TS NGUYỄN THÀNH NGỌC (Chủ biện)
TS NGUYỄN 'TOÀIUT-' ----DWflM
----TSHỌANỈ
ThS NGUYỄN PI
GIADTRINH
Viansvni
(DÀNH CHO SINH VIÊN CHUYÊNNGÀNH HUẤN LUYỆNTHỂ THAO
TRONG CÁC TRUÔNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO)
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA
THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH
LỜI NÓI ĐẨU
Võ cổ truyền là môn võ học, tỉnh hoa văn hóa của dân tộc Việt
Nam, nó được chân truyền từ đời này sang đời khác. Trải theo chiều
dài lịch sử, Võ cổ truyền đã có sự đóng góp rất lớn trong sự nghiệp
bảo'vệ vả xây dựng đất nước. Ngày nay Võ cổ truyền có phong trào
tập luyện rất mạnh không những ở Việt Nam mà còn phát triển ra
thế giới. Võ, cổ truyền được công nhận là môn thể thao thỉ đấu trong
các giải vô địch toàn quốc hằng năm, giải Cúp các câu lạc bộ toàn
quốc, Hội Khỏe Phù Đổng, Đại hội TDTT trong nước. Tháng 6 năm
2015, Liên đoàn Võ cổ truyền Thế giới được thành lập tại Hà Nội.
Hiện nay, Võ cổ truyền được trên 60 quốc gia trên thế giới tập luyện
và tham gia các hoạt động giao lưu thỉ đấu. Trong tương lai, nó sẽ trở
thành môn thể thao thi đấu chính thức ở các kỳ SEA GAMES, ASIAD
và Thế vận hội thế giới.
Võ cổ truyền đã được đưa vào dào tạo ở các trường Đại học Thể
dục Thể thao ở Việt Nam, chuyên sâu ngành huấn luyện thể thao
nhưng cho đến nay chưa có giáo trinh chuẩn thống nhất được biên
soạn một cách bàl bản để giảng dạy và làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên. Xuât phát từ nhu cầu đó, chúng tôi, các giảng viên môn
Vỗ cổ truyền thuộc bộ môn vỏ - Vật, Judo tiến hành biên soạn Giáo
trình Võ cổ truyền dành cho sinh viên chuyên ngành huấn luyện
thể thao.
Giáo trình này dành cho môn học với thời lượng 1050 tiết, 35 tín
chỉ, chia làm 8 học kỳ, gồm kiến thức cơ bản về thực hành và lý
thuyết huấn luyện cần thiết dành cho giảng dạy và huấn luyện môn
Võ cổ truyền, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho giảng viên, huấn luyện
viên, sinh viên hay những ai quan tâm dến Võ cổ truyền làm tài liệu
tham khảo, giảng dạy vả học tập. Ban biên soạn gồm các nhà khoa
học, chuyên gia, giảng viên, huấn luyện viên có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy và huấn luyện môn Võ cổ truyền.
Trong quá trình biên soạn, tập thể tác giả dù cố gắng, nhưng
không thể tránh những thiếu sót, kính mong quý Thầy, Cô, Huấn
luyện viên, các bạn đồng nghiệp góp ý để giáo trinh này ngày càng
hoàn thiện hơn.
BAN BIÊN SOẠN
DANH SÁCH HỘI ĐỔNG THẨM ĐỊNH
GSTS. LÊ QUÝPHƯỢNG
Hiệu trưởng Trưởng Đại học Thể dục Thể thao
TP Hồ Chi Minh
Chủ tịch Hội đổng
TS VŨ VIỆT BẢO
___
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học và CNTT
Trường Đại học Thể dụcThể thao TP Hồ Chi Minh
Phản biện 1
ThS NGUYỄN THANH BÌNH
Trưởng phòng Tổ chức - Cán bộ - Trường Đại học
Thể dục Thể thao TP Hồ Chí Minh
Phản biện 2
PGS TS. NGUYỄN HIỆP
Chủ tịch Hội đổng Khoa học
Trưòng Đại học Thể dục Thể thao TP Hổ Chi Minh
ủy viên
TS DƯƠNG THỊ THÙY LINH
Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học và CNTT
Trường Đại học Thể dục Thể thao TP Hổ Chi Minh
ủy viên Thư ký
5
PHÂN CÔNG THỰC HIỆN
CỦA CÁC TÁC GIẢ
Lời nói đầu: TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương I; Quá trình hình thành và phát triển Võ cổ truyền Việt
Nam - TS Phạm Đình Qúy
Chương II: Hệ thống kỹ thuật cơ bản và quyền thuật Võ cổ truyền
- ThS Trần Bửu Duyên, ThS Nguyễn Phi Phụng, ThS Bành Huỳnh
Quốc Hòa
Chương III: Hệ thống kỹ thuật thi đấu đối kháng Võ cổ truyền
- TS Hoa Ngọc Thắng, TS Phạm Đình Qúy, ThS Trần Bửu Duyên
Chương IV: Huấn luyện kỹ - chiến thuật trong môn Võ cổ truyền
- TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương V: Huấn luyện thể lực trong môn Võ cô truyên
- TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương VI: Huấn luyện tâm lý - ý chí trong môn Võ cổ truyền
- TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương VII: Các nguyên tắc huấn luyện trong võ cổ truyền
- TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương VIII: Lập chương trình, k ế hoạch, giáo án huấn luyện
trong Võ cổ truyền - TS Nguyễn Thành Ngọc
Chương IX: Phương pháp tuyển chọn và đào tạo vận động viên
Võ cổ tru yền - TS Quang Ngọc Thắng
Chương X: Luật thi đấu và phương pháp trọng tài trong Võ cô truyên
- ThS Nguyễn Phi Phụng, ThS Bành Huỳnh Quốc Hòa
6
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN VỐ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
M ục tiêu: Chương này giúp sinh viên nắm bắt khái quát quá trình
hình thành và phát triển môn Võ cổ truyền Dân tộc từ thời kỳ sơ khai cho
đến hiện tại, biết được ý nghĩa và tầm quan trọng của môn Võ cổ truyền
trong quá trình dựng nước và giữ nước của nước ta. Đặc biệt ngày nay môn
Võ cổ tryền đã trở thành môn thể thao dân tộc và môn thể thao thế giới,
có tầm quan trọng trong đời sống văn hóa của dân tộc.
