. Nguy hại hơn là để lại cho học sinh những nhận thức lệch
lạc về một bộ môn khoa học chân chính, được xem là "khoa học của mọi khoa
học".
II. TÌNH TRẠNG CŨ:
Điểm thi tốt nghiệp THPT và Đại học môn Lịch sử trong những năm gần đây đã
phản ánh rõ lối nhận thức cũ đó. Tổng số điểm 0 của môn thi lịch sử nhiều hơn
tổng số điểm 0 của các môn thi khác. Những con số đó khiến cho chúng
ta,những giáo viên dạy lịch sử và xã hội phải băn khoăn suy nghĩ. Học sinh
không học môn sử hoặc học hời hợt qua chuyện, đồng nghĩa với việc các em sẽ
quên dần các giá trị truyền thống dân tộc.
Trong chương trình cũ do không có tiết bài tập riêng nên giáo viên không
có điều kiện để hướng dẫn các em làm bài, rèn luyện kỹ năng. Vì vậy, độ nhớ
của các em không được lâu, nhận biết sự kiện không sâu sắc. Các em chỉ trả lời
một số câu hỏi cuối sách là xong hoặc vẽ một vài bản đồ khởi nghĩa. Chính vì
vậy học sinh học rất nhàm chán.
B. NHẬN THỨC MỚI - GIẢI PHÁP MỚI.
I. NHẬN THỨC MỚI:
Đổi mới về phương pháp dạy học, về nhận thức, quan niệm ở các bộ môn khoa
học nói chung và môn lịch sử nói riêng là xu thế của thời đại, là yêu cầu khách
quan của công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện
đại hóa.
Hoàn cảnh lịch sử ở mỗi thời kỳ có thể khác nhau nhưng những bài học kinh
nghiệm về lịch sử thì lúc nào cũng còn nguyên giá trị. Học sử không chỉ hiểu
biết về sự việc đã qua, hiểu về con người trong quá khứ mà còn phải bồi dưỡng
về tư tưởng, tình cảm, thái độ đối với cuộc sống hiện đại. Học tập lịch sử cần có
trí nhớ nhưng phải sáng tạo, cho nên giáo viên cần có phương pháp phát huy
tính tích cực của các em. Một trong những biện pháp sư phạm để hiểu biết lịch
sử là tiến hành các dạng bài tập, đây cũng là điều khắc phục quan niệm lâu nay
lịch sử không có bài tập. Tiến hành làm bài tập lịch sử giúp giáo viên có sự say
mê tìm tòi, đúc kết được những kinh nghiệm, tình huống trong giảng dạy. Còn
học sinh sẽ hiểu rõ và nhớ lâu hơn những kiến thức cơ bản, tự bồi dưỡng
phương pháp, phát triển tư duy năng lực nhận thức, kiểm tra sức nhớ của chính
mình đối với kiến thức cơ bản.
Thực tế qua mấy năm đổi mới phương pháp dạy học, tôi thấy học sinh rất
thích tiết bài tập. Bởi ở giờ học này các em được khám phá, được thể hiện năng
lực nhận thức của mình. Rất nhiều em muốn lên bảng làm bài, làm cho không
khí lớp học sôi nổi hẳn lên. Tiết bài tập đã trở thành một tiết học bổ ích, kích
thích tinh thần học tập của các em và sự năng động của giáo viên.
II. GIẢI PHÁP MỚI:
1. Phạm vi đề tài:
Có nhiều dạng bài tập khác nhau (trắc nghiệm, tự luận, học theo bản đồ,
lập bảng biểu tổng hợp, so sánh …) tùy vào trình độ của từng lớp mà giáo viên
chọn các dạng bài tập phù hợp để phát triển tư duy và rèn luyện kỹ năng thực
hành. Trong đề tài này, tôi thiết kế một tiết bài tập thuộc chương trình lớp 8 Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ 1858 đến cuối thế kỷ XIX. Từ đó giúp học sinh
hiểu rõ hơn về một thời kỳ đen tối trong Lịch sử nước ta - thời kỳ bị thực dân
Pháp đô hộ.
