TS. NGUYỄN THỊ DUNG (Chủ biên)
VÀ TẬP THỂ GIẢNG VIÊN BỘ MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI - TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
crs. TRỐN THỊ BẢO ÁNH, TS. vũ PHƯƠNG ĐỐNG, TS. NGUYỄN QUÝ TRỌNG,
TS. NGUYỄN THỊ YẾN, THS. NGUYỄN NGỌC ANH, THS. LÊ NGỌC ANH, THS. LÊ HƯƠNG GIANG,
THS. NGUYỄN THỊ HUYỂN TRANG, THS. vũ THỊ HÒA NHưi THS. PHẠM PHƯƠNG THÀO,
THS. PHẠM THỊ HUYẼN, THS. NGUYỄN NHƯ CHÍNH, THS. CAO THANH HUYỂN)
LUẬT KINH
Chuyên khảo
r. I*i
i
; _...ị
Njv
í
ỉ
L.
1
j
ỉi
í
k....
ìr—
N.
i
NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG
HÀ NỘI - 2017
CHỦ BIÊN: Tiến sỹ NGUYỄN THỊ DUNG
C Á C T Á C G IẢ :
1. TS Trần Thị Bảo Ánh
2. TS Nguyễn Thị Dung
3. TS Vũ Phương Đông
4. TS Nguyễn Thị Yến
5. TS Nguyễn Quý Trọng
6. ThS Nguyễn Ngọc Anh
7. ThS Lê Ngọc Anh
8. ThS Nguyễn Như Chính
9. ThS Lê Hương Giang
10. ThS Phạm Thị Huyền
11. ThS Cao Thanh Huyền
12. ThS Vũ Thị Hoà Như
13. ThS Phạm Phương Thảo
14. ThS Nguyễn Thị Huyền Trang
CÁC CHỮ VIẾT TÁT
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
CTTNHH
Công ty trách nhiệm hữu hạn
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
GĐ/TGĐ
Giám đốc/Tổng giám đốc
HTX
Hợp tác xã
HĐQT
Hội đồng quản trị
HĐTV
Hội đồng thành viên
LDN
Luật Doanh nghiệp
TCT
Tổng công ty
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TNVH
Trách nhiệm vô hạn
TTTM
Trọng tài thương mại
5
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
LỜI GIỚI THIỆU
Pháp luật kinh tế được hiểu là một hệ thống nhiều lĩnh vực pháp
luật khá rộng, bao gồm Luật Kinh tế, Luật Lao động, Luật Tài chính,
Luật Ngân hàng, Luật Đất đai, Luật Môi trường... Khi hình thành và
phát triển ở Việt Nam từ những thập niên 80 (thế kỷ 20), Luật Kinh tế
được hiểu là một bộ phận của pháp Luật Kinh tế, là ngành luật độc lập
có phạm vi, đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng.
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực nghiên cứu, khái niệm “Luật Kinh tế”
đã dần được thay thế bằng các khái niệm “Luật Thưonti mại", "luật
kinh doanh” do ảnh hưởng của quá trình thay đổi về kinh tế, về cơ chế
quản lý kinh tế, dẫn đến những thay đổi căn bản trong điều chỉnh pháp
luật đối với các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân. Khi chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là
các tổ chức kinh tế xà hội chủ nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức
kinh tế tập thể) với tư cách là các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất
theo kế hoạch dược giao. Nền kinh tế không còn vận hành theo cơ chế
kế hoạch hoá tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước, với nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu,
quyền tự do kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu của quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thay đổi này dẫn đến yêu cầu
đổi mới trong khoa học Luật Kinh tế, theo đó, khái niệm “Luật Kinh
tế” ít được sử dụng hơn trong khoa học pháp lý. Mặc dù vậy, trong
thực tiễn kinh doanh và quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh, khái niệm Luật Kinh tế vẫn được sử dụng với ý nghĩa là lĩnh
vực pháp luật gồm tống thể các quy định pháp luật do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhàm quy định về các loại chủ thể kinh doanh,
điều chỉnh hoạt động kinh doanh của họ phù hợp với chính sách quản
lý kinh tế của nhà nước và quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động kinh doanh (nếu có).
7
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
Với.mục đích cung cấp những kiến thức pháp luật cơ bản và cần
thiết cho thực tiễn kinh doanh và thực tiễn quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh, cuốn sách “Luật Kinh tế” đã được biên soạn,
cập nhật chính sách, pháp luật mới nhất. Với đội ngũ tác giả bao gồm
các giảng viên có kinh nghiệm của Trường Đại học Luật Hà Nội,
chúng tôi hy vọng cuốn sách là tài liệu đáng tin cậý cho doanh nhân và
nhà quản lý, cho các cơ sở đào tạo luật và bạn đọc có quan tâm đến
các vấn đề cơ bản của Luật Kinh tế.