Kỹ năng: Sinh viên được trau dồi và lĩnh hội kiến thức về tính lịch sử,
tính triết học và tính nhân văn trong môn Võ cổ truyền. Môn võ dân tộc
này được chân truyền theo chiều dài lịch sử dân tộc, được phát triển từ
thời kỳ sơ khai đến hiện tại, thể hiện được tinh thần yêu nước, giáo dục
truyền thống và lòng tự hào dân tộc. Sinh viên cần hiểu rõ ý nghĩa, vai
trò, nhiệm vụ của Võ cổ truyền trong giáo dục thể chất, đạo dức và nhân
cách của người Việt Nam.
I. VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM Ở THỜI KỲ s ơ KHAI
Theo dòng lịch sử và căn cứ các sự kiện, nhân vật lịch sử, các cứ liệu,
sách sử, hiện vật, các di chỉ về khảo cổ học, được thể hiện khá sinh động,
kể từ khi loài người xuất hiện trên đất nước Việt Nam và xuyên suốt cuộc
trường chinh dựng nước, giữ nước, đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc,
nhất là giai đoạn hình thành, phát triển Nhà nước Văn Lang - nhà nước
đầu tiên của Việt Nam, đã xác định: các Vua Hùng (nhà nước Văn Lang)
là Thủy Tổ khai sáng Võ dân tộc Việt Nam.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Lịch sử Việt Nam”: những di
tích xưa nhất về loài người sinh sông trên đất nước Việt Nam, được phát
hiện nhiều nhất ở vùng đất Hòa Bình. Những địa điểm khá quan trọng,
có nhiều dấu tích được phát hiện ở Sào Động, xóm Kham, Chiềng Xén,
7
Mường Khàng. Hầu hết những di vật đều nằm theo ba tầng, tầng thấp
nhất, tức xưa nhất, gồm những đồ đá cũ thô sơ. Đặc trưng nổi bật, là người
ta dùng những hòn dá cuội tự nhiên đập mạnh cho vỡ bớt một phần để có
thể có những quả dâm hay những quả ném, để dùng làm võ khí. Ngoài ra
cũng có những cái nạo, cái búa, cái rìu ngắn làm bằng đá cuội đẽo ở một
đầu. Đó là những kiểu đồ dá thô sơ, chế tạo hết sức vụng về và không theo
một khuôn mẫu nào cả.
Ở tầng giữa, thì phần lớn đồ dùng, võ khí để tự vệ, chống thú dữ vẫn là
đồ đá đẽo, nhưng sự chế biến có phần khéo hơn, nhỏ nhắn và nhẹ nhàng
hơn. Đến thời kỳ này, người ta đã bắt đầu biết phân biệt, lựa chọn nguyên
liệu và chế tác có phần biến hóa hơn.
Trong khi đó ở tầng trên, lại phát hiện nhiều đồ đá chế tác có phần tinh
vi hơn. Với những “vũ khí” thô sơ được làm bằng dá, nếu sống lẻ loi, con
người không thể dối phó nổi với thú dữ và nguy hiểm tự nhiên. Vì vậy con
người phải đoàn kết, quần tụ lại, giúp đỡ lẫn nhau để tự vệ và kiếm ăn,
nhất là trong những cuộc vây bắt thú nhỏ và săn đuổi thú lớn, như voi, bò
tót, tê giác, trâu rừng, hổ, gấu... Từ đây người Việt cổ cũng đã chế tác ra
các loại khí giới cần thiết, phù hợp với công việc săn bắt, bủa vây thú rừng,
ném, bắt, đâm cá dưới sông suối như: dao găm bằng đá đẽo, búa đá nhọn có
chuôi, búa đá hình thang có chuôi, đục bằng đá lưỡi cong, cuốc đá, rìu đá...
Khi bước sang thời kỳ đồ đá mới, những nhu cầu và đòi hỏi của con
người được nâng lên cao hơn. Vì vậy nên Công xã Nguyên Thủy cũng phải
có sự phân công lại lao động và dược tổ chức chặt chẽ hơn. Toàn bộ con
cháu sinh ra, đều ở trong thị tộc của mẹ và chỉ thờ phụng tổ tiên bên mẹ.
Con trai lấy vợ, phải gia nhập thị tộc bên vợ và vâng theo lệnh của bà Tôn
mẫu bên vợ. Nếu có ai trong thị tộc bị người ngoài giết hay xúc phạm, thì
toàn bộ thị tộc phải đứng lên báo thù, vì thế mà những cuộc báo thù kéo
dài từ đời này sang đời khác.
Để khai phá đất đai, mở rộng lãnh địa, bảo an quyền sống, giành lấy sự
độc tôn và khẳng định sức mạnh của mình, các thị tộc lân cận liên kết lại
với nhau thành bộ lạc, tổ chức luyện tập võ nghệ và phân công nhau chế
tác các loại binh khí thiết yếu, để chiến đấu và gìn giữ bộ lạc của mình.
Thị tộc thường gồm mấy chục đên mây trăm người và được coi là một tập
thể sản xuât, còn bộ lạc gồm mấy trăm đến mấy ngàn người là một tập
8
thể quân sự. Trong bộ lạc những người đàn ông, đàn bà mang binh khí
họp lại với nhau để cử ra người lãnh tụ cai trị, quân sự.
Theo các di khảo cổ và tương truyền: trong giai đoạn đầu, để hình
thành các động tác, các tư thế thích ứng trong việc phòng bị, di chuyển,
luồn lách, né tránh, tấn công tiêu diệt thú giữ và kẻ thù, người Việt cổ đã
mô phỏng, bắt chước những thao tác quen thuộc được lặp đi, lặp lại đến
thuần thục trong đời sống hàng ngày như: hái, lượm, săn, bắt, leo, trèo,
ném, phóng lao, phóng dao, bắn cung, nỏ... của người miền núi, các thao
tác kéo, đẩy, chèo, chống, bơi, lặn... của người miền biển và mang, vác,
chạy, nhảy, đâm, chặt, chém... của người miền xuôi. Đồng thời, từ thói
quen trong các thao tác sử dụng công cụ lao động, săn bắt thường nhật
như: cày, cuốc, phảng, câu liêm, búa, rìu, rựa, dao, giáo, mác, lao, nỏ, ná,
cung, kiếm... và từ những động tác mang tính tự vệ, cũng như khả năng
phản xạ có điều kiện của con người, khi bị kẻ thù hoặc thú dữ vây ráp,
tấn công.
Ngoài ra còn mô phỏng theo các tính năng di động, khả năng quan sát,
đặc điểm tấn công, luồn lách, né tránh, chống đỡ mang tính bản năng
của các loài động vật, mà con người thường tiếp cận. Trong sô đó, tố tiên
người Việt còn nghiên cứu phân định tính năng, đặc dị của từng loài, để
thích nghi với từng nhóm động vật, như: đối với nhóm có khả năng chạy,
nhảy, bay, di chuyển nhanh nhạy, linh ứng (hổ, sư tử, ngựa, mèo, khỉ, gà,
thỏ, chim đại bàng, chim phượng hoàng... ), nhóm có tính năng di chuyển
trên cạn, dưới nước thuộc dạng bò sát (trăn, rắn, cá sấu, thuồng luồng... )
và loại to lớn, khỏe mạnh (voi, tê giác, bò tót, trâu rừng, gấu...)
