Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Giáo trình luật lamã

.PDF
100
20
76

Mô tả:

TRƯỜNG OẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI GIÁO TRÌNH NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI • • • # Giáo trình LUẬT LAMÃ ■ NHÀ XUẤT BẢN CỔNG AN NHÂN DÂN HÀ NÔI - 2003 Chủ biên ThS. NGUYỄN MINH TUẤN Biên tập TS. PHẠM CÔNG LAC Tập thể tác giả 1. TS. PHÙNG TRUNG TẬP Qiươiig I, II 2. TS. PHẠM CÔNG LẠC Chương III, IV 3. ThS. NGUYỄN MINH TUẤN Chương V, VII 4. TS. NGƯXỂN THANH TRÌ Chương VI, VIII 34 (V)4 - 300/1568 CAND - 2003 Lời giới thiệu Cùng với sự ra đời của Nhà nước Lamẫ cổ đại, hệ thông pháp luật Lamã củng được hình thành và phát triển. Đây là hệ thông pháp luật hoàn chỉnh nhất của Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Việc nghiên cứu Luật Lamã có ý nghĩa quan trọng đối với sinh viên luật, giúp cho sinh viên hiểu thêm về nguồn gốc của nhà nước và pháp luật. Qua việc nghiên cứu và tim hiểu Luật Lamã giúp sinh viên nắm bắt đưỢc những vấn đề cơ bản về lý luận của Luật dân sự, hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự. Để giúp cho sinh viên học tập và nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật nói chung, về luật Lamã nói riêng, Tô bộ môn Luật dân sự Khoa tư pháp Trường đại học Luật Hà Nội đã biên soạn giáo trinh Luật Lamã. Giáo trình này được biên soạn dựa trên các giáo trinh Luật Lamã của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô, Ba Lan, các công trinh nghiên cứu của các luật gia Lamã cổ đại và một số tài liệu trong nước. Mặc dù đã cố gắng trong việc biên soạn, nhưng đây là lần đầu tiên Tô bộ môn cho ra mắt giáo trinh này nên chắc chắn còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận đưỢc sự đóng góp ý kiến của hạn đọc đ ể giáo trình này ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn và giới thiệu giáo trình với bạn đọc. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI CHƯƠNG I KHÁI NIỆM CHUNG VỀ LUẬT LAMÃ i * I. KHÁI NIỆM VÊ CÁC CHÊ ĐỊNH CỦA LUẬT PHÁP LAMÃ 1. K h á i n i ệ m v à lư ợ c s ử h ì n h t h à n h , p h á t triể n n h à n ư ớ c L am ã cổ đ ại Cùng vói sự tan rã của xã hội nguyên thủy là sự xuất hiện xã hội có giai cấp. Từ khi có của cải dư thừa, đời sống mỗi gia đình và ngoài xã hội đã có nhiều sự đổi thay, đàn ông đảm nhiệm những công việc nặng nhọc như cày, bừa, làm thủy lợi, làm dân binh... dần dần trỡ thành trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định mọi việc, con cái đã bắt đầu mang theo họ của cha và gia đình phụ hệ thay thế gia đình mẫu hệ thời công xã thị tộc. Sự mất bình đẳng trong gia đình giữa chồng và vợ, cha và con đã xuất hiện. Trong mỗi thị tộc, ngưcd có địa vị đã lợi dụng chức phận để chiếm đoạt một phần sản phẩm của cả thị tộc cùng với sự nắm quyền điều hành thị tộc. Những người nắm quyền đó đã trở thành những giàu có và xã hội nguyên thủy đã bắt đầu tan rã, nhường chỗ cho xã hội mới, xã hội có giai cấp của thời cổ đại. Đất đai ở Lamã vừa hạn hẹp lại vừa thiếu mầu mỡ, phần lóíi là đất ven đổi khô và cằn. Khi đồ sắt xuất hiện, trổng trọt mới có hiệu quả. Trồng trọt phát triển, chế rượu nho là nghề cổ truyền của Lamã. Dân Lamã đã xuất khẩu rượu nho để đổi lương thực ở các nước phương Đông. Nghề thủ công ở Lamã phát triển mạnh và thương nghiệp phát triển theo. Dân Lamã mang các sản phẩm sản xuất được đi bán ở các vùng dân cư khác ven Địa Trung Hải và mua lương thực ở nước ngoài về. Tiền tệ đã ra đời, mỗi thành bang đều có đúc tiền riêng. Mặc dù ra đời muộn hơn các