Cuốn sách được kết cấu 21 chương, sắp xếp theo 4 phần chính:
- Phần 1: Tổng quan về Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam
- Phần 2: Pháp luật về các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế
- Phần 3: Pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư, cạnh tranh và
họp đồng trong hoạt động kinh doanh
- Phần 4: Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
Trân trọng giới thiệu cuốn sách đến quý bạn đọc.
NHÓM TÁC GIẢ
8
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
PHẨN 1
TỘNG QUAN VẼ LUẬT KINH TẾ
TRONG NẾN KINH TÊ THỊ TRƯỜNG ở VIỆT NAM
Chương 1
KHÁI NIỆM, CHỦ THÈ VÀ NGUÒN CỦA LUẬT KINH TÉ
I.
QUAN NIỆM VÈ LUẬT KINH TÉ TRONG NÈN KINH
TÉ THỊ TRƯỜNG
Pháp luật kinh tế là lĩnh vực pháp luật đỏng vai trò đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế thị trường. Theo cách hiểu truyền thống, pháp
luật kinh tế điều chỉnh nhiều mối quan hệ kinh tế đa dạng và phong
phú. Có thể kể đến các nhóm quan hệ cơ bàn như sau1:
- Quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý hoạt động
kinh doanh. Các quan hệ này phát sinh trong quá trình hình thành các
loại chủ thể kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, giải thể, phá sản...
thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp và các chủ
thể kinh doanh khác;
- Quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng
kinh doanh, pháp luật về giải quyết tranh chấp trong kinh doanh...;
- Quan hệ phát sinh trong quá trình cấp phát, huy động vốn phục
vụ sản suất kinh doanh, hoạt động tín dụng, thanh toán, ngân sách...
thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật về tài chính - ngân hàng;
- Quan hệ phát sinh trong quá trình tạo việc làm và sử dụng ìao
động... thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật lao động;
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trinh Luật Kinh tế, Nhà xuát bản Công an nhân dân, 1998, tr.13 và Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo
trình Luật Kinh tế Việt Nam (2011), NXB Còng an nhân dân, tr.11
9
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
- Quan- hệ phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai,
môi trường...'thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Đất đai, Luật Môi
trường;
- Quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các hành vi cạnh
tranh thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.
Theo PGS, TS Nguyễn Như Phát (Viện Nhà nước và Pháp luật),
pháp luật kinh tế không phải là một ngành luật mà là một hệ thông các
lĩnh vực pháp luật có đối tượng rất rộng. Ngoài các quan hệ kinh tê
nêu trên, quan hệ phát sinh trong quá trình can thiẹp, đieu tiet cua nha
nước đổi với các hoạt động kinh tế (pháp luật hành chính kinh tế pháp luật kinh tế công) cũng thuộc phạm vi của pháp luật kinh tê .
Với những đặc thù vê chủ thê, nội dung, tinh Chat, moi quan hẹ
kinh tế trên đay lại thuộc một ngành luật hay một lĩnh vực pháp luật
hẹp hơn điều chỉnh, bao gồm: Luật Kinh tê, Luật Tai chinh - Ngan
hàng, Luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Môi trường. Như vạy, trong
khoa học pháp lý Việt Nam, Luật Kinh tể được hiểu là một bộ phận
của phap luật kinh tế và nó chỉ điều chỉnh một phần quan hệ kinh tê
phát sinh trong nền kinh tế thị trường.
ở thập niên 70, thập niên 80, khái niệm “Luật Kinh tế’* được sử
dụng pho biển. Luạt Kinh tế khi đó, được hiểu là một bộ phận của
pháp Luật Kinh tể..., là ngành luật độc lập có phạm vi^đôi tượng và
phương pháp điều chỉnh riêng, trong đó, pháp luật kinh tê bao gôm các
văn bản pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau (Luật Kinh tê,
Luật Đất đai, Luật Lao động, Luật Tài chính - Ngân hàng...) đieu
chỉnh những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hoạt động san xuat
kinh doanh của các đơn vị kinh tế và quan hệ quản lý kinh tê của nhà
nước với tư cách vừa là một tổ chức chính trị, vừa là chủ sở hữu tư
liệu sản xuất trong xã hội. Luật Kinh tế ra đời trong cơ chế kê hoạch
hoá tập trung, có đổi tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tê giữa các
tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa, các cơ quan quản lý kinh tế trong sản
' PGS, ĨS Nguyền Như Phát, Chương 1 - Lý luận chung vé Luật Kinh tế - Giáo trinh Luật Kinh tẽ Việt Nam (2011), NXB Công an nhân
dân,tr.12
10
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
xuất, kinh doanh, sở hữu, tổ chức và kế hoạch hoá1. Trong các cơ sở
đào tạo luật, “Luật Kinh tế” trở thành một môn học quan trọng, “là kết
quả của công tác nghiên cứu khoa học pháp lý và thực tiễn quản lý sản
xuất kinh doanh bằng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan của
thực tiễn sản xuất kinh doanh”2.