Các bộ lạc to lớn, có vũ lực hùng mạnh hơn thường tìm cách thôn tính,
cướp bóc của cải, sức lao động của các bộ lạc nhỏ lẻ, yếu hơn, buộc họ phải
trở thành kẻ nô dịch cho bộ lạc mình và từ đó các bộ lạc bị áp bức, bóc lột,
không còn con đường nào khác là phải tự trang bị võ lực, khí giới và cùng
liên kết lại với nhau, để chông trả, giành lấy sự sống và bảo vệ những
thành quả lao động, của cải vật chất do mình làm ra.
Chính vì vậy, nên tất cả các bộ lạc, dù mạnh hay yếu, dù kẻ chủ nô hay
người nô lệ, tất cả đều phải tự tìm tòi, nghiên cứu, để nâng dần những
khí giới thô sơ, những động tác võ, thế võ, cách đánh từ sơ đẳng, dơn lẻ
đã định hình trước đó, lên thành những thứ vũ khí đa năng, sắc bén hơn,
9
những miếng võ có sức nhanh, sức mạnh, biến hóa và công phá hữu hiệu
hơn, để nhanh chóng tiêu diệt đối phương.
Trong giai đoạn này, các nhà nước luôn chú trọng tăng cường tiềm lực
quân sự, tổ chức huấn luyện võ nghệ, rèn đúc, cải tiến các loại binh khí
tinh xảo, đa năng hơn, có tầm sát thương cao hơn. Bên cạnh đó, các bộ lạc
hiếu chiến và cả những tầng lớp chủ nô, quý tộc hiếu chiến cũng không
ngừng tập hợp lực lượng, thu phục những người giỏi võ, mua sắm, trang
bị khí giới và tổ chức luyện tập võ nghệ, để tiếp tục khống chê các bộ lạc
nhỏ lẻ, thế yếu, nhằm mở rộng lãnh địa, thu vén tài nguyên, áp chế nô
lệ, giành quyền thống trị lâu dài.
Đó cũng chính là lý do phát triển nhanh mạnh, rộng khắp các lò dạy
võ, đào tạo kỹ năng chiến đấu và hình thành các lò rèn, đúc, chế tác các
loại võ khí bằng sắt, đồng, như: giáo, đao, rìu, kiếm, trường thương, chỉa
ba cán dài, lăn khiên, dao găm, phi tiêu, xích sắt, chùy... ngày càng tinh
xảo, phong phú và đóng giữ vai trò thiết yếu trong việc giải quyết các mâu
thuẫn xã hội.
Ở thời kỳ này, ngoài các binh khí đánh gần cũng đã xuất hiện các loại
binh khí tấn công từ xa, như: cung, nỏ, mũi lao, mũi mác, mũi tên được
sản xuất rấ t nhiều. Thực tế vừa qua đã phát hiện đến vài vạn chiếc, với
những chủng loại mới lạ, mang tính sát thương cao, gồm: cung, nỏ cỡ
trung, cỡ lớn có bánh xe đẩy, nhiều mũi tên to, dài như mũi lao, mũi mác
và vô số các mũi tên khác nhỏ hơn, có hình lá hoa hồng, hình cánh én,
tên ba cạnh, tên ba cánh, m ặt tên lõm có trụ chuôi, dể khi bắn đi phát ra
âm thanh nghe đến rợn người.
Với đà thắng lợi và xu thế quân sự mạnh mẽ, trình dộ binh quyền, võ
lược, th ế nước đang ngày một dâng cao, dã tạo điều kiện cho các vương
triều kế tiếp, như: nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần... từng bước
tăng cường các thể chế chính trị, phát triển kinh tế, bảo tồn văn hóa,
củng cố quốc phòng, trong đó tập trung mở rộng hệ thống đào tạo, huấn
luyện binh lính, tiến hành xây dựng Điện Giảng Võ ở Thăng Long, để đào
luyện nhân tài võ học, xây dựng Xạ Đình ở phía nam thành Đại La, để
cho các võ tướng, võ quan, chỉ huy quân sự ngày đêm luyện tập võ thuật,
binh khí, phương lược tác chiến, bài binh, lập trận, nhất là kỹ thuật bắn
cung, nỏ, phi ngựa phóng lao, phóng phi tiêu.
10
Đồng thời, huy dộng tối đa mọi nguồn lực trong nhân dân, chủ động
đập tan mọi âm mưu xâm lược, đồng hóa, chia rẽ của kẻ thù, mở rộng các
trung tâm huấn luyện binh pháp, võ công, rèn luyện kỷ luật, thực hành
tác chiến, phương lược giữ thành, công thành, phá lũy, không chỉ cho các
lực lượng: Thủy binh, Bộ binh, Kỵ binh, Tượng binh, mà còn cho cả quân
cấm vệ và quân ở các địa phương...
Nổi bật dưới thời nhà Trần, tiêu biểu là Hưng Đạo Đại Vương với bộ óc
thiên tài quân sự của mình đã cùng với Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội vạch
ra đường lối lãnh đạo, phân tích tình hình, tiên đoán thời cơ, đánh giá
mức độ mạnh, yếu, hơn, thua giữa địch và ta, dựa theo các quy luật chiến
tranh: “ai biết dựa vào dân mà chống xâm lược, chống đô hộ, chống đồng'
hóa, không chỉ có trông cậy vào quân dội. Ai biết thực hiện chiến lược lấy
nhỏ thắng lớn, lấy yếu đánh mạnh, lấy ít đánh nhiều, trong diều kiện kẻ
thù lúc đầu đông, mạnh, quân ta lúc dầu ít, yếu... thì người đó lãnh đạo
cuộc kháng chiến giữ nước và cứu nước thắng lợi”.
Những bí pháp và quan điểm đã được các võ tướng vận dụng hết sức
linh hoạt, sắc bén, phù hợp với từng thế trận, từng hoàn cảnh và điều
kiện khác nhau, để đại phá và đại thắng đội quân hùng m ạnh Nguyên
Mông trong cả ba lần xâm chiếm nước Việt Nam, một dội quân mà sau
này hầu hết các sử gia của Việt Nam và của đôi phương đều đánh giá là
thiện chiến nhất, võ nghệ cao siêu nhất, có nhiều võ tướng tài và vũ lực
hùng mạnh nhất của phương Bắc lúc bấy giờ.