2. Mục tiêu của tiết học:
* Về kiến thức: Ghi nhớ được những sự kiện cơ bản của giai đoạn lịch sử
từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858) đến cuộc khởi nghĩa
trong phong trào Cần Vương chấm dứt và khởi nghĩa Yên Thế (cuối thế kỷ
XIX).
*Về tư tưởng: Làm cho học sinh có thái độ căm thù quân xâm lược đã
giày xéo mảnh đất quê hương, từ đó nâng cao lòng yêu nước, truyền thống
chống ngoại xâm của dân tộc.
*Rèn luyện kỹ năng: Đánh giá sự kiện, học theo bản đồ, nhận diện nhân
vật lịh sử, lập bảng tổng hợp, trình bày một vấn đề.
3. Phương pháp chính : Tổng hợp - So sánh - Minh họa - Tái hiện.
4. Chuẩn bị:
* Giáo viên:
- Bảng phụ ghi các dạng bài tập
- Bản đồ Việt Nam (dạng trống)+ Một số ký hiệu
- Ảnh chân dung các nhân vật Lịch sử + Tờ bìa lớn + Nam châm.
- Phiếu hoạt động nhóm.
* Học sinh: Ghi nhớ và nắm vững các sự kiện, các lược đồ và hình ảnh
nhân vật trong các bài (từ bài 24 đến bài 27).
5. Hoạt động của thầy và trò:
a. Giáo viên giới thiệu nội dung, yêu cầu của tiết học
…Sau đây là 5 dạng bài tập mà trong giờ học chúng ta sẽ tiến hành:
1. Trắc nghiệm.
2. Xác định địa danh Lịch sử.
3. Nhận diện nhân vật Lịch sử.
4. Lập bảng tổng hợp về các cuộc khởi nghĩa lớn.
5. Bài tập tự luận.
b. Hướng dẫn học sinh làm bài tập .
Khác với tiết học bài mới hoặc tiết ôn tập, tiết bài tập này không có trong
sách giáo viên hoặc sách giáo khoa. Giáo viên tự chọn một số bài trong sách bài
tập tham khảo hoặc tự thiết kế các dạng cho phù hợp với từng lớp, từng đối
tượng học sinh. Từ 5 dạng cơ bản trên, tôi áp dụng ở hai đối tượng: Học sinh
khá giỏi (ở lớp 8G) và học sinh trung bình, yếu (các lớp 8C,D,E).
Đối với HS trung bình, yêu cầu các em ghi nhớ được sự kiện và hiểu khái
quát nội dung của chương, bài; kỹ năng sử dụng bản đồ, tranh ảnh; chỉ đúng vị
trí địa danh, đọc đúng tên nhân vật…
Đối với HS khá giỏi, phải biết phân tích và tổng hợp sự kiện thành một
vấn đề; kỹ năng sử dụng bản đồ, tranh ảnh phải chính xác, thuần thục và trình
bày trôi chảy.
Bài tập 1 (Trắc nghiệm)
*Yêu cầu:
- Đối với dạng trắc nghiệm ghép đôi ( nối thời gian - sự kiện), học sinh
ghi nhớ được một số sự kiện cơ bản nhất của thời kỳ lịch sử từ 1858 đến cuối
thế kỉ XIX và sắp xếp hệ thống sự kiện theo trình tự thời gian diễn ra. Nội dung
sự kiện phải được ghi đầy đủ, đúng, gọn, rõ
- Đối với dạng trắc nghiệm điền đúng - sai, học sinh cần phải đọc kỹ bài
tập và nắm chắc nội dung vấn đề lịch sử để xác định đúng.
*Nội dung:
1.1.- Nối cột I (Thời gian) với cột II (nội dung sự kiện) sao cho phù hợp:
Cột I
- 1- 9- 1858
Cột II
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ
- 5 -6 -1862
nhất.
- 20 - 11- 1873
Triều đình ký với Pháp điều ước Nhâm tuất
- 25 - 04 - 1882
Thực dân Pháp xâm lược nước ta.