Ở Việt Nam, ý tưởng sử dụng khái niệm “Luật Thương mại”,
“luật kinh doanh” để thay thế cho khái niệm “Luật Kinh tế” xuất hiện
khi diễn ra những thay đổi về kinh tế, về cơ chế quản lý kinh tế và
dẫn đến những thay đổi căn bản trong điều chỉnh pháp luật đổi với
các quan hệ kinh tế giữa các tổ chức, cá nhân. Khi chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, chủ thể của Luật Kinh tế không còn là các tổ
chức kinh tể xã hội chủ nghĩa (tổ chức kinh tế nhà nước, tổ chức kinh
tế tập thể) với tư cách là các đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất theo
kê hoạch được giao. Nen kinh tế không còn vận hành theo cơ chê kè
hoạch hoá tập trung mà vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản
lý của nhà nước, với nền tảng là sự công nhận quyền tự do sở hữu,
quyền tự do kinh doanh, đồng thời chịu nhiều tác động tất yếu của
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những thay đổi này dẫn đến yêu
cầu đổi mới trong khoa học Luật Kinh tế, theo đó, khái niệm “Luật
Kinh tế” ít được sử dụng hơn trong khoa học pháp lý. Bên cạnh đỏ,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế tãng
cường hội nhập kinh tế quốc tế, phạm vi quyền tự do kinh doanh
cũng không ngừng được mở rộng, từ chỗ “tự do kinh doanh theo quy
định pháp luật”3 đển “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm”4..., vai trò can thiệp, kiểm soát từ phía nhà
nước cũng thu hẹp rất nhiều theo xu hướng tôn trọng và đảm bảo
thực hiện những hành vi không trái pháp luật của người kinh doanh
(thương nhân). Xu hướng này làm cho yếu tố “luật tư” được thể hiện
1 PGS.TS Hoàng Thế Liên & ĨS Bùi Ngọc Cường, Chương 1 - Những vãn đé íý luận cơ bản vé Luật Kinh tế ở Việt Nam, Giáo trình Luật
Kinh tẻ (2004) của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tưpháp, tr. 15 16,18
2 PGS.TS Hoàng Thế Liên & TS Bùi Ngọc Cường, Chương 1 - Nhửng ván đé lý luận cơ bản vể Luật Kinh tế ở Việt Nam, Giáo trình Luật
Kinh tế (2004) của Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, tr.35
3Điéu 57, Hiến pháp năm 1992
4 Điéu 33, Hiến pháp năm 2013
11
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
rất rõ nét' và khái niệm “Luật Thương mại” dần được sử dụng phổ
biên, với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật điều chỉnh hoạt động thương
mại, hoạt động đầu tư kinh doanh của thương nhân. Chính vì vậy,
khái niệm “Luật Thương mại” dần được sử dụng thay thế cho khái
niệm “Luật Kinh tế”, mặc dù nhiều vấn đề “lý luận về vấn đề này còn
cỏ những quan điểm khác nhau và cơ cấu của nó cũng chưa ổn
định” 1. Trong khoa học pháp lý, cũng còn những ý kiến khác nhau
trong việc nhìn nhận “Luật Kinh tế” với tư cách là một ngành luật
độc lập. Mặc dù vậy, trong thực tiễn kinh doanh và quản lý nhà nước
đối với hoạt động kinh doanh, khái niệm “Luật Kinh tế” vẫn tiếp tục
tồn tại và được sử dụng với ý nghĩa là lĩnh vực pháp luật bao gồm
tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quả trình tô chức, quản
lý và tiến hành hoạt động kinh doanh, bao gồm quả trình hình thành
các loại chủ thể kỉnh doanh, quản trị doanh nghiệp, quả trình tiến
hành hoạt động kinh doanh thông qua các giao dịch hợp đồng của
doanh nghiệp, quá trình giải thể, phả sản và giải quyêt tranh chăp
trong kinh doanh...
Ngày nay, “động lực của toàn cầu hoá chính là sự bùng nổ thương
mại hàng hoa và dịch vụ”2, dẫn đến sự hình thành một khối lượng đồ
sộ các văn bản pháp luật quốc gia, các điều ước quốc tế... điều chỉnh
các quan hệ thương mại trong nước và quốc tế. Quy chê thương nhân
được xác lập bởi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sàn...
Hoạt động thương mại của thương nhân được điều chỉnh bởi văn bản:
Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiêm, Luật
các tô chức tín dụng, Luật Trọng tài thương mại, Bộ luật Tố tụng dân
sự, các luật thuế, Bộ Luật hàng hải, các tập quán thương mại quôc tê...