Về sau, các quan điểm này cũng đã được các nhà nghiên cứu võ học
tiền bối, vận dụng triệt để vào quá trình xây dựng các tiêu thức, định
lượng, phương lược chế ngự, xuất chiêu, tấn công, phòng thủ, nhất là trong
trường hợp một người ở thế bất lợi, phải địch lại nhiều người hoặc một
người phải chống lại nhiều người có trang bị khí giới, ở những địa hình,
th ế trận hiểm yếu.
Như vậy, chứng tỏ trong thời kỳ này, chiến tranh giữa các bộ lạc, giữa
nhà nước với các phần tử chống đối, giữa giai cấp chủ nô, quý tộc với
những người thống khổ, bần cùng và tấ t nhiên là cả với giặc ngoại xâm,
với bọn cơ hội trong nước, đã liên tiếp diễn ra khắp mọi nơi, với quy mô,
tính chất ngày càng rộng lớn, khiến cho hầu hết các bên tham chiến đều
phải tập trung rèn luyện võ nghệ, tầm sư học võ, nâng cao trình độ võ
11
lược sử dụng thành thạo các loại binh khí, tuyển mộ, thu phục nhưng
người can trường, giỏi võ đứng về phía mình, để tạo uy lực, sức mạnh và
n h a n h chóng áp chế, tiêu diệt đối phương.
II. VÕ C ổ TRUYỀN VIÊT NAM PHÁT TRIEN t h ờ i k ỳ c ậ n đ ạ i
Theo sách: ••“Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài” của Alexande de Rhodes:
“Dưới thời Lê - Trịnh, việc tập luyện võ nghệ đã trở thành phổ biến,
thường xuyên, dặc biệt là trong quân đội (mỗi tháng phải tổ chức đánh
võ hoặc đấu vật ít nhất hai lần để nâng cao trí lực, the lực, vo lược, san
sàng chiến đấu), con cháu các võ quan, võ tướng phải vào trường học vo,
học vật, bắn nỏ, đánh kiếm, vừa bắn cung, vừa phóng lao vừa phóng ngựa,
quăng dây thừng vào vật di động, rèn binh pháp và sư dụng mọt so mon
binh khí chiến đấu cần thiết, từ lúc còn nhỏ (khoảng 11, 12 tuổi) cho đến
khi thành tài, dể kế tục sự nghiệp của cha ông... .
Vào khoảng giữa cuối thế kỷ XVII, nhà buôn Samuel Baron viet trong
cuốn “Địa chí Vương Quốc Đàng Ngoài”: “Tướng sĩ nhà Lê phần đông là
người tinh thông võ lược, họ bơi lội, chèo thuyền, phi ngựa, phóng lao, bắn
rất giỏi, nhất là thuật bắn cung tên, ná trận. Tôi nghĩ rằng, họ ít thua
kém ai, họ vượt xa nhiều nước khác về tài sử dụng binh khí chiến đấu
và khả năng bắn cung tên rất thiện xạ. Ngoài ra, quân đội thời Lê còn
thường xuyên tổ chức thi đấu võ, vật, tập đánh trận trên cạn, dưới nước,
tập xung trận bằng Tượng binh, bằng ngựa chiến đã thuần dưỡng. Trong
những cuộc tập trận, đấu võ, vật, dua thuyền chiến, nhà vua thường ngồi
trên bành voi trắng to cao hoặc thuyền rông, cùng đoàn tùy tùng khích lệ
tinh thần ba quân, tướng sĩ. Nhà vua rất coi trọng việc binh cơ, võ trận,
bắn súng hỏa mai, bắn cung tên cỡ lớn có bịt đồng và tẩm thuốc độc ở
đầu mũi tên”.
Điều thú vị, có một tay xạ thủ người Bồ Đào Nha, biết các binh sĩ nhà
Lê rất giỏi tài bắn súng nên ngỏ lời thách đâu. Binh sĩ nhà Lê băn trước,
viên đạn xuyên thủng chính giữa hồng tâm của tấm bia. Người băn sau
biết không thể thắng nổi, nhưng để cứu vớt danh dự, đã bắn viên đạn
không đầu và nói là đạn đã chui qua lỗ của viên dạn trước.
Những dẫn chứng trên đây, đã cho thấy các chiến binh, dũng sĩ của
Việt Nam không chỉ uyên thâm về võ nghệ, sử dụng thành thạo nhiều
12
chủng loại binh khí đặc dụng, mà còn có biệt tài bắn cung, nỏ, bắn súng
thiện xạ, làm cho đối phương phải kiêng sợ.
Nhìn chung, trong lịch sử dân tộc, hầu hết các vương triều đều đề cao
vai trò, vị thế của Binh pháp, Võ kinh, Võ trận, ra sức đào luyện, phát
triển võ, vật trong quân đội, kêu gọi mọi người dân tự rèn đúc, trang bị
binh khí, khí cụ, xây dựng phòng tuyến chiến đấu, để sẵn sàng chống
giặc. Chú trọng mở rộng các chính “Tịnh vi dân, động vi binh”, nhằm
khuyến khích mọi người hăng say luyện tập võ thuật chiến đấu, dể khi có
họa xâm lăng lập tức biến cả nước thành một “pháo dài” vững chắc, mọi
người đều là lính có võ nghệ cao cường, sức lực dẻo dai, dũng mãnh, thi
đua giết giặc, giữ nước.
Theo các di chỉ và sách “Sử học bị khảo”: trong triều đình, từ vua đến
các võ tướng, võ quan, vương hầu, hoàng tử đều phải thông thạo binh
pháp, uyên bác võ công, ơ kinh thành, nhà vua thường tổ chức các hội tỷ
thí hoặc biểu diễn võ-vật, đánh phết. Ngoài ra, còn tổ chức các cuộc huyết
đấu giữa hổ với voi, giữa các dũng sĩ võ nghệ siêu quần với hổ dữ đã bẻ bỏ
nanh vuốt, để rèn luyện dũng khí, can trường, mưu lược.
Dưới thời vua Lê Uy Mục và một số hoàng đế trước đó, cũng rấ t chú
trọng việc tổ chức cho voi với hổ tử chiến, để nghiên cứu, rút tỉa những
“tuyệt kỹ võ công” và các thế võ “dặc dị” của các “cao thủ” hàng đầu về
sức lực, cương mãnh và cực kỳ hung dữ này, để chuyển hóa thành các độc
chiêu, biệt th ế cực hiểm của các loại hình võ chiến đấu.