- 6 - 6 - 1884
Cuộc phản công ở Kinh thành Huế
- 5 - 7 - 1885
Triều đình ký với Pháp điều ước Patonot
- 13 - 7 - 1885
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai
Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương.
1.2. Trong những câu sau, câu nào đúng câu nào sai? (điền Đ; S vào ô
trống):
a. Nguyên nhân cơ bản của việc thực dân Pháp đem quân xâm lược Việt
Nam
là bảo vệ đạo Gia Tô.
b. Trong quá trình Pháp xâm lược Việt Nam thái độ của triều đình nhà
Nguyễn là đầu hàng từng bước đi đến đầu hàng hoàn toàn.
c. Về pháp lý, nước ta bị mất vào tay thực dân Pháp sau 36 năm.
d. Nguyên nhân sâu xa nổ ra phong trào Cần Vương là do có chiếu
CầnVương
* Phương pháp tiến hành:
Đối với bài tập 1.1: Giáo viên viết sẵn bài tập lên bảng phụ, cho học sinh
đọc qua yêu cầu của bài và suy nghĩ trong 2 phút. Sau đó cho ba em lên bảng
nối.. Tiếp đến cho các em khác ở dưới lớp nhận xét kết quả. Giáo viên bổ sung
chữa hoàn chỉnh để các em ghi vào vở.
Đối với lớp khá, thay cho việc nối sự kiện, tôi chỉ viết thời gian ở cột I và
cho học sinh lên bảng điền nội dung sự kiện vào cột II. Yêu cầu cao hơn ở chỗ
học sinh phải nhớ chính xác sự kiện mới điền đúng được.
Bài tập này, chúng ta cũng có thể ra dưới một dạng khác đó là trắc nghiệm
kết hợp với tự luận: Em hãy xác định nội dung các sự kiện lịch sử:
1- 9 - 1858; 5 - 8 - 1862;
6 - 6 - 1884;
20 - 11 - 1873; 25- 4 - 1882;
5 - 7 - 1885;
13 - 7 - 1885
Sau đó diễn đạt bằng một bài luận lịch sử thể hiện thái độ, hành động của nhân
dân ta và của triều đình phong kiến trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Đối với bài tập 1.2: Sau khi các em làm, giáo viên chữa và giúp học sinh
hiểu sâu hơn về một vấn đề lịch sử.
Ví dụ ở câu a: Trong SGK lịch sử lớp 8 - Bài 24 viết" Sau nhiều lần khiêu
khích, lấy cớ bảo vệ đạo Gia Tô, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta." Nếu
giáo viên không làm rõ nguyên nhân sâu xa của việc Pháp xâm lược Việt Nam
mà chỉ nói theo SGK thì khi học sinh làm bài tập này sẽ xác định đây là câu
đúng. Như vậy khi chữa bài giáo viên phải phân biệt cho học sinh rõ nguyên
nhân sâu xa Pháp xâm lược Việt Nam là do nhu cầu về thị trường, thuộc địa…
Còn việc bảo vệ đạo Gia Tô chỉ là cái cớ để thúc đẩy tiến trình xâm lược của
Pháp nhanh hơn mà thôi.
Tương tự ở câu d, học sinh có thể sẽ nhầm tưởng do có chiếu Cần Vương nên
mới nổ ra phong trào Cần Vương mà không hiểu được rằng lòng yêu nước, ý
thức chiến đấu dành độc lập, là gốc của mọi phong trào yêu nước của nhân dân
ta.
Bài tập 2: Xác định địa danh lịch sử
*Mục đích:
Học sinh nhớ các địa danh lịch sử
gắn với nội dung bài học nhưng phải
biết vị trí của các địa danh đó nằm ở
vùng nào, miền nào.
Sở dĩ tôi đưa ra dạng bài tập này là
vì trong thực tế, học sinh nhớ địa danh
lịch sử nhưng khi yêu cầu chỉ trên bản
đồ thì các em lại rất lúng túng.