quốc gia phương Đông, nhưng Rôma đã nhanh chóng giàu mạnh hơn. Do sự phát triển sản xuất, phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc. Giai cấp quý tộc chiếm giữ nhiều ruộng đất và nô lệ nên có khả năng mở rộng sản xuất, tích lũy nhiều sản phẩm. Nông dân vốn có ít ruộng, phải vay nợ và khi không trả được nợ đã biến thành những nô lệ. Chủ nô là giai cấp bóc lột chủ yếu ở Lamã, nô lệ đa số là người nước ngoài, số đông là tù binh bị bắt và bị bán làm nô lệ. Họ là các công cụ biết nói của chủ nô. ở Rôma vào năm 500 trước công nguyên, chế độ cộng hòa được thiết lập, vua Tarcvinha bị phế truất, quyền hành trong nước do một hội đồng đại biểu quý tộc là Viện nguyên lão nắm giữ. Viện nguyên lão có quyền định ra những chính sách hành chính, ngân sách, ngoại giao, tôn giáo. Viện nguyên lão cử ra hai quan chấp chính đứng đầu nhà nước Lamã. Bên cạnh các quan chấp chính còn có các quan "bảo dân" lúc đầu là 2, sau là 10 người, họ được tham gia viện nguyên lão, có quyền giám sát mọi chủ trương có liên quan đến quyền lợi của người bình dân. Sang thế kỷ thứ IV trước công nguyên, Rôma bắt đầu bành trướng, xâm lược các bộ tộc láng giềng, trở thành một đế quốc rộng lớn. Nền cộng hòa bị lung lay và khủng hoảng trầm trọng khi Xeđa thiết lập chế độ độc tài quân sự. Vào năm 45 trước công nguyên, Xêđa toàn thắng trở về Rôma cướp chính quyền, thủ tiêu nền cộng hòa. Xêđa nắm trong tay mọi quyền hành, nền Đế chế thực sự ngự trị ở Rôma vào năm 30 trước công nguyên. Nhà nước Lamã phát triển qua các thời kỳ và qua các chế độ sau: - Thời kỳ đế chế trước năm 500 trước công nguyên. - Thời kỳ cộng hòa từ năm 500 trước công nguyên đến năm 44 trước công nguyên. - Thời kỳ đế chế độc tài từ năm 30 trước công nguyên trở đi. Nhà nước Lamã không những là một nhà nước vững mạnh về kinh tế, mà còn phát triển mạnh về văn hóa. Dựa trên cơ sở chữ viết của các nước, cư dân Lamã đã xây dựng nên hệ thống chữ cái đofn giản và khoa học, là nền tảng cho chữ viết của nhiều quốc gia sau này. Người Rôma ban đầu sử dụng 20 chữ cái, sau tăng lên 23 chữ, gọi là chữ La tinh. Người Lamã cũng đã phát triển ra hệ chữ số, ngày nay gọi là "số Lamã". Các chữ cái của Rôma gồm: A, B, c , D, E, F, G, H, J, I, K, L, M, N, o , p, Q, R, s, T, u , V, X, Y, z. Những chữ số Lamã gồm: I, II, III, IV, V, VI, VII, VIII..., L = 50, c = 100, M = 1000. Lamã còn là cái nôi sinh ra nhiều học giả uyên bác về triết học, văn học nghệ thuật. Cùng với các nhà sử học của Hy lạp, các nhà sử học của Rôma đã tập hợp tư liệu, phân tích, trình bày có hệ thống lịch sử một nước hay một cuộc chiến tranh. Hê-Rô-Đốt, Taxít đã trở thành những cha đẻ của nền sử học cổ đại của Hy Lạp và Rôma. 7 ở Lamã cổ đại, những giá trị tư tưcmg liên quan đến nhà nước và pháp quyền đã được tích lũy trong điều kiện phát triển cao. Nhiều học giả rất tiêu biểu về pháp luật là Xi-XêRôn (106 - 43 TCN) và Pô-ly-bi (201 - 120 TCN) đều là người Lamã. Họ đại diên cho chế độ Lamã coi nhà nước Lamã là một cộng đồng pháp lý và là nhà nước của dân, là trật tự chung, riêng nô lệ không được coi là dân. Quan điểm của hai ông là tán thành hình thức nhà nước hỗn hợp, kết hợp các giá trị của các chế độ quân chủ, quý tộc và cộng hòa nhằm hạn chế sự tiếm quyền và thoái hóa quyền lực. 2. Những cơ sở của luật tư pháp Lamã Như đã trình bày ở phần 1, Lamã là một quốc gia vào thế kỷ thứ VII trước công nguyên (TCN) và tồn tại đến thế kỷ thứ VII sau công nguyên. Theo truyền thuyết về sự hình thành Lamã, thì ban đầu là sự nghiệp của một số thị tộc