Đặc biệt, đến thời vua Lê Dụ Tông (1705 - 1728), nhờ đất nước thịnh
trị, muôn dân sống trong thanh bình, no ấm nên triều đình dã tập trung
xây dựng các thể chế hành chính, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Trong đó, chú trọng tăng cường tiềm lực quân sự đi đôi với việc nghiên
cứu, kế thừa, đúc kết và nâng cao chất lượng các loại hình Võ cổ truyền
Dân tộc Việt Nam, phát triển thành nền võ học chân truyền, theo một hệ
thông đào tạo và quy trình thống nhất, từ Võ Lý, Võ Lễ, Võ Đạo, Võ Kinh,
Võ Trận, Võ Cử đến Võ Thuật, Võ Y (Y V õ).... dể vừa đưa vào huấn luyện
kỹ - chiến thuật tác chiến trong quân đội, vừa đưa vào các trường đào tạo
con em hoàng tộc, các cấp chỉ huy quân sự, chức sắc trong bộ máy công
quyền, tạo tiền đề vững chắc với dầy đủ các thiêt chê, thiêt yêu, tiến tới
thành lập Trường Võ học (năm 1721).
13
Để rồi đúng nửa thế kỷ sau đó (1771 - 1802), nhà Tây Sơn với chính
sách “chiêu hiền, đãi sĩ” thu phục nhân tâm, trọng dụng nhân tài nên
ngay từ ngày dầu tụ nghĩa, Nguyễn Nhạc (người có công lớn trong việc
đặt nền móng, gây thành thế, gây dựng lực lượng và có nhiều quyết sách,
mưu lược trong thời kỳ đầu dựng nghiệp) và sau này là Nguyễn Huệ, bằng
tài năng và đức đệ của mình, đã quy tập được phần lớn các anh hùng,
hào kiệt đại võ công, danh sĩ, võ sư hàng đầu của cả nước cùng đồng tâm,
hiệp lực, dốc sức xây dựng căn cứ, đào tạo nghĩa quân, tổ chức huấn luyện
võ thuật, rèn đúc khí giới, phát động tân công trên quy mô rộng lớn và
nhanh chóng “giải phóng” nhiều phủ, thành trong cả nước, lập nên những
chiến tích huy hoàng trong lịch sử dân tộc.
Nhờ các chính sách đối nhân, xử thế khôn khéo, tài tình, sáng suốt,
thuận ý trời, hợp lòng dân, nên chỉ nói riêng về lĩnh vực quân cơ, võ học,
vương triều Tây Sơn không những được các nhà chiến lược về binh pháp,
quân sư đại tài, văn võ hào kiệt, hết lòng bày mưu, giúp sức, trong đó
tiêu biểu có thầy giáo Hiến (Trương Văn Hiến), người gốc Nghệ An, thầy
Đinh Văn Nhưng, người gôc Ninh Bình, rồi tiếp đến có các đại danh sư võ
nghệ tuyệt luân, như: Lương Văn Chánh, người gốc Phú Yên, nổi tiếng về
môn trường kiếm và đại đao, Diệp Đình Tòng, siêu đẳng về môn trường
côn, xích chùy hai dầu và pháp thuật tầm kinh điểm huyệt, Trần Kim
Hùng biệt danh “người sắt”, bởi trong giao đấu các loại kiếm, giáo, vật
nhọn bằng kim khí đâm không thủng và không ai chịu nổi cú đấm của
ông, Trần Kim Báu (thân phụ của hai nữ võ tướng lừng danh Trần Thị
Lan, Trần Thị Huệ, dưới trướng đô đốc Bùi Thị Xuân) kiệt xuất về quyền
pháp, binh lược và có biệt tài đánh trường kích, nhuyễn tiên, Phan Văn
Lâm (bạn học cũ của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc), người có sức lực phi
thường, võ công thượng thừa, từng hạ thủ nhiều đại danh sư cự phách của
phái Thiếu Lâm, khi sang nước Việt Nam muốn “bá chủ đồ vương”, thường
ỷ tài thách đấu với ông, trong đó có lần đã nhận lời thách đấu với các võ
tướng, hảo hán người Hoa tham gia nghĩa binh Tây Sơn
Đặc biệt, ngay sau khi lên ngôi, hoàng đế Quang Trung (Nguyễn Huệ)
một m ặt đã trân trọng kế thừa, đúc kết những tinh hoa tuyệt tác với bí
kíp võ công của dân tộc, mặt khác cho tập hợp các nhà nghiên cứu võ học
và các bậc danh sư về binh pháp, võ lược, để xây dựng hoàn chỉnh các thể
14
chế, chuẩn mực, sách sử, giáo trình về võ học, đưa vào giảng dạy bắt buộc
trong quân đội và phổ cập rộng rãi trong nhân dân.
Trong giai đoạn này, nhà Tây Sơn dặc biệt coi trọng những người giỏi
võ, khuyến khích mở trường dạy võ, dựng đài đấu võ, diễn võ, tổ chức hệ
thống thi cử, nghiên cứu, đúc kết, xây dựng các quy trình, quy phạm, thể
chế hết sức nghiêm ngặt, để đào luyện nhân tài, chọn những người giỏi
võ cất nhắc vào các phẩm bậc, chức vị chỉ huy quân sự hoặc sung vào các
đội quân tinh nhuệ.
Nhà Tây Sơn còn trọng dụng và tưởng thưởng những người giỏi võ như
người giỏi văn. Người thi đỗ các phẩm bậc về võ, khi "vinh quy, bái tổ”
được các chức sắc và dân làng tổ chức đón rước long trọng, được mọi người
kính phục, họ hàng, làng xóm thơm lây. Những người biết võ được cấp giấy
“thông hành” để khích lệ và ưu tiên xung vào nghĩa quân khi cần thiết.
Các tư liệu cổ và sách “Miêu tả íịch sử xứ Đàng Trong” đều đề cập:
“Hầu hết các binh lính Tây Sơn đều rất thông thạo binh pháp, võ nghệ
cao cường và rấ t trung thành với cấp chỉ huy. Khi xung trận họ thường
sử dụng nhiều loại binh khí độc hiểm, mới lạ và các tướng luôn tin tưởng
vào tài nghệ võ công, trình độ sử dụng binh khí của họ, nhất là khả năng
đánh cận chiến, đánh trên lưng ngựa, lưng voi, dưới chiến thuyền, đầm
lầy, sông nước...”.
Nhờ các quyết sách và đòn bẩy thiết thực này mà các võ tướng, võ
quan, nghĩa sĩ, võ sư, các dòng tộc giỏi võ, làng võ, vùng đất võ ở nhiều địa
phương trong cả nước tăng trưởng nhanh chóng, lớn mạnh không ngừng,
nhất là vùng đất Bình Định, nơi phát tích và nổ ra cuộc khởi nghĩa nông
dân Tây Sơn, không chỉ nam giới mới tài giỏi võ nghệ, mà ngay cả “phái
yếu” cũng nô nức luyện rèn, theo võ nghiệp và lập nhiều công lớn.