Tông thê các nguôn luật này là cơ sở pháp lý cho thương nhân gia
nhập thị trường, tổ chức hoạt động và rút khỏi thị trường, là cơ sờ
pháp lý cho thương nhân tiến hành các hoạt động kinh doanh. Như
P6S.TS Hoàng Thế Liên & TS Bùi Ngọc Cường, Chương 1 - Những ván đé lý luận cơ bản về Luât Kinh tẽ ở Viêt Nam, Giáo trình Luât
Kinh tế (2004) cùa Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, tr.37
2 PGS.TS Nguyên Bá Dlến, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế (2005), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.17
12
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
vậy, việc nhận diện khái niệm Luật Kinh tế trong nền kinh tế thị
trường có những lưu ý cơ bản như sau:
Một lẳ, Luật Kinh tế là một bộ phận thuộc lĩnh vực pháp luật kinh
tế, bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành
hoặc thừa nhận nhằm quy định về các loại chủ thể kinh doanh, điều
chỉnh việc hình thành, tổ chức và quản lý hoạt động kinh doanh của họ
phù hợp với chính sách quản lý kinh tế của nhà nước và
quy định về vẩn đề giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh;
Hai là, Luật Kinh tế không phải là cơ cở pháp lý giải quyết mọi
vấn đề phát sinh trong mọi quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị
trường. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải tìm kiểm đến các quy
định khác trong Luật Tài chính, Luật Ngân hàng, Luật Đất đai, Luật
Lao động...
II.
NỘI DUNG C ơ BẢN CỦA LUẬT KINH TÉ TRONG
NÊN KINH TỂ THỊ TRƯỜNG
1.
Luật Kinh tế quy định quy chế pháp lý về các loại chủ thể
kinh doanh trong nền kỉnh tế
Pháp luật mỗi quốc gia đều có quy định về các loại hình chủ thể
kinh doanh, điều kiện, thủ tục để tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động
kinh doanh hợp pháp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều
loại hình chủ thê kinh doanh khác nhau hình thành, theo đỏ, có thể
xuất hiện nhiều sự liên kết phức tạp về vốn góp, về quàn lý, về tính
chất chịu trách nhiệm tài sản, về công nghệ... Sự tồn tại và hoạt động
của các chủ thê kinh doanh cần có sự công nhận, bảo hộ từ phía nhà
nước và pháp luật là công cụ quan trọng để thực hiện điều này, thể
hiện thông qua các nhóm quy định pháp luật cơ bản như sau:
Thứ nhát, Luật Kỉnh tế quy định các loại hình doanh nghiệp và
chủ thê kinh doanh khác
Ở Việt Nam, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân, cồng ty hợp danh, hợp tác xã, hộ kinh doanh chỉ được thành lập
13
TS. Nguyễn Thị Dung (Chù biên)
và đượe biết đến sau khi Quốc hội ban hành Luật Công ty năm 1990
và LuậíD óánh nghiệp tư nhân năm 1990. Công ty TNHH một thành
viên, công ty hợp danh chỉ được thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp
được ban hành vào năm 1999 và công ty TNHH một thành viên do
một cá nhân làm chủ chỉ được thành lập sau khi Luật Doanh nghiệp
2005 được ban hành và có hiệu lực pháp luật. Sự hiện diện của thương
nhân nước ngoài tại Việt Nam được bắt đầu trên cơ sở quy định của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) với các hình thức cụ thể
là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Các chủ thể kinh doanh này thành lập và hoạt động với tên gọi doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một thời
gian dài, cho đến khi pháp luật về đầu tư tại Việt Nam được nhất thể
hoá với sự ra đời của Luật Đầu tư năm 2005. Hiện nay, phụ thuộc vào
cẩu trúc vốn đầu tư và tính chất liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư
trong nước hay có vốn đầu tư nước ngoài, đều hiện diện với tên gọi
như nhau là công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân
v.v... Ngoài ra, pháp luật còn có quy định về một số chủ thể kinh
doanh khác như hộ kinh doanh, tổ hợp tác, các cá nhân không có nghĩa
vụ phải đăng ký kinh doanh như người bán hàng rong, quà vặt, có thu
nhập thấp.
Thứ hai, Luật Kinh tể quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị
trường của nhà đầu tư
Nhà đầu tư có quyền tự do thành lập doanh nghiệp để đầu tư kinh
doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm. Để đảm bảo trật
tự và lợi ích xã hội, nhà nước kiểm soát việc thực hiện quyền này
thông qua các quy định về điều kiện và thủ tục gia nhập thị trường.
Băng các quy định của Luật Thương mại, nhà nước kiểm soát các yếu
tô vê vổn đầu tư, ngành nghề kinh doanh, người góp vốn thành lập,
người đại diện theo pháp luật, nơi đặt trụ sở chính... Các quy định về
điêu kiện và thủ tục gia nhập thị trường cũng cho phép xác định tư
cách pháp lý hợp pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh cùng với trách
nhiệm và nghĩa vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh của họ.
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
Thứ ba, Luật Kinh tế quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân kinh doanh (trong chương này tạm gọi chung là doanh
nghiệp) và của người góp vốn (gọi chung là nhà đầu tư)
+ Quy định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có mục đích là
xác định rõ phạm vi quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức kinh doanh
trong nền kinh tế.
Trên cơ sở quyền tự do kinh doanh được Hiến pháp quy định,
Luật Kinh tế quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh. Đây là những quy định quan trọng xác
lập phạm vi thẩm quyền kinh tế của người kinh doanh, là cơ sở đo
lường tính chất bình đẳng, không phân biệt đổi xử trong hoạt động
kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau. Các
quyền cơ bản được pháp luật quy định, bao gồm: Tự do kinh doanh
trong những ngành, nghề mà luật không cấm; Tự chủ kinh doanh và
lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; Chủ động lựa chọn ngành,
nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; Chủ động điều chỉnh quy mô
và ngành, nghề kinh doanh; Lựa chọn hình thức, phương thức huy
động, phân bổ và sử dụng vốn; Chủ động tìm kiếm thị trường,
khách hàng và ký kết hợp đồng; Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu;
Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh;
Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả
kinh doanh và khả năng cạnh tranh; Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản của doanh nghiệp...
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải thực hiện các nghĩa vụ cơ
bản, đó là: Đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh ngành,
nghề đâu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư và
bảo đảm duy trì đủ điêu kiện đầu tư kinh doanh đó trong suốt quá trình
hoạt động kinh doanh; Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo
tài chính trung thực, chính xác. đúng thời hạn theo quy định của pháp
luật vê kê toán, thông kê; Kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các
nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật; Bảo đảm và chịu
trách nhiệm về chất lượng hàng hóa, dịch vụ theo tiêu chuẩn do pháp
15
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
luật quy. định hoặc tiêu chuẩn đã đăng ký hoặc công bố; Thực hiện đầy
đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi
nội dung đăng ký doanh nghiệp, công khai thông tin về thành lập và
hoạt động, báo cáo và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này
và quy định khác của pháp luật có liên quan; Chịu trách nhiệm về tính
trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh
nghiệp và các báo cáo; trường hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc
báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung
các thông tin đó; Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh; Thực
hiện nghĩa vụ về đạo đức kinh doanh đê bảo đảm quyên, lợi ích hợp
pháp của khách hàng và người tiêu dùng...
+ Quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân góp vốn (nhà
đầu tư) co mục đích xác định rõ thẩm quyền của họ với tư cách là chủ
sở hữu của doanh nghiệp. Trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp và
trách nhiệm tài sán của nhà đầu tư góp vôn được quy định có sự phân
biệt. Với tư cách là chủ sở hữu của tô chức kinh doanh, nhà đâu tư (tô
chức, cá nhân đầu tư, góp vốn) có quyên quyêt định chiên lược phát
triển và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty, cơ câu tô chức
quản lý công ty, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm người quản lý công
ty, quyết định tăng vốn điều lệ của công ty; chuyển nhượng một phần
hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác, quyết
định thành lập công ty con, góp vốn vào công ty khác, tổ chức giám
sát và đánh giá hoạt động kinh doanh của công ty, quyết định việc sử
dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ
tài chính khác của công ty, quyết định tổ chức lại, giải thể và yêu cầu
phá sản công ty...
về trách nhiệm
của nhà đầu tư, các quy định của Luật Thương
mại cho phép xác định phạm vi trách nhiệm tài sản của tổ chức, cá
nhân góp vốn đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do họ
thành lập ra. Nhà đâu tư có thể phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn
bộ tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn
16
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
trong phạm vi vốn góp vào doanh nghiệp đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà họ
lựa chọn đầu tư góp vốn.
Thứ tư, Luật Kỉnh tế quy định vẩn đề cơ cấu tổ chức quản lý
(quản trị nội bộ) của mỗi loại hình doanh nghiệp
Các quy định của Luật Kinh tế quy định “khung” cơ cấu tổ chức
quản lý nội bộ của từng loại hình doanh nghiệp, phù hợp với tính
chất một chủ hay nhiều chủ sở hữu, phù hợp với quy mô thành viên
của doanh nghiệp. Các quy định này cho phép nhận diện thống nhất
về bộ máy quản lý, thẩm quyền của mỗi chức danh quản lý trong
doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi có
giao dịch thương mại với nhau và thuận tiện trong các quan hệ pháp
luật khác. Trên cơ sở “khung” pháp luật về quản trị nội bộ doanh
nghiệp mà luật quy định, mỗi doanh nghiệp có thế chi tiết hoá thông
qua Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở không trái với
quy định hiện hành.