La tinh và cứ 100 thị tộc liên hợp thành một bộ lạc. Sau đó bộ lạc Xabelian sáp nhập vào (khoảng 100 thị tộc). Bộ lạc thứ ba gồm những phần tử khác nhau cũng tương ứng với 100 thị tộc. Do vậy, 300 thị tộc ban đầu đã thành lập được ba bộ lạc. Và theo cơ cấu cứ 10 thị tộc lập thành một bào tộc, và 10 bào tộc (curia) lập thành một bộ lạc (Tơri). Thị tộc của người Lamã ở những thời kỳ đầu của thành Lamã đã tồn tại chế độ tài sản đều là của chung thị tộc, các thành viên trong thị tộc có quyền thừa kế của nhau, chế độ phụ quyền đã hình thành. Con cháu ứiuộc nữ hệ đã mất quyền thừa kế. Sự phân hóa xã hội càng sâu sắc vào thế kỷ VI TCN thông qua cuộc cải cách của vua Xer-vi-tu-li. Theo vỊ vua này, cơ cấu công xã Lamã theo nguyên tắc tài sán - lãnh thổ. Tầng lớp quý tộc và bình dân vẫn sống trong cùng một công xã. Xã hội thị tộc 8 của người Lamã được quản lý bằng ba cơ quan gồm: Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân, và "vua" (Rex). Viện nguyên lão (Sênat) là những thủ lĩnh của 300 thị tộc hợp thành, do vậy số lượng thành viên của viện nguyên lão là 300 người. Viện nguyên lão là cơ quan có quyền lực tối cao, có quyền quyết định mọi công việc quan trọng của nhà nước Lamã. Viện nguyên lão có các quvền thảo luận trước về các đạo luật, có quyền phê chuẩn hoặc phủ quyết những nghị quyết của đại hội nhân dân. Cơ quan quyền lực thứ hai của người Lamã là đại hội nhân dân (Đại hội Curi), là đại hội của tất cả đàn ông của 300 thị tộc và mỗi người thể hiện V muốn của mình bằng một lá phiếu trong đại hội. Đại hội của các bào tộc có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước Lamã như tuyên chiến hay hòa bình, xét xử, tế lễ và bầu ra một ông vua (Rex) trong số người đại diện cho bào tộc. Người làm vua không được cha truyền con nối và có thể bị bãi miẻn trong đại hội nhân dân. Vua (Rex) chỉ được hiểu theo nghĩa "thủ lĩnh" quân sự của ba bộ lạc ngưòd Lamã và quyền hành không bao trùm như các vua sau này. Lãnh thổ Lamã ngày càng được mở rộng, do các cuộc chiến tranh xâm lược mà dân cư được tăng lên. Dân Lamã còn do người ở các nơi khác di cư đến, dân cư của các vùng bị chinh phục và phần nhiều là các miền La tinh. Tất cả những thần dân mới này của nhà nước Lamã đều ở ngoài các thị tộc, bào tộc và bộ lạc cũ. Họ không thuộc Populus Romanus (dân Lamã chính thống). Họ có ruộng đất, tự do thân thể, phải nộp thuế, phải đi lính nhưng họ không có chức vụ, không được tham gia đại hội nhân dân (đại hội của các bào tộc), không được chia đất đai do nhà nước chiếm được, họ là tầng lớp bình dân (Plebs). Vào thời vua Xer-vi-tu-li và theo vị vua này thì tất cả đàn ông có nghĩa vụ cầm vũ khí, xã hội Lamã được chia thành 6 đẳng cấp, tùy theo số tài sản của họ. - Đẳng cấp thứ nhất gồm những người có mức tài sàn trên 100.000 đổng axơ (axơ làm bằng đổng có khối lượng 327,5 gam, và được viết tắt là AS); - Đẳng cấp thứ hai, là những người có từ 75.000 axơ đến dưới 100.000 axơ; - Đẳng cấp thứ ba, gồm những người có từ 50.000 axơ đến dưói 75.000 axơ; - Đẳng cấp thứ tư, gồm những người có từ 25.000 axơ đến dưới 50.000 axơ; - Đẳng cấp thứ năm, gồm những người có từ 11.500 axơ đến dưới 25.000 axơ; Còn đẳng cấp thứ sáu là những người đàn ông ít của cải nhất được miễn làm nghĩa vụ quân sự và miễn đóng thuế. Sự phân chia đẳng cấp trên tạo điều kiện cho những người giàu có chiếm được đa sô' phiếu trong đại hội nhân dân. Đại hội nhân dân là đại hội các Centurie (Comitia Centuriata), thì những ngưòi công dân đều đứng theo biên chế nhà binh thành