Sau này, đích thân hoàng đế Quang Trung chủ xướng, nâng cao vai trò,
vị th ế Võ cổ truyền Dân tộc Việt Nam lên hàng “Quốc võ”, đánh dấu bước
ngoặt lịch sử quan trọng, khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc, đã từng
làm cho quân thù khiếp sợ và vinh danh nền Võ học Việt Nam lên ngang
tầm với thời đại.
Đây được coi là giai đoạn phát triển đỉnh điểm, toàn diện và sâu rộng
nhất của nền võ học chân truyền dân tộc, bao gồm cả một hệ thống đồ sộ,
khép kín, từ Võ Lý, Võ Lễ, Võ Đạo, Võ Kinh, Võ Trận, Võ Cử, Võ Miếu
15
đến Võ Thuật, Võ Y (Y Võ), Võ Nhạc... theo một chỉnh thể thống nhất,
liên hoàn hóc hiểm, đầy biến hóa, mang tính chiến đấu cực kỳ sâu sắc và
tinh thần nhân văn cao cả, được tổ chức giáo dục, đào tạo, huấn luyện một
cách chuẩn mực, bài bản, dược phổ biến rộng khắp, trở thành biểu tượng
và sức mạnh .diệu.kỳ của dân tộc.
Những mốc 'son -chói lọi và dấu ấn huy hoàng, rực rỡ này sẽ mãi mãi
đi vào lịch sử oai hùng của dân tộc, như bản anh hùng ca bất diệt, đầy tự
hào không chỉ th ế hệ hôm nay, mà cả những th ế hệ mai sau cũng không
bao giờ quên dược.
III. VÕ CỔ TRUYỀN VIỆT NAM PHÁT TRIEN t h ờ i k ỳ h i ệ n đ ạ i
Trong giai đoạn nhân dân cả nước, vừa cùng lúc chiến đấu đánh đuổi thực
dân Pháp và kế tiếp theo dó là đế quốc Mỹ, vừa dựng xây miền Bắc, tập
trung chi viện chiến trường miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Tuy hết
sức gian khổ và ác liệt, nhưng vô cùng vẻ vang, trong đó đã có hàng vạn nhà
hoạt động võ thuật, võ sư, võ sĩ khắp mọi miền đất nước, nối tiếp truyền
thống thượng võ hào hùng của dân tộc và hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ dại: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không
có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước”, đã hăng hái rèn luyện “đôi vai ngàn cân, dôi chân vạn
dặm”, ngày đêm luyện tập võ thuật, trang bị khí giới, xông pha nơi chiến
trận, góp phần đánh đuổi ngoại xâm, giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
Các phong trào “khỏe vì nước”, “khỏe đến kháng chiến, kiến quốc”,
“luyện quân, lập công”, “luyện võ chiến đấu...” được nhân dân ta, nhất là
bộ đội, công an, thanh niên, học sinh hưởng ứng nhiệt liệt, tạo thành cao
trào thi đua rầm rộ chưa từng có.
Đặc biệt, trong thời kỳ đầu chống Pháp, đất nước ta còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn, một đất nước còn nghèo, phải đương đầu với các cường
quôc lớn, có vũ lực và quân đội hùng mạnh hơn ta gấp nhiều lần, nhưng
nhờ kê thừa truyền thông quật khởi, chiên đấu chống ngoại xâm của tổ
tiên và lòng yêu nước vô bờ bến, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, ý chí tự
lực, tự cường, muôn người như một đứng lên đánh đuổi quân thù, nêu cao
dũng khí, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng của dân tộc: “Thà hi sinh tấ t cả,
n h ất quyết không chịu làm nô lệ, không chịu m ất nước”.
16
Vì vậy nên lúc đầu, chỉ có một Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng
quân, chưa đầy 40 người, với vũ khí thô sơ, nhưng vừa gan góc đánh bại
nhiều đội quân nhà nghề thiện chiến, vừa xây dựng lực lượng nhanh
chóng lớn mạnh, trở thành Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng và
liên tiếp chiến thắng các đế quốc hàng đầu thế giới.
Những “bí quyết” của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại này, còn được thể
hiện trên nhiều yếu tố, phương diện về Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa,
về sự tổng hợp của các lực lượng quân sự, chính trị, binh vận, ngoại giao,
về lòng dân, ý Đảng, để tạo nên sức mạnh phi thường: “Biến không thành
có; biến khó thành dễ. Lấy ít địch nhiều; lấy nhỏ đánh lớn; lấy yếu chống
mạnh; lấy nhu chế cương; lấy thô sơ thắng hiện đại; lấy chính nghĩa diệt
hung tàn...”.
Trong giai đoạn đầu, khi vũ khí còn thô sơ, ít ỏi, quân lực chưa đủ
mạnh, không cân sức, thì yếu tố sử dụng các bí quyết võ công, các chủng
loại binh khí chiến đấu đặc dụng của tổ tiên truyền lại và chiến thuật
đánh cận chiến, đánh giải vây, ứng cứu, phương cách điểm huyệt để hạ
thủ hoặc gây mê man bất tỉnh, bắt sống quân địch là hết sức cần thiết,
thường được các chiến sĩ của Việt Nam tận dụng triệt để, hiệu nghiệm
trong những tình huống có thể.
Theo sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh với Thể dục Thể thao” và hồi ức
của ông Vũ Kỳ - Thư ký của Bác Hồ: Ở chiến khu Việt Bắc, trong những
năm đầu kháng chiến chông Pháp, Bác Hồ tuy bận trăm công nghìn việc,
nhưng Bác vẫn thường xuyên luyện tập thể dục và võ chiến đấu, dể tăng
cường sức khỏe, sẵn sàng chiến đâu, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân lâu dài...
Trong thời kỳ này, Võ cổ truyền Dân tộc Việt Nam, nhất là những bài
võ thuật chiến dấu, các đòn thế đánh cân chiến, thuật bắt sống địch, phá
vây, diệt ác, chống càn được ưu tiên phát triển sâu rộng trong các lực
lượng vũ trang, dân quân, du kích, đế đáp ứng yêu cầu kháng chiến, kiến
quốc. Trong đó, Bác Hồ và các cán bộ, chiến sĩ rấ t thích tập bài võ “Ngọc
trản ngân đài, Tả hữu tấn khai” và bài “Lão mai quyền”, hai bài võ chính
thông của dân tộc, mang dặc tính chiến dấu sâu sắc, dược tạo dựng trên
nền bài hát “Bình minh trên chiến khu”, phỏng theo bài “Anh hùng xưa”
hùng tráng.