Thứ năm, Luật Kỉnh tế quy định vẩn đề tổ chức lại doanh nghiệp
Hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh nghiệp (gọi
chung là tổ chức lại doanh nghiệp) là các nhu cầu tất yểu của doanh
nghiệp trước tác động của các yếu tố thị trường. Tổ chức lại doanh
nghiệp giúp thương nhân thực hiện các mục tiêu cạnh tranh thông
qua các hình thức tập trung kinh tể hoặc chuyển đổi sang mô hình
kinh doanh phù hợp khác. Tổ chức lại doanh nghiệp có thể cho phép
hình thành doanh nghiệp mới và chấm dứt doanh nghiệp cũ chỉ về
phương diện pháp lý mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại vật chất của
doanh nghiệp. Điêu này tiêt kiệm chi phí giải thể doanh nghiệp cũ và
thành lập doanh nghiệp mới, song lại đặt ra những vấn đề phức tạp
cần có luật điêu chỉnh vê kế thừa quyền và nghĩa vụ pháp lý, về
quyên của chủ sở hữu, vê tô chức, quản lý doanh nghiệp mới, về thủ
tục pháp lý...
Thứ sáu, Luật Kỉnh tể quy định điều kiện, thủ tục rút khỏi thị trường
của doanh nghiệp (bao gồm thú tục giải ệhểyồ phả sẻn doanh-ngịũệp)
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
Việc-c'hấm dứt hoạt động và rút khỏi thị trường của doanh nghiệp
đòi hỏi doanh nghiệp phải giải quyết các quyền và nghĩa vụ đã tạo lập
trong quá trình hoạt động. Lý do chấm dứt hoạt động và khả năng tài
chính ở thời điểm chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp rất khác
nhau, có thể thanh toán hết các khoản nợ hoặc không đủ khả năng thực
hiện việc này. Pháp luật đã quy định điều kiện và thủ tục giải thể để
doanh nghiệp rút khỏi thị trường khi chưa mất khả năng thanh toán và
quy định điều kiện, thủ tục phá sản cho những doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán rút khỏi thị trường. Các quy định pháp luật về giải
thể, phá sản là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thanh lý tài sản, thanh
toán nợ và rút khỏi thị trường một cách hợp pháp.
2. Luật Kinh tế quy định về các hoạt động thưong mại, đầu tư
và hợp đồng trong thương mại và đầu tư (gọi chung là hợp đồng
thương mại)
Kinh doanh là hoạt động thuộc chức năng chính của các chủ thể
kinh doanh, nằm trong khuôn khổ lý do thành lập và mục tiêu lợi
nhuận của họ. Hoạt động kinh doanh diễn ra thông qua các hoạt động
đầu tư, góp vốn, các hoạt động thương mại cụ thể như mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ... thông qua các quan hệ hợp đông, có tự do
thoả thuận và thống nhất ý chí và một sô các giao dịch khác như tự tô
chức khuyên mại, quảng cáo, tổ chức đâu thâu... Trong nên kinh tê thị
trường, hoạt động thương mại được thực hiện trong khuôn khô quyên
tự do hợp đồng, tự do hoạt động thương mại. Xét ở tầm ảnh hưởng,
hoạt động thương mại không chỉ liên quan đến lợi ích của doanh
nghiẹp, đôi tác của doanh nghiệp mà còn có những ảnh hưởng đên
qụyen lợi của người tiêu dùng, của tổ chức, cá nhân khác, đên sự phát
triên hàng hoá, dịch vụ và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đây
la ly do phap luật cân quy định cơ sở pháp lý cân thiêt cho doanh
nghiẹp tien hành hoạt động thương mại cụ thể.
3. Luật Kinh tế điều chỉnh hành vi cạnh tranh trong hoạt
động kỉnh doanh của doanh nghiệp
Tự do kinh doanh và tự do khế ước cùng với sự giục giã của quy
luật giá trị và bản tính cúa con người dẫn đến các hoạt động cạnh tranh
18
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
tự phát có thiên hướng thái quá, cực đoan, nhằm gây rối, ngăn cản,
hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh của các đối thủ... huỷ hoại động lực
phát triển kinh tế1. Đây là lý do cần có sự can thiệp của nhà nước vào
hoạt động cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh. Pháp Luật Cạnh
tranh là một trong các công cụ điều tiết cạnh tranh của nhà nước,
thông qua việc quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh
(hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền, tập trung kinh tế), pháp luật chống hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và quy định về tụng cạnh tranh, thủ tục
miễn trừ và xử lý vi phạm pháp Luật Cạnh tranh.
4.
Luật Kinh tế quy định về giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thưong mại, đầu tư của tổ chức, cá nhân
kinh doanh
Tranh chấp kinh tế bao gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại của doanh nghiệp, bao gồm cả tranh chấp trong quan
hệ đầu tư, mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ... Thông qua các văn
bản pháp luật cụ thể, Luật Kinh tế là cơ sở pháp lý để xác định:
- Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong giải quyết tranh
chấp thương mại phát sinh giữa họ với nhau hoặc với chủ thê khác có
liên quan;
- Nghĩa vụ và hành vi vi phạm hợp đồng của các bên có tranh
chấp trong hoạt động thương mại;
- Trách nhiệm pháp lý của bên có hành vi vi phạm trong hoạt
động thương mại, biểu hiện ở việc thực hiện các chế tài hợp đồng như
phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, huỷ
hợp đồng...