từng đội vào các Centurie, mỗi Centurie khoảng 100 người và là một đơn vị có quyền biểu quyết. Sô' lượng Centurie được phân bổ đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất cung cấp 80 Centurie; đẳng cấp thứ hai cung cấp 22 Centurie; đẳng cấp thứ ba cung cấp 30 Centurie và đẳng cấp thứ sáu cũng cung cấp Centurie của mình để giữ thể diện. Các kỵ sĩ gổm những công dân giàu có cũng cung cấp 18 Centurie, vậy tổng Centurie là 193, số phiếu quá bán phải là 97. Nhưng sự mất bình đẳng trong quá trình bầu cử đã xẩy ra, tính dân chủ chỉ là giả hiệu vì theo số lượng Centurie đã 10 là 98 phiếu'''. Do vậy có thể kết luận đại hội nhân dân chỉ nhằm tạo quyền lực dựa trên tính chất của dân chủ giả hiệu và những người giàu có trong xã hội luôn chiếm được đa số phiếu trong đại hội nhân dân. Thông qua đại hội nhân dân, tổ chức Centurie là một hình thức mới đã thay thế đại hội cũ trước đó được hình thành theo tổ chức của bào tộc (Curie). Mọi quyền lợi chính trị của đại hội cũ là của Curie (bào tộc) đều chuyển sang đại hội mới của Centurie. VỊ trí của những Curi và những thị tộc hợp thành Curie vì thế mà bị hạ xuống hàng những đoàn thể tư nhân và tôn giáo. Theo số đầu phiếu của Centurie trong đại hội nhân dân thì 3 bộ lạc của các thị tộc cũ đã bị loại ra khỏi cơ cấu nhà nước và thay vào đó là 4 bộ lạc khu vực và được phân chia theo lãnh thổ ở bốn khu khác nhau trong thành Rôma, mỗi bộ lạc ở một khu và được hưởng những đặc quyền chính trị. Nhà nước Lamã cổ đại tổn tại vào khoảng những năm 616/615 TCN đến 578/577 trước công nguyên. Chỉ đến khi trục xuất được vua thứ bảy là Tarvinha kiêu ngạo, kẻ đã tiếm đoạt vương quyền thực sự và khi vua (Rex) bị thay bằng hai thủ lĩnh quân sự là quan chấp chính cùng có quyền lực giống nhau, thì chế độ mới hình thành và phát triển. Rôma trở thành chế độ cộng hòa vào năm 510 509 trước công lịch. Và lịch sử của nước cộng hòa Lamã đã trải dài trong suốt 500 năm. Bản chất của nhà nước cộng hòa Lamã là cộng hòa chiêm hữu nô lệ. Quyền lực của nhà nước Lamã đã được thay thế bằng quyền lực của hai thủ lĩnh quân sự gọi là quan chấp chính có nhiệm kỳ một năm và được bầu từ tầng lớp quý tộc. Hai vị quan chấp chính được gọi theo nhiều tên khác nhau qua các thời kỳ: thời kỳ đầu họ được F. Ẵngghen, nguồn gốc của gia đinh, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nxb. Sự thật, H. 1961, tr, 193 - 194. 11 gọi là Magistratus, sau đó gọi là Praetor và cuối cùng là Consul. Magistratus là hệ thống quản iý nhà nước thống nhất của nhà nước cộng hòa Lamã. Magister là tên gọi chung cho các quan chức trong cả hệ thống magistratus. Các magister này được phân thành các loại sau (theo thứ bậc): 1. Consul - hai quan chức tối cao của hệ thống quản lý nhà nước, chuyên nắm giữ quyền lực tối cao trong các vấn đề quân sự (tuyển quân, cầm quân đi chinh chiến...), triệu tập và chủ trì các phiên họp của hội đổng tối cao và viện nguyên lão... 2. Praetor - Các quan chức được coi là phó cho hai Consul, nhưng trên thực tế lại là các quan chức trực tiếp thực hiện quản lý điều hành các quan chức trực tiếp thực hiện quản lý điều hành đất nước (bỏfi vì hai Consul thường xuyên mang quân đi chinh chiến xa), thực hiện mọi chức năng quản lý của Consul khi Consul vắng mặt như: triệu tập họp hội nghị và viện nguyên lão, quản lý mọi mặt trong nước, ban hành văn bản pháp luật, xét xử, xử phạt... 3. Censor - Các quan chức kiểm duyệt thực hiện chức năng quản lý dân số, phân chia dân số theo các Centuria và Tribus, phân loại công dân theo đẳng cấp, độ tuổi, tài sản, quản lý danh sách các thành viên viện nguyên lão... 4. Edill - Các quan chức bảo an, thực hiện chức năng giám sát trật tự công cộng, chống hỏa hoạn, giám sát việc cung cấp lương thực cho thành phố, quản lý việc buôn bán (bằng cách ban hành các Edicta)... 