17
Tiếp nối truyền thống đánh giặc, cứu nước, nhiều võ sư, võ sĩ đã đem cả
tâm lực, trí tuệ của mình trực tiếp tham gia huấn luyện, tổ chức đào tạo
vo thuật trong quân đội, trong lực lượng công an, dân quân tự vệ du kích
đạa phương, nhất là bộ đội đặc công, biệt động thành, cảm tử quân... bằng
những đòn thế bí hiểm, các thuật điểm huyệt cao siêu, để trong những
tình huống bí m ật áp sát mục tiêu, chiến đấu trong lòng địch hoặc đánh
cận chiến, nhất thiết phải sử dụng cả những đòn độc chiêu, nhằm đánh
thẳng vào “tử huyệt”, để vừa nhanh chóng tiêu diệt kẻ thù, không gây
tiếng động lớn, vừa không để kêu cứu, làm lộ mục tiêu.
Đây được gọi là chiến thuật “Đánh nhanh, rút em, khong đe lại dau
vết”, đã nhiều phen làm cho quân thù khiếp nhược, suy giam tinh than
chiến đấu, nhất là các cuộc đột kích chớp nhoáng vào các sao huyẹt, được
bố trí phòng ngự hết sức cẩn m ật của dịch quân.
Trên các chiến trường miền Nam, nhất là ở các thành pho, trung tam
đầu não, như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế, c ầ n Thơ, nhiều đơn vị tinh nhuệ,
các chiến sĩ trinh sát, biệt động thành, quân báo, tình báo của Việt Nam,
đã sử dụng thành thạo các bí quyết võ công, các phương lược điểm huyệt
trực diện vào các huyệt đạo của đối phương, làm cho chúng bất tỉnh hoặc
hôn mê sâu dể dl bề khống chế, khóa tay, tước vũ khí, tài liệu, bắt sống
hoặc tiêu diệt khi cần thiết. Trong đó có nhiều cuộc trừ gian, diệt ác ngay
trên các đường phố, giữa ban ngày, làm cho kẻ thù vô cùng hoang mang,
lo sợ.
Nhiều võ sư kỳ cựu đã tham gia huấn luyện dân quân, du kích, bộ đội
và cùng với nhân dân rèn đúc khí giới, chê tác, đao, kiêm, mã tâu, giáo,
mác, gậy tầm vông vót nhọn để đánh địch, tiêu biểu có thầy Thích Thiện
Hoa (tên th ật Huỳnh Trí Đức), Phạm Tăng Đại, Nguyễn Phương Danh,
Huỳnh Khánh Hội, Lê Văn Biểu, Quách Văn Kế, Huy Thu, nữ võ sư kỳ cựu
Phạm Cô Gia (tên th ật Phạm Nghi Gia), thây Mai Huê Kỳ, Trương Can,
Dương Anh Tại, Trần Hưng Quang, Nguyễn Kiều, Nguyễn Tiếp, Nguyễn
Thiếp, Bảo Truy Phong và nhiều võ sư, võ sĩ trung dũng, yêu nước trên
mọi miền đất nước.
Riêng ở vùng đất võ Bình Định, một tỉnh không lớn, nhưng co đen hơn
hai sư đoàn Nam Triều Tiên và sư đoàn I Không Kỵ của Mỹ, cùng nhiều
đơn vị thiện chiến khác, với vũ khí, khí tài cực kỳ tôi tân, võ cong cực ky
18
điêu luyện, nhưng cuối cùng đã bị quân và dân “Miền đất võ” đánh cho
tan tác, buộc phải co cụm, m ất nhuệ khí chiến đấu. Nhiều sĩ quan có đẳng
cấp võ thuật khá cao của Nam Triều Tiên (Hàn Quốc), trong những ngày
đầu đến đóng quân ở Bình Định, thường tỏ ra hống hách, kiêu ngạo đi
tìm những võ sư, võ sĩ ở các làng quê để thử tài cao thấp (vì chúng biết
nơi đây là “chiếc nôi” của võ Việt), nhưng thực chất là dể uy hiếp, khuất
phục tinh thần chiến đấu của người dân nơi đây.
Ở miền Bắc, Võ cổ truyền Dân tộc Việt Nam dược chú trọng đúng mức,
được khuyến khích tập luyện khắp mọi nơi và trở thành tiêu chí thi đua
trong các lực lượng vũ trang, công an, dân quân, tự vệ và thanh niên, sinh
viên, học sinh. Tiêu biểu có phong trào năm môn thể thao quốc phòng
“Chạy, nhảy, bơi, bắn, võ”, được nhanh chóng lan tỏa, từ thành thị đến
tận các vùng xa xôi, hẻo lánh, như thể tiếp thêm sức mạnh, lòng quả cảm,
nghị lực và ý chí chiến đấu bền bỉ củá quân và dân miền Bắc, góp phần
cùng cả nước đánh thắng thù trong, giặc ngoài, thống nhất đất nước.
Trong thời điểm này, các dòng võ nước ngoài cũng đã ồ ạt tràn vào
nước ta, nhất là các tỉnh, thành phố miền Nam, bằng nhiều con đường
khác nhau (giao thương, trao đổi văn hóa, quân đội viễn chinh), trong đó
có các môn Quyền anh, Taekwondo, Thiếu Lâm Tự, Judo, Karatedo, được
truyền bá mạnh mẽ nhất. Một sô môn võ còn được ưu ái đưa vào giảng dạy
trong các trung tâm huấn luyện cảnh sát, các trường đào tạo sĩ quan, hạ
sĩ quan của chê độ cũ, nhưng cuôì cùng vẫn không thể làm phai mờ hoặc
đồng hóa nổi các giá trị đích thực của Võ cổ truyền Dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn đánh đuổi thực dân Pháp và đ ế quôc Mỹ
Trong giai đoạn này, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ, đã tiến
hành cuộc chiến tranh xâm lược vô cùng tàn bạo và hủy diệt trên toàn bộ
lãnh thổ nước Việt Nam, đồng thời luôn tìm mọi thủ đoạn để thực hiện
chính sách “bại hoại dân tộc”, làm cho dân Việt Nam suy nhược về thể
xác, hoảng loạn về tinh thần, để chúng dễ bề thôn tính, đồng hóa dân
tộc ta thêm một lần nữa (trước đó là các đế chế phong kiến tập quyền
phương Bắc).