- Cách thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương
mại thông qua tự thương lượng, hoà giải, trọng tài thương mại, toà án.
' Viện Đại học Mở Hà Nội, Giáo trình Luật Kinh tễ Việt Nam, chương IV Pháp luật cạnh tranh, NXB Công an Nhân dân (2011), tr.246
19
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
IIL .CHỦ THẺ CỦA LUẬT KINH TẾ
1. Doanh nghiệp - chủ thể chủ yếu của Luật Kinh tế
Doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác, thường xuyên
tham gia vào các quan hệ thương mại, giữ vị trí trung tâm ở tất cả các
quan hệ kinh tế và tham gia vào quan hệ pháp luật khác cần phải thực
hiện trong quá trình hoạt động kinh doanh, bao gồm quan hệ đầu tư
góp vốn, họp đồng thương mại, đăng ký kinh doanh, giải quyết tranh
chấp thương mại, giải thể, phá sản... Doanh nghiệp cũng chiếm vị trí
chủ thể chủ yếu do sổ lượng đông và ngày càng phát triển. Hiện nay,
cả nước có khoảng 535.920 doanh nghiệp đang hoạt động1. Ngoài ra,
còn có các chủ thể là hợp tác xã, người kinh doanh nhỏ. Doanh nghiệp
và các chủ thể kinh doanh khác hoạt động ở tất cả các ngành, lĩnh vực
kinh tế và thuộc nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế
khác nhau, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế,
quyết định sự phát triển của nền kinh tế
Doanh nghiệp là chủ thể chủ yếu của Luật Kinh tê còn vì nó xuât
hiện phổ biển trong quan hệ kinh tế, bao gồm các quan hệ kinh tề cơ
bản sau đây:
- Doanh nghiệp là chủ thể đầu tư, góp vốn
Trừ một số trường họp bị hạn chế quyền tiếp tục đâu tư, góp vôn,
các doanh nghiệp được quyền đầu tư, góp vốn đê thành lập doanh
nghiệp khác và trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp đó, được liên
kêt đê thành lập tổng công ty, tập đoàn kinh tế (nhóm công ty).
Ví dụ: Công ty TNHH một thành viên Hồng Hà có quyên đâu tư
100% vốn để thành lập một công ty con (Công ty TNHH Hồng Hà
Miên Trung) và trở thành công ty mẹ của công ty này. Hoặc Công ty
1 NHH mọt thanh viên Hông Hà có quyền góp vôn cùng với các tô
chức, cá nhân khác để thành lập Công ty co phần Đông Đô và trở
thành một cổ đông của công ty Đông Đo
So liệu tính đen 1/2016. Nguổn: Cục quản lý đăng ký kinh doanh, Tinh hình chung vé đăng ký doanh nghiệp tháng 1/2016
http//dangkykinhdoanh.gov.vn
20
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
Trong trường hợp này, doanh nghiệp là chủ thể của quan hệ đâu
tư, phải tuân thủ quy định pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật vê
đầu tư.
- Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện các hoạt động thương mại và
tham gia vào các quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, cung ứng dịch
vụ thương mại, xúc tiến thương mại...
Chức năng, nhiệm vụ chính của doanh nghiệp là hoạt động
thương mại nhằm mục tiêu lợi nhuận. Để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ và mục tiêu đó, doanh nghiệp hoạt động thương mại với tính chất
nghề nghiệp, thường xuyên, liên tục và là chủ thể chủ yếu trong các
quan hệ mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại, xúc tiến
thương mại...
- Doanh nghiệp là chủ thể đầu tư, thực hiện các hoạt dộng gia
nhập thị trường
Bên cạnh việc khẳng định và bảo hộ quyền tự do kinh doanh, nhà
nước cũng khẳng định vai trò của nhà nước trong quản lý về kinh tế và
kiểm soát việc thực hiện quyền tự do kinh doanh, theo đó, ai kinh
doanh, kinh doanh cái gì, kinh doanh ở đâu, mức vốn bao nhiêu... đều
phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh khi thành lập doanh
nghiệp và khi doanh nghiệp đang hoạt động nhưng có thay đổi những
thông tin này. Thực hiện các thủ tục bắt buộc này là căn cứ để xác
định tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi họ
sử dụng quyền tự do kinh doanh mà hiến pháp đã quy định.
- Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện các hoạt động tổ chức lại
doanh nghiệp (hợp nhât, sáp nhập, chia, tách, chuyển đổi doanh
nghiệp), là chủ thê thực hiện các hoạt động rút khỏi thị trường (giải
thể, phá sản doanh nghiệp) và là chủ thể của tranh chấp thương mại và
quan hệ giải quyêt tranh chấp thương mại.
2.