Mặt khác tôi cũng muốn cung cấp thêm
cho các em biết cùng một địa danh lịch
sử nhưng ý nghĩa phản ánh lại khác nhau.
* Ví dụ: Ba Đình (Thanh Hóa)
là nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa Ba Đình
do Phạm Bành, Đinh Công Tráng lãnh
đạo. Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu
mưu trí dũng cảm làm cho thực dân Pháp
phải vất vả đối phó. Vì vậy chúng quyết tâm
xóa tên Ba Đình trên bản đồ Việt Nam.
Nhưng Ba Đình không những không bị xóa tên mà sau này nó còn được đặt
tên cho Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) - nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập
ngày 02 tháng 09 năm 1945. Như vậy học sinh sẽ nhớ lâu và hiểu sâu hơn về sự
kiện lịch sử ( khởi nghĩa Ba Đình) và địa danh lịch sử ( Ba Đình).
*Nội dung:
Xác định địa danh Lịch sử, bao gồm các địa danh sau: Huế, Đà Nẵng,Gia
Định, Hà Nội,Tân Sở, Biên Hòa, Vĩnh Long,Hà Tiên. Các địa danh liên quan
đến ba cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê, và cuộc
khởi nghĩa Yên Thế.
* Phương pháp tiến hành:
- Giáo viên treo bản đồ trống lên bảng. Trên bản đồ đã có sẵn các ký hiệu:
Địa danh tỉnh - thành phố.
Địa danh có cuộc khởi nghĩa.
- Học sinh quan sát kỹ bản đồ, ký hiệu ở từng vùng trong 2 phút. Sau đó
cho các em lên bảng viết tên địa danh vào các ký hiệu (mỗi em viết 4 địa danh)
Bài tập 3: Nhận diện nhân vật Lịch sử:
* Yêu cầu: Học sinh nhớ tên các nhân vật lịch sử, hình ảnh đặc điểm nhận
dạng tính cách nhân vật và đóng góp của họ đối với đất nước.
* Nội dung:
Trong giới hạn bài tập tôi chỉ đưa ra các nhân vật đã có ảnh trong sách giáo khoa
: Hoàng Diệu, Vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật, Phan
Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám.
Còn một số nhân vật khác thì yêu cầu học sinh về nhà sưu tầm ảnh
(Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Thanh Giản, vua Tự Đức).
* Phương pháp:
- Giáo viên phóng to các ảnh chân dung các nhân vật lịch sử (NVLS)
trong SGK thuộc thời kỳ này và chuẩn bị một số nam châm nhỏ để đính ảnh
vào tờ bìa lớn.
HOÀNG DIỆU ( 1829 - 1882)
HÀM NGHI (1872 - 1943)
TÔNTHẤT THUYẾT ( 1835 -1913)
NGUYỄN THIỆN THUẬT (1844 -1926)
(1847 -1895)
PHAN ĐÌNH PHÙNG
HOÀNG HOA THÁM ( 1858 -1913)
- Đính các ảnh vào tờ bìa lớn. Mặt khác viết sẵn tên nhân vật lịch sử vào
Hàm
một tờ giấy nhỏNghi
(Ví dụ:
- Cho học sinh bắt thăm, được đúng nhân vật
nào thì đến gắn tên vào dưới ảnh nhân vật đó
(theo vị trí dấu (?) ở hình minh họa bên): và trình
Ảnh
NVLS
Ảnh
NVLS
Ảnh
NVLS
?
?
?
Ảnh
NVLS
Ảnh
NVLS
Ảnh
NVLS
?
?
?
bày hiểu biết về nhân vật đó. Có thể cho 3 - 4 em
lên trình bày, còn NVLS nào nữa thì hướng dẫn
các em về nhà làm tiếp.
Giáo viên căn cứ vào phần trình bày của học sinh để bổ sung thêm hoặc
kể chuyện minh họa về nhân vật đó.
* Bài tập này cũng có thể chuyển sang dạng khác, đó là giáo viên đọc một
vài thông tin nổi bật giới thiệu về NVLS và yêu cầu học sinh cho biết "Ông là
ai?".