Quyết không chịu làm nô lệ, không cam phận nhìn thực dân Pháp giày
xéo, giết hại nhân dân, nhiều nhà yêu nước, trong đó có các anh hùng, hào
kiệt võ công xuất chúng đã bí mật chiêu tập nghĩa sĩ, ngày đêm rèn luyện
19
võ nghệ, sử dụng vũ khí thô sơ và binh khí hữu dụng, như: kiếm, dao, mã
tấu, chỉa ba, giáo, mác, dao găm, cung, nỏ, ná trận và cả gậy tầm vông vạt
nhọn... để đánh đuổi kẻ thù, giữ làng, giữ nước, cứu giúp nhân dân thoát
cảnh gông cùm, nổ dịch.
Ở Nam BậỊ/tiêu biểu có các anh hùng dân tộc, mưu trí, võ lược kinh
luân, dũng khí ngút trời, quyết chống giặc đến cùng.
Cùng với Nam Bộ, phong trào kháng chiến chống Pháp nhanh chong
lan rộng ra khắp nơi trong cả nước. Riêng ở Hà Nội va cac tinh phía Bac,
nhiều tấm gương trung liệt, anh hùng quả cảm, võ nghệ vô song dã lãnh
đạo nghĩa quân đồng tâm hiệp lực, quyêt sông mái VƠI ke thu.
’ Ở miền Trung, công cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra dữ dội, quyết
liệt ngay từ những ngày đầu chúng dặt chân xâm lược nước Việt Nam,
nhiều anh hùng, nghĩa sĩ, trong dó có các võ sư, võ sĩ võ lược cao thâm,
khí phách hièn ngang, dã tập hợp lực lượng, huân luyện vo cong, ren đuc
vũ khí thô sơ (súng kíp, súng hỏa mai, súng trường kieu 1874 , hoa phao,
kiếm dài, mã tấu, dao găm, đinh ba, cung, nỏ, tên, phi tiêu...) giang cho
chúng nhiều đòn chí tử.
Ngoài ra, các anh hùng, hào kiệt, văn thân, tho hào, gia lang yeu nươc,
võ nghệ tài giỏi, có thuật bắn cung, nỏ, ná trận, băn đá, phóng dao, lao,
phi tiêu cực kỳ điêu luyện của đồng bào các dân tộc Mường, Thái, H Mong,
Dao, Bana, Ẻ Đê, Gia Rai, Xơ Đăng, Chăm... cũng đã vùng lên đánh đuổi
giặc Pháp khắp nơi, gây cho quân địch nhiêu tôn thât.
Trước hiểm họa bị thôn tính của hai cường quốc lớn (Pháp, Mỹ) đầy
tham vọng và hiếu chiến, nên đất nước Việt Nam không còn giải pháp nào
khác hơn, là phải dồn hết mọi nhân - tài - vật - lực, đồng thời tranh thu
sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè và những người yêu chuông hòa bình trên
th ế giới, để đánh đuổi quân thù, giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Ở miền Bắc, ngoài việc tổ chức giảng dạy võ thuật trong một số trường
học trọng điểm, còn phát dộng phong trào luyện tập võ nghệ trong thanh
niên, học sinh và các tầng lớp nhân dân, trong đó sôi nổi nhất là cao trào
rèn luyện 5 môn thể thao quốc phòng, gồm: Chạy, nhảy, bơi, băn, võ, đê
sẵn sàng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ miền Bắc và chuẩn bị sức
lực, ý chí, võ công, sẵn sàng “xẻ dọc Trường Sơn, chi viện chiên trương
miền Nam ruột thịt.
20
Ở chiến khu Việt Bắc, các cán bộ, chiến sĩ của ta cũng đã hăng say
luyện tập võ chiến đấu, trong đó phần nhiều thường tập các bài “Lão mai”
và bài “Ngọc trản ”, được cách tân trên nền các bài hát hùng tráng, tạo
nguồn cảm hứng, sảng khoái cho người tập, do các ông Đoàn Bá Tứ, Lê
Văn Hiến và một số võ sư tham gia kháng chiến lúc bấy giờ biên soạn, để
vừa tăng cường sức khỏe, chống chọi với bệnh tật, hiểm nguy, vừa nâng
cao dũng khí, ứng phó hữu hiệu, sẵn sàng chiến dấu, tiêu diệt quân thù,
nhất là những tình huống đánh cận chiến. Ngoài ra, còn chú trọng luyện
tập các bài kiếm pháp, dao thuật, côn thuật, các đòn thế đánh bằng dao
găm, mã tấu, các bài võ tay không chống binh khí, phương cách ứng cứu,
giải vây... do thầy Sáu Na và các võ sư kỳ cựu người miền Nam tập kết
truyền dạy.
Trong thời kỳ này, Bác Hồ của Nhân dân Việt Nam tuy bận trăm
công, nghìn việc, nhưng cũng đã dành thời gian rèn luyện thân thể, trong
đó thường xuyên luyện tập võ thể dục và võ chiến đấu, nhằm nâng cao
sức khỏe, để hoạt dộng cách mạng, phục vụ nhân dân lâu dài. Những
năm chiên tranh ác liệt, Bác thường sử dụng chiếc “gậv Trường Sơn”
mỗi khi đi chiên dịch. Bởi chiếc gậy không chỉ có tác dụng tăng thêm sự
vững vàng, thăng bằng trong những lúc băng đèo, vượt suối, mà nó còn
là “vũ khí đa dụng” như thể cây “trường côn” vô cùng hữu ích, để phòng
khi hữu sự.
Rõ ràng, Bác Hồ không chỉ uyên thâm về võ học, mà còn thông hiểu
tường tận các quy luật, nguyên lý, kỹ thuật vận hành của kiếm pháp, nhất
là các thê kiêm chiến đấu sắc bén của dân tộc. Bởi binh khí của Việt Nam
là binh khí chiến đấu, nếu lưỡi kiếm đưa đi mà con m ắt không dõi theo,
thì chẳng khác nào người mù vung kiếm vào hư không (một đường kiếm
không hồn, không chuyến tải được tâm lực, thần thái vào bài kiếm) và
không thế biêt được lưỡi kiếm di đâu, đến đâu, thì còn gì là dường kiếm
chiến đấu sắc bén của dân tộc nừa.
ơ miền Nam, thực dân Pháp và sau này là đê quốc Mỹ, luôn tìm mọi
cách để chia 1'ẽ, ngăn cấm, làm suy vong hoặc biến dạng (mất dần bản
sắc) nền võ học chân truyền của dân tộc ta, nhằm “lái” Võ cố truyền Dân
tộc Việt Nam theo chiêu bài “chính trị”, phục vụ mưu đồ “Việt Nam hóa
chiến tranh” và “dùng người Việt đánh người Việt” của chúng.
21
- Xem thêm -