Các chủ thể khác có quan hệ pháp lý vói doanh nghiệp
trong quá trình thành lập, hoạt động kinh doanh và giải quyết
tranh chấp trong hoạt động kinh doanh
21
TS. Nguyễn Thị Dung (Chủ biên)
2.1..Cơ quan đăng kỷ kinh doanh
Cơ quari đăng ký kinh doanh là đầu mối quan trọng thực hiện
quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và
chủ thể kinh doanh khác. Cơ quan đăng ký kinh doanh là nơi tiến hành
các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký hộ kinh doanh,
đăng ký thay đổi nội dung kinh doanh, đăng ký tạm ngừng, chấm dứt
hoạt động kinh doanh...
Cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Ở
cấp tỉnh, Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư có
thẩm quyền cấp đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, liên hiệp hợp
tác xã, quỹ tín dụng nhân dân1. Phòng Đăng ký kinh doanh có thê tô
chức các điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kêt quả thuộc Phòng Đăng ký
kinh doanh tại các địa điểm khác nhau trên địa bàn câp tỉnh, ơ câp
•huyện, Phòng Tài chính - Ke hoạch thuộc ủ y ban nhân dân cấp huyện
thực hiện nhiệm vụ đăng ký hộ kinh doanh, đăng ký hợp tác xã (gọi
chung là cơ quan đăng ký kinh doanh câp huyện).
2.2. Cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực chuyên ngành
Trong quá trình hoạt động thương mại, đê đám bao quản ly nhà
nước vê kinh tế, thương nhân phải thực hiện mọt so nghía vụ can thiet
tại cơ quan quản lý chuyên ngành, tuỳ thuộc vào loại hoạt đọng
thương mại mà họ thực hiện. Ví dụ: thực hiện các thủ tục vê đảm bảo
điều kiện kinh doanh tại Sở Y tế/BỘ Ý tế khi kinh doanh các ngành
nghề kinh doanh phải đảm bảo điều kiện về vệ sinh an toàn thực
phâm; thực hiện các thủ tục về đảm bảo điêu kiện kinh doanh tại cơ
quan công an khi kinh doanh các ngành nghê phải đảm bảo điêu kiện
về an ninh, trật tự; thực hiện các thủ tục hải quan tại cơ quan hải quan
khi thực hiện hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu...
2.3. Tổ chức, cá nhân thực hiện chức năng giải quyết tranh
chấp kinh tế (tranh chấp thương mọi)
'Điéu 6 Nghị định 193/NĐ-CP ngày 21/11/2013 quy định chi tiễt một só điéu của Luật Hợp tác xã
22
LUẬT KINH TẾ CHUYÊN KHẢO
Khi hoạt động giải quyết tranh chấp kinh tế (tranh chấp thương
mại), Toà án, tổ chức trọng tài, hoà giải viên (khi thực hiện hòa giải
thương mại), trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ việc được coi là
chủ thể của Luật Kinh tế. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các tổ chức, cá
nhân này với tư cách là chủ thể của Luật Kinh tế phụ thuộc vào việc:
Có tranh chấp thương mại xảy ra hay không?; số lượng vụ tranh chấp
nhiều hay ít và các bên của vụ tranh chấp lựa chọn cách thức nào để
giải quyết tranh chấp xảy ra.
2.4.
Tồ chức, cá nhân không cỏ đăng ký kinh doanh với tư cách
là nhà đầu tư hoặc khách hàng của doanh nghiệp
Tổ chức, cá nhân khi thực hiện đầu tư, góp vốn thành lập doanh
nghiệp và trở thành chủ thể của quan hệ đầu tư vào tổ chức kinh tế. Tổ
chức, cá nhân ký hợp đồng mua bán hàng hoá, uỷ thác mua bán hàng
hoá, môi giới... với doanh nghiệp và trở thành chủ thể quan hệ thương
mại hỗn họp (quan hệ thương mại có một bên là thương nhân, một bên
không phải và thương nhân).
Ví dụ: Các ông bà A, B, c thoả thuận góp vốn và thành lập ra
Công ty cổ phần ABC. Trong quá trình thành lập và hoạt động của
công ty cổ phần ABC, các ông bà A, B, c đỏng vai trò là chủ đầu tư,
chủ sở hữu công ty và có các quyền và nghĩa vụ đối công ty theo quy
định của pháp luật doanh nghiệp.
IV. NGUỒN CO BẢN CỦA LUẬT KINH TÉ
Nguồn của pháp luật là tất cả các căn cứ được các chủ thể có
thẩm quyền sử dụng làm cơ sở để xây dựng, ban hành, giải thích
pháp luật cũng như đê áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc pháp
lý trong thực tế . Tiêp cận với ý nghĩa nguồn hình thức của pháp luật,
nguồn của Luật Kinh tê bao gồm nhừng “phương thức tồn tại của các
quy phạm pháp luật hay là nơi chứa đựng, nơi cung cấp các quy
phạm pháp luật, tức là nhừng căn cứ mà các chủ thể có thẩm quyền1
1TS Nguyên Thị Hổi, Vé khái niệm nguổn của pháp luạt, Tạp chí Luật học, sỏ 2/2008, tr. 29,30
23
- Xem thêm -