Ví dụ: Về nhân vật Phan Đình Phùng.
* Thông tin chính:
- Quê ông ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thi đỗ tiến sỹ, làm quan.
- Ông có tính cương trực, khảng khái; bị cách chức đuổi về quê; ông đã
hưởng ứng phong trào Cần Vương, mộ quân khởi nghĩa và trở thành người lãnh
đạo tối cao của khởi nghĩa Hương Khê.
- Ông nổi tiếng là người nhân hậu với nghĩa quân và nhân đạo với quân
giặc.
- Ông mất cuối năm 1895.
* Câu hỏi: Ông là ai?
Đáp án: Phan Đình Phùng
Tương tự như vậy với các nhân vật lịch sử khác, giáo viên cũng bằng cách
cho các em biết thông tin chính - đặt câu hỏi: Ông là ai? Học sinh tự trả lời.
Bài tập 4: Lập bảng tổng hợp.
* Mục đích:
Giúp học sinh ghi nhớ những nét cơ bản nhất về các cuộc khởi nghĩa và
dễ so sánh các cuộc khởi nghĩa với nhau, không nhớ lẫn lộn cuộc khởi nghĩa này
với các cuộc khởi nghĩa khác.
* Nội dung:
Lập bảng tóm tắt về các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
và phong trào nông dân Yên Thế.
*Phương pháp:
Hướng dẫn học sinh kẻ bảng theo mẫu sau, tự điền thông tin vào. Giáo
viên hướng dẫn mẫu một cuộc khởi nghĩa:
* Ví dụ:
Khởi nghĩa Ba Đình - Thời gian: 1886 - 1887/ Căn cứ: Nga
Sơn - Thanh Hóa/ Người Lãnh đạo: Phạm Bành, Đinh Công Tráng/ Cách đánh
chủ yếu: Phòng thủ.
Sau đó cho học sinh lên bảng điền thông tin đã làm v ào ch ỗ tr ống ( …)
trong mẫu sau:
Tên cuộc Khởi
Thời
Căn
nghĩa
gian
cứ
Ba Đình
……
……
Bãi Sậy
…..
…..
Hương Khê
…..
…..
Yên Thế
…..
…..
Bài tập 5: Tự luận về một vấn đề Lịch sử:
Người Lãnh
Cách đánh chủ
đạo
……
…..
…..
…..
yếu
……
…..
…..
…..
* Mục đích:
- Giúp học sinh kỹ năng phân tích, đánh giá và giải thích sự kiện lịch sử,
rèn luyện kỹ năng diễn đạt, lập luận, so sánh.
*Nội dung:
5.1. Căn cứ vào đâu để khẳng định rằng với hiệp ước Patơnot - (6.6.1884),
nước ta đã trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến?.
5.2. Vì sao cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1885 - 1913) lại tồn tại lâu hơn các
cuộc khởi nghĩa cùng thời?.
* Phương pháp: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm để thảo luận:
+ Nhóm 1 + 3: làm câu 5.1
+ Nhóm 2 + 4: làm câu 5.2
Sau đó cho đại diện các nhóm đứng dậy trình bày, hoặc giáo viên thu
phiếu và chấm nhanh kết quả.
* Kiến thức cơ bản của bài tập này là:
5.1: - Việt Nam mất quyền tự chủ trên phạm vi toàn quốc.
- Triều đình Huế chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp.
- Mọi công việc chính trị, kinh tế, ngoại giao của Việt Nam đều do
Pháp nắm, thực chất triều Huế chỉ là bù nhìn.
5.2: - Thành phần lãnh đạo là nông dân.
- Đánh giặc bằng nhiều cách: Du kích, vận động, hòa hoãn, bắt cóc
con tin.
- Dựa vào dân, được dân ủng hộ.
* Dựa vào nội dung bài tập này, giáo viên bình ngắn: Từ một nước phong
kiến độc lập, do thái độ đầu hàng từng bước đi tới đầu hàng hoàn toàn của Triều
Nguyễn mà nước ta đã trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, bị thực dân
Pháp đặt ách cai trị, đô hộ. Tuy nhiên nhân dân ta đã kiên quyết đứng lên kháng
chiến liên tục, bền bỉ, kéo dài để bảo vệ quê hương đất nước, làm chậm quá trình
xâm lược của thực dân Pháp. Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương
và phong trào nông dân Yên Thế đã chứng minh điều đó.
Liên hệ lịch sử địa phương Diễn Châu: Thời kỳ này có tiến sỹ
Nguyễn Xuân Ôn quê ở Diễn Thái là nhà nho yêu nước đã hưởng ứng chiếu Cần
Vương tập hợp lực lượng kháng chiến lâu dài. Nghĩa quân đánh nhiều trận ở
Yên Lý, Diễn Châu, Xã Đoài…Bị giặc mua chuộc nhưng ông vẫn không chịu
khuất phục…
Cuối cùng, giáo viên ra bài tập về nhà(...) và hướng dẫn chuẩn bị bài
sau(...)
C. KẾT QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG SKKN.
Với những cố gắng và sự chuẩn bị chu đáo của giáo viên và tinh th ần
học tập của học sinh, tôi thấy một tiết bài tập rất sôi nổi, hào hứng với các
em. Các em vẫn muốn làm tiếp nhiều bài nữa. Nhìn v ào không khí l ớp h ọc,
tôi hiểu rằng giờ học đã đạt được hiệu quả nhất định, không gò bó được
các em đón nhận nhẹ nhàng thoải mái.Kết quả khảo sát chất lượng năm học
2006 -2007:
8C
8D
8E
8G
Sĩ số: 45
Số
Tỉ lệ %
lượng
Sĩ số 45
Sĩ số: 45
Số
Tỷlệ %
lượng
Sĩ số: 49
Số
Tỷlệ%
lượng
Lớp
Điểm
Sốlượng
Tỷ lệ %
9
2
4,4
3
6,6
5
11
10
20,4
14
30,8
12
26,4
10
22
25
51
21
46,2
20
44
23
50,6
13
26,6
10
7
8
5
6
< 5.
17
37,4
10
22
7
15,4
1
Kết quả trên đã cao hơn nhiều (75% điểm TB trở lên) so với năm học
2005 - 2006 khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm (53% điểm trung bình trở
lên)
Năm học 2007 - 2008, tiếp tục áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này nhưng
thay đổi hình thức cho học sinh chơi trò chơi: "Đi tìm địa chỉ đỏ" (Bài tập 2);
"Giải mật mã lịch sử" (Bài tập 3), tôi thấy học sinh càng hào hứng, sôi nổi hơn
và nhiều em được tham gia làm bài tập hơn. Kết quả thi khảo sát cuối năm, số
học sinh đạt điểm khá giỏi tăng lên là 95 em - Đạt tỷ lệ 52% ( So với năm trước
là 43%); Điểm dưới trung bình có 20 em - chiếm 11% ( so với năm trước là
21%)
D - BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
* Nội dung: đầy đủ, bao quát; các dạng bài tập phong phú; Từ đó có thể triển
khai và nâng cao ở các dạng khác. Giáo viên không trực tiếp dạy Lịch sử khối 8
vẫn có thể vận dụng dễ dàng.
Tiết bài tập này có thể xem như một tiết ôn tập vì qua chữa bài, giáo viên đã
giúp học sinh nhớ lại kiến thức, hiểu sâu hơn một số khái niệm, nội dung Lịch
sử.
* Phương pháp:
2,0
-Trong tiết bài tập, giáo viên không phải dùng phương pháp tường thuật, miêu
tả sự kiện như tiết dạy học bài mới nhưng lại phải có phương pháp hướng dẫn
học sinh cách làm, cách giải, từ đó học sinh sẽ nhớ được lâu và có kỹ năng
nhuần nhuyễn hơn.