12 5. Quaestor - Các nhân viên trợ lý giúp việc cho các Consul trong các lĩnh vực xét xử hình sự, quản lý ngân sách và lưu trữ quốc gia. 6. Các Magister thanh tra chuyên giám sát hoạt động của các Magister chuyên trách trên. Đại hội nhân dân là đại hội của các Centurie đã biến đổi về chất và thành phần, cơ cấu khác biệt so với hội đồng trưởng tộc và hội nghị nhân dân thòi kỳ cổ đại 616/615 đến 578/577 trước công nguyên. Số lượng Centurie được phân bổ theo đẳng cấp đã quyết định thắng cử hay thất cử trong việc bầu đại biểu vào đại hội nhân dân. Có thể kết luận, đại hội nhân dân trong chế độ cộng hòa chiếm hữu nô lệ ở Lamã là đại hội của tầng lớp quý tộc. Nhưng Senat vẫn là cơ quan trung ương của Lamã cộng hòa. Senat có quyền quyết định công việc đối nội và đối ngoại của nhà nước Lamã. Đến giữa thế kỷ thứ IV trước công nguyên, quyết định lập pháp của đại hội nhân dân cũng đặt dưới sự phê chuẩn và thông qua Senat. Lịch sử của cộng hòa chiếm hữu nô lệ Lamã là những cuộc đấu tranh gay gắt giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân xung quanh quyền lợi chính trị và ruộng đất. Mâu thuẫn giữa 4 bộ lạc khu vực ở Rôma với các đoàn thể tư nhân và tôn giáo, tầng lớp bình dân trong xã hội đã không thể dàn hòa và có nhiều nguy cơ xảy ra những xung đột giai tầng trong xã hội ngày càng cao hơn. Vào giữa thế kỷ thứ V, tầng lớp bình dân ở Lamã đã bỏ noi cư trú để đi tìm những vùng đất khác nhằm tránh sự o ép của tầng lớp quý tộc. Những cuộc di dân lớn đã diễn ra. Nhà nước Lamã đã đứng trước nguy cơ bị suy yếu vì lực lượng tt-ong quân đội chủ yếu được tuyển lựa từ tầng lớp bình dân. 13 Để ngăn chặn tình hình mất ổn định trong quan hệ xã hội ở Nhà nước Lamã, vào năm 450 TCN Đại hội nhân dân đã được triệu tập lần thứ hai tại Aventille (Aventinus). Các thành viên của đại hội yêu cầu viết luật hành văn thay vì từ trước vẫn sử dụng tập quán của người Lamã để giải quyết những tranh chấp trong xã hội. Do nguyên nhân trên, một ủy ban đặc trách đã được đại hội nhân dân thành lập với nhiệm vụ soạn thảo ra các điều luật ờ hình thức văn bản. ủy ban đặc trách soạn thảo pháp luật gồm 10 người (Desemvir), gồm 5 ngưòi đại diện cho tầng lớp bình dân và 5 người đại diện cho tầng lớp quý tộc. ủ y ban này đã soạn thảo ra các điều luật được tập hợp thành 12 bảng^'^ và phổ biến công khai tới từng người dân Lamã được biết. Luật XII ra đời như một sự đòi hỏi và nhu cầu của xã hội Lamã, nhằm giải quyết kịp thòi những tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội Lamã thời kỳ đó. Đồng thòi nó như một giải pháp kịp thòd làm giảm bớt những xung đột về lợi ích giữa các giai tầng của nhà nước Lamã. Luật Lamã thực sự là công cụ bảo vệ mọi quyền, lợi ích của tất cả mọi người sống ở Lamã có quốc tịch Lamã trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước Lamã. Luật XII bảng là một công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền về tài sản, về nhân thân của công dân Lamã. Luật XII bảng của nhà nước Lamã là kết quả của hệ thống quá trình chuyển hóa các tập quán, các quy ước, các thói quen Viê' bảng (tableau) hiện nay chưa có nguồn sử liệu đáng tin cậy, do vậy khái niệm vê' "bảng" có nhiều quan điểm khác nhau. Có học giả cho rằng luật La Mã cổ đưỢc khắc vào 12 bảng bằng đá, người khác lại cho rằng 12 bảng đồng. Nhưng có nhiều người lại cho rằng không nên hiểu bảng là vật chất mà phải hiểu "bảng" như chương, phần, khoản và luật XII bảng tương tự như 12 phần của luật. 14 của người Lamã lên thành các nguyên tắc có tính hệ thống bắt buộc đối với mọi công dân Lamã trong các quan hệ phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật. Các tập quán của người Lamã tổn tại trong xã hội Lamã là tập quán về chiếm hữu, sử dụng đất đai và nô lệ. Gia đình Lamã được hình thành theo đúng nghĩa của từ này và là hệ quả của sự tan rã tổ chức công xã - thị tộc trước đó. Gia đình Lamã như một đơn vị xã hội nhỏ trong quan hệ về đất đai về chiếm hữu nô lệ cùng các tài sản khác. Do vậy, Luật XII ra đời như một nhu cầu của xã hội Lamã và nó là chuẩn mực pháp luật buộc mọi người công dân Lamã phải tuân theo và được bảo vệ theo đúng nội dung của nó đã được ủy ban soạn thảo luật XII công bố. Hệ thống những nguyên tắc xử sự giữa người với nhau trong quan hệ xã hội của chế độ tư hữu Lamã - chế độ chiếm hữu nô lệ đã là một chuẩn mực để đánh giá công bằng hay không công bằng trong một quan hệ nhất định. Cũng như mọi chế độ, luật Lamã luôn mang bản chất của giai cấp thống trị và bảo vệ lợi ích của tầng lốfp giàu có trong xã hội. Nguyên tắc công bằng chỉ được áp dụng mang tính tưcmg đối mà thôi: Khái niệm "công lý", "đúng", "hợp lý" mà trên thực tế con người hay sử dụng trong khi tự giải quyết những tranh chấp cũng được nhắc tơí như một đức tin. Tuy nhiên, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thòd Lamã đã phản ánh một xã hội tư hữu tiến bộ, vãn minh vào bậc nhất so với các quốc gia khác tồn tại cùng thời. Luật Lamã cổ chỉ áp dụng đối với công dân Lamã (Civitas), người có quốc tịch Lamã. Vào thời cổ đại, danh dự của công dân Lamã như một biểu tnmg của niềm tự hào cho những ai cư trú ở Lamã. Do vậy, khi có tranh chấp phát sinh 15 người Lamã được yêu cầu xét xử theo luật ius civile hay còn gọi là luật Quiritium luật dành riêng cho công dân Lamã“\ Luật dành riêng cho công dân Lamã (ius civile) có nội dung khác biệt so với luật dành cho tất cả công dân trên lãnh thổ Lamã kể cả dân ngoại lai gọi là ius gentium, biến thái của luật ius civile. Hơn nữa, luật ius civile còn có nội dung khác biệt so với nội dung các quy phạm pháp luật của quan tòa, ius honororium. Do vậy, luật Lamã cổ đại là sự tổng hợp của ba hệ thống luật: ius civile (luật Quirít); ius gentium và ius praetorium (luật của các quan) - (tương ứng với các nghĩa: luật dân sự cho người có quốc tịch Lamã, luật vạn dân và luật của quan). Các iuật trên song song tổn tại trong ba thế kỷ đầu công nguyên kể từ thời kỳ prinxipat^^^ và chúng có ảnh hưởng lẫn nhau. Hệ thống pháp luật dân sự Lamã cổ đại được xây dựng phù hợp với các quan hệ xã hội Lamã đương thời có sự phân biệt tư cách chủ thể của các quan hệ pháp luật cụ thể. Luật gia Gai (Gaius) đã đánh giá khi nghiên cứu hệ thống luật Lamã cổ: "Mọi người đều tuân theo luật và tập quán. Họ đều có hai loại quyền, quyền do địa vị của họ mà có và quyền con người mà ai cũng có. Bởi lẽ luật là ý chí của các công dân nên được gọi là luật dân sự (ius civile). Những chế định của ius civil dựa trên những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân, quan hệ tố tụng phát sinh từ thực tế đời sống xã hội mà được ban hành. Do vậy, nội dung của ius civile Quirít (Quiritỉum) luật chỉ áp dụng cho riêng công dân La Mã, Quiritium^^ là tên một quận trung tâm trong La Mã. Thời kỳ Prinxipát, tiếng Latin: Principatus nguồn gốc từ "princeps" có nghĩa là đầu tiên, người chỉ huy (cầm đầu). Vào thời đại chủ nô ở Rôma quân chủ thì quyền lực trên tnực tế tập trung vào một người gọi là prìncipatus - người đứng đầu Nghị viện. Chế độ Principat tồn tại từ năm th ứ 27 TCN đến năm 193 SCN. 16 luôn luôn không theo kịp những quan hệ thực tế ngày một phát sinh đa dạng, phức tạp trong xã hội Lamã. Những quy định trong Luật XII bảng không thể đáp ứng kịp những nhu cầu ngày một thay đổi trong chính các quan hệ xã hội về phạm vi và tính chất. Những hạn chế đó của ius civile đã là một căn cứ để có biện pháp khắc phục phù hợp với chính những đòi hỏi của thực tế. Do vậy, sự ra đời của luật vạn dân (ius gentium) là một tất yếu và đã là một động lực cần thiết cho sự phát triển hệ thống luật Lamã cổ đại. lus gentium đã góp phần hoàn thiện theo hình thức bổ sung những quy phạm khổng được quy định trong ius civile trong việc điều chỉnh những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân giữa cồng dân Lamã và ngưòi không phải là công dân Lamã. Chính vì vậy, mà ius gentium qua thời gian tổn tại đã được thừa nhận là một bộ phận cấu thành ius civile. Ngoài những, chế định của ius civile và ius gentium quyết định của quan chấp chính cũng được coi là chuẩn mực pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể mà luật civile không quy định. Cơ sở quyết định của quan chấp chính dựa trên án lệ và dần dần được thừa nhận là luật. lus civile, ius gentium và ius praetorium vào thời hoàng đế lustinian (thế kỷ VI SCN) được hợp nhất thành một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó ius gentium phát triển mạnh hơn cả. Ngày nay, nghiên cứu luật Lamã cổ chủ yếu dựa trên sự thống nhất có hệ thống của ius civile, ius gentium và ius praetorium và được coi là những cơ sở của luật dân sự Lamã cổ đại. Những chế định của luật Lamã cổ đại bao gồm các chế định về chủ thể trong quan hệ về tài sản, quan hệ về nhân thân, quan hệ về tố tụng. Trong đó chủ thể của từng 17 quan hệ còn được luật Lamã cổ quy định riêng như quan hệ về kết hôn, quan hệ quyền gia trưởng... Quan hệ về tài sản do luật Lamã cổ quy định được thể hiện trong các chế định về quyền sở hữu tài sản; chế định về nghĩa vụ theo hợp đồng, chế định nghĩa vụ như hợp đổng: (Có quy định chung về hợp đồng và quy định về các hợp đồng cụ thể. Các hành vi chuẩn khế ước coi như hợp đổng. Quy định về hành vi thực hiện công việc không có sự ủy quyền). Chế định về nghĩa vụ bồi thưòíng thiệt hại do vi phạm hợp đồng và ngoài hợp đồng. Quy định về hành vi chuẩn vi phạm (như gây thiệt hại) là hành vi của một người sử dụng đồ vật không cẩn trọng có thể dẫn tói thiệt hại cho ngưcd khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng. Chế định về sự được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật hoặc chiếm hữu tài sản của ngưèd khác không dựa trên căn cứ mà pháp luật quy định. Hệ thống luật dân sự Lamã có chế định "chuẩn vi phạm" và "chuẩn khế ư(3fc" là một trong những chế định phù hợp với đời sống thực tế thời Lamã, đổng thời những chế định đó về một góc độ nào đó vẫn giữ nguyên giá trị ở những quan hệ về tài sản thời hiện đại. Qiuẩn vi phạm là những tác động do sơ ý hay bất cẩn của một người gây tổn thất cho người khác, dù không bị trừng phạt về hành vi cố ý nhưng pháp luật Lamã vẫn quy định buộc người có hành vi bất cẩn ưọng phải bổi thưòíng tổn thiệt đã xảy ra và cả trong trường họfp sự chuẩn vi phạm đó chưa xảy ra thiệt hại cho ngưòd khác thì trách nhiệm chịu