Trong phạm vi thời gian 45 phút, không thể đưa ra các dạng bài tập nhưng
chúng ta cần phải biết chọn dạng nào cho phù hợp với dung lượng kiến thức của
chương trình. Để cho tiết bài tập được thành công, tôi đã chuẩn bị chu đáo đồ
dùng trực quan. Những đồ dùng này đơn giản mà sử dụng được nhiều lần, rất
thuận tiện. Chẳng hạn ở bài tập "xác định địa danh Lịch sử ” : chúng ta đã có
sẵn bản đồ Việt Nam ( dạng trống); giáo viên chuẩn bị thêm các kí hiệu ( chấm
tròn đen, lá cờ đỏ) được cắt từ giấy màu có keo dính 2 lớp. Khi sử dụng chỉ cần
bóc lớp keo dán lên theo vị trí định sẵn là được. Ở bài tập "nhận diện nhân vật
Lịch sử ": tôi phô tô và phóng to các ảnh nhân vật; dùng một số nam châm nhỏ;
khi sử dụng thì đính vào bìa, khi không sử dụng nữa thì cất ảnh vào hồ sơ lần
sau dùng lại.
Thường xuyên nâng cao nhân thức cho học sinh về tầm quan trọng của học tập
bộ môn, thực hiện nguyên tắc " Học kết hợp với hành", bài tập phải được làm
thường xuyên sau mỗi bài học, chứ không phải chỉ làm trong tiết bài tập.
Tôi đã đặt tên cho các bài tập ( nhận diện nhân vật lịch sử; đi tìm địa chỉ đỏ;
hái hoa tri thức lịch sử) và giới thiệu ngay từ đầu tiết học nhằm kích thích trí tò
mò của học sinh muốn hiểu biết khám phá lịch sử, gây sự chú ý, cuốn hút đối
với các em trong suốt cả tiết học.
* Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm:
Mỗi bài học lịch sử đều hướng tới việc bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, thái
độ trách nhiệm của con người đối với dân tộc.
Qua tiết bài tập này, học sinh càng hiểu rõ được tinh thần trách nhiệm của
triều Nguyễn trong việc để mất nước: Ký hiệp ước, cắt đất, cầu hòa, triệt thoái
lực lượng kháng chiến ra khỏi các tỉnh, đàn áp phong trào nông dân( làm mất
chỗ dựa vững chắc). Mặt khác cũng thấy được khí thế, truyền thống chống giặc
ngoại xâm của ông cha chúng ta: " Bất tuân lệnh" triều đình, kiên quyết kháng
chiến đến cùng. Các cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng những tấm gương yêu
nước như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám…mãi mãi là niềm tự hào dân tộc
về tinh thần kiên trì, bền bỉ không chịu khuất phục trước kẻ thù. Truyền thống
yêu nước đã giúp cho nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp
giành độc lập dân tộc và bảo vệ tổ quốc.
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và đổi mới của ngành
giáo dục nói riêng, cơ hội cho giáo viên tự rèn luyện, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ ngày càng nhiều, cơ hội cho học sinh học tập cũng ngày càng được
mở rộng. Điều đó đặt ra cho mỗi thầy giáo, cô giáo phải thật sự yêu nghề, trăn
trở, tìm tòi sáng tạo, phải nắm vững kiến thức, tri thức khoa học để vận dụng
linh hoạt nhuần nhuyễn trong từng tiết học, từng lớp học, từng đối tượng học
sinh.
Học sinh càng được làm nhiều bài tập với sự hướng dẫn của thầy, cô giáo,
các em càng có kỹ năng hiểu và nhớ lâu kiến thức bộ môn. Từ đó chất lượng học
tập và kiểm tra cao hơn, tránh những tiêu cực trong thi cử. Đó cũng là mục tiêu
của cuộc vận động "2 không" của Bộ giáo dục đang phát động hiện nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn, và đón nhận những ý kiến đóng góp của các
anh chị và đồng nghiệp để giáo án, tiết dạy của mỗi chúng ta ngày càng hoàn
chỉnh, có chất lượng cao!
Diễn Trường, ngày 10 tháng 6 năm 2008
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Thị Oanh.
- Xem thêm -