phạt cũng đã phát sinh do có nguy cơ gây hại. Còn đối vói chuẩn khế ước được hiểu là một hành vi hoàn toàn tự ý và tạo ra cho người thực hiện hành vi ấy rnột nghĩa vụ. Chuẩn khế ước là một hành vi hợp pháp có tính 18 chất đơn phương, do một người tự ý thực hiện mà không phải làm theo một khế ước do hai bên hoặc nhiều bên thỏa thuận và không phải là bổi thường thiệt hại. Hệ thống luật Lamã cổ đại có chế định về quyền thừa kế, tuy luật quy định hai trình tự thừa kế theo di chúc và theo pháp ỉuật, nhưng việc hưởng di sản thừa kế của người Lamã chỉ được thực hiện hoặc là thừa kế theo di chúc hoặc là thừa kê theo pháp luật. Chế định về quyền thừa kế theo hệ thống luật Lamã cổ đại không thể áp dụng đồng thời hai trình tự thừa kế đối với một di sản. Một đặc điểm rất đặc biệt của chế định về hợp đồng Lamã cổ về nội dung và hình thức của hợp đồng được pháp luật quy định như một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng Lamã cổ đại ngoài những điều khoản cơ bản cần phải có của một hợp đồng, còn cần phải có điều khoản phản ánh ý chí tự do, tự nguyện của chủ thể tham gia hợp đồng là lời hay, ngôn ngữ hoa mỹ rất hình thức. Nếu thiếu ngôn ngữ hoa mỹ của chủ thể, hợp đồng đó có thể không có hiệu lực thi hành. Ví dụ về một hợp đồng Lamã cổ đại về vay tài sản. Bên vay tài sản là một khoản tiền đã đưa ra lời đề nghị; "Hôm nay ngày đẹp trời, lạy chúa tôi! Tôi cần vay 100 cens, mong ngài hãy chiều theo ý nguyện của tôi! Chúc ngài một ngày tốt lành!". Theo lời đề nghị đó, bên cho vay sẽ mang 100 cens đặt vào tay người đề nghị vay tiền và đặt những câu hỏi tương tự như: "Ngài có hứa trả được không? Hứa trả đúng hạn không?". Bên vay đã hứa trả đúng hạn, hợp đổng vay tiền đã được giao kết. Hình thức của hợp đồng Laiĩiã cổ, pháp luật không quy định buộc phải thể hiện bằng văn bản. Tuy nhiên, trong thực tế mỗi gia đình công dân Lamã đều có một cuốn sổ ghi chép. Khi giao kết hợp đồng, các bên đều 19 có bút tích trao đổi ghi vào cuốn sổ đó của nhau và đó là chứng cứ một hợp đồng nào đó đã được giao kết. Khi một trong hai bên vi phạm hợp đổng, bút tích trong cuốn sổ ghi chép đó là căn cứ chứng minh. Cuốn sổ dùng để trao đổi bút tích đó gọi là "code", có nghĩa là căn cứ, tập hợp hay bộ tự. Những chế định của luật Lamã cổ đại đã gần như điều chỉnh tất cả các quan hệ về tài sản và về nhân thân phát sinh trong xã hội lúc bấy giờ. Những chế định pháp luật dân sự Lainã cổ đã đáp ứng những đòi hỏi của quan hệ xã hội và là chuẩn mực điều chỉnh một lĩnh vực của đời sống xã hội ở một cấp độ văn minh và có tính hệ thống cao. 3. Lamã Đ ối tưỢng điều chỉn h của luật tư pháp Căn cứ vào các văn bản pháp luật và hệ thống hóa các ván bản pháp luật của Nhà nước Lamã cổ đại, đối tượng điều chỉnh của luật tư pháp Lamã được xác định. a. Quan hệ về tài sản Luật tư pháp Lamã điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội về tài sản phát sinh một cách khách quan trong quá trình sản xuất và lưu thông các sản phẩm là thành quả của lao động sáng tạo ra vật chất. Quyền được bảo vệ khi có hành vi xâm phạm đến những lợi ích vật chất của công dân Lamã. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước Lamã cổ đại, sự thay đổi qua các thời kỳ lịch sử và do các chế độ sở hữu ở các thời kỳ khác nhau chi phối. Nhưng nhìn chung, ưình độ phát trién về sản xuất và thương mại luôn được quan tâm ở Lamã. Những cơ sở để xác định và chi phối quan hệ tài sản ở Lamã phát triển ngày một phong phú có sự tác 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan