1
2
TÓM TẮT LUẬN ÁN
1. Lý do chọn đề tài
Duy trì mức tăng trưởng kinh tế hợp lý để đất nước phát triển và giàu có là điều mà
bất kì quốc gia nào trên thế giới cũng theo đuổi. Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện qua tốc
độ thu nhập thực tế của đất nước đó. Tăng trưởng kinh tế đã thúc đẩy tạo việc làm, cải thiện
thu nhập và giảm nghèo nhanh. Tuy nhiên không phải tăng trưởng kinh tế nào cũng mang lại
hiệu quả cho đất nước, nếu tăng trưởng kinh tế quá mức hoặc quá cao thì người dân sẽ giàu
có, nhưng mặt trái của nó sẽ dẫn đến lạm phát, phân hóa giàu nghèo trong xã hội tăng lên.
Trải qua những chuyển biến về công cuộc đổi mới từ năm 1986, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm giai đoạn
2004-2016 là 6,35%; GDP theo giá thực tế năm 2014 gấp hơn 5,5 lần so với năm 2004;
Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp từ năm 2010. Nhưng Việt
Nam vẫn đang đối mặt với những thách thức và khó khăn, các kết quả nghiên cứu gần
đây cho thấy có nhiều dấu hiệu tốc độ tăng trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh cũng như
hiệu quả đầu tư vào nền kinh tế giảm xuống. Vì vậy, đòi hỏi đất nước trong từng thời kỳ
phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững. Đặc
biệt các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách nhận ra rằng, sau một giai đoạn tăng
trưởng nhanh dựa trên tích lũy vốn vật chất, đất nước cần phải bắt đầu tìm kiếm những
mô hình và phương thức tăng trưởng kinh tế khác, chú trọng hơn sự tích lũy vốn, lao
động và con người. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào năm 2012 tăng trưởng chỉ
5,03%, cùng lúc đó có nhiều doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động tăng mạnh, nghiêm
trọng hơn số lao động thất nghiệp rất nhiều. Tốc độ tăng trưởng thấp, cho thấy môi
trường kinh doanh ở Việt Nam ngày càng đi xuống và chất lượng của các yếu tố tác động
đến tăng trưởng kinh tế cần phải xem xét lại.
Thực tế quá trình phát triển kinh tế của nhiều Quốc gia trên thế giới đã chỉ ra tầm
quan trọng của vốn con người. Nhật bản là đất nước nghèo tài nguyên khoáng sản lại bị
tàn phá năng nề bởi thiên nhiên và chiến tranh, tuy nhiên sự vực dậy và phát triển như vũ
bão của kinh tế Nhật Bản, hay sự phục hồi kinh tế nhanh của các Quốc gia Tây Âu nhờ
vào nguồn nhân lực chất lượng cao chứ không phải tài nguyên. Với các Quốc gia đang
phát triển dù có nhiều tài nguyên nhưng thiếu lao động có chất lượng thì quá trình tăng
trưởng kinh tế cũng rất chậm (Waines, 1963)
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình tăng trưởng của một quốc
gia, tuy nhiên một số nghiên cứu gần đây đã chỉ ra “giáo dục và y tế là hai yếu tố đóng
vai trò chủ chốt. Các dẫn chứng từ sự phát triển của các con hổ Đông Á cho thấy một nền
giáo dục vững mạnh và một hệ thống y tế phát triển hiện đại là động lực quan trọng cho
quá trình tăng trưởng kinh tế và sự phồn thịnh của quốc gia (World Bank, 1993). Bên
cạnh y tế và giáo dục, quá trình tăng trưởng của một quốc gia còn bị tác động của của
nhiều yếu tố khác và sự tương tác giữa các yếu tố này trong một thể chế. Các yếu tố có
thể kể ra đây như các yếu tố về chính trị và thể chế, các yếu tố về môi trường và địa lí,
văn hóa, lịch sử, mức độ mở cửa của nền kinh tế đối với đầu tư nước ngoài, các chính
sách về sử dụng lao động để nâng cao năng suất, chính sách quản lí kinh tế vĩ mô và cả
tác động của môi trường bên ngoài.
Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về quá trình tăng trưởng và các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình tăng trưởng. Các nghiên cứu này thường tập trung nhiều hơn vào các
yếu tố kinh tế nhưng chưa xem trọng các yếu tố về mặt xã hội. Trong nghiên cứu này, tác
giả sẽ tập trung vào hai nhân tố là y tế và giáo dục cùng với sự tương tác của hai yếu tố
này đến quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 đến 2016.
Mặc dù những nghiên cứu này đã chỉ ra ảnh hưởng của giáo dục hoặc y tế đến tăng
trưởng kinh tế, tuy nhiên việc xem xét ảnh hưởng tương tác của hai yếu tố này lên tăng
trưởng kinh tế như thế nào vẫn là một câu hỏi cần trả lời. Do đó cần nghiên cứu một cách
có hệ thống ảnh hưởng của giáo dục và y tế đối với quá trình tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, trong một giai đoạn đủ dài bằng những mô hình định lượng, kết quả sẽ cho phép
đánh giá một cách chính xác và đầy đủ vai trò của y tế và giáo dục đối với tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam. Việc đi sâu xem xét các yếu tố cấu thành và các chỉ số dùng làm
thước đo trong lĩnh vực y tế và giáo dục sẽ cho phép tác giả đưa ra những đề xuất cụ thể
mang tính khả thi cao.
Chính vì vậy, chủ đề mà NCS sẽ đề xuất trong dự định nghiên cứu này là “Xem xét ảnh
hưởng của giáo dục và y tế cùng với sự tương tác giữa hai yếu tố này lên quá trình tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam với số liệu được thu thập trong giai đoạn từ 2011 đến 2016”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu ảnh hưởng của hai yếu tố chính cấu thành
vốn con người là giáo dục và y tế; ảnh hưởng tương tác của chúng lên tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam, từ đó đề xuất các khuyến nghị về chính sách giáo dục và y tế nhằm giúp
thúc đẩy tăng trưởng.
Để thực hiện mục tiêu này, Luận án trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
(1) Giáo dục ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt giữa ảnh
hưởng chi tiêu công cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng chi tiêu tư nhân
cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế?
(2) Y tế ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt giữa ảnh hưởng
chi tiêu công cho y tế lên tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng chi tiêu tư nhân cho y tế lên
tăng trưởng kinh tế?
(3) Ảnh hưởng tương tác của giáo dục- y tế lên tăng trưởng kinh tế như thế nào?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Ảnh hưởng của giáo dục, y tế và tương tác của chúng đến tăng trưởng kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Không gian nghiên cứu: Các tỉnh/ thành phố trong cả nước Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2016
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng quan tài liệu: Kế thừa các tài liệu có sẵn, bao gồm các văn bản
pháp luật, chính sách; các sách đã xuất bản, các tư liệu, báo cáo phân tích, nghiên cứu
trong nước và nước ngoài liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh, thống kê, mô tả : để đánh giá thực trạng về giáo
dục, y tế, tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm rõ thực trạng của mối quan hệ giữa chi tiêu
của tư nhân và chi tiêu công cho giáo dục và chi tiêu cho y tế đến tăng trưởng kinh tế.
3
4
- Phương pháp phân tích định lượng: Luận án sử dụng một số mô hình kinh tế
lượng để phân tích ảnh hưởng của giáo dục, y tế và tương tác của chúng lên tăng trưởng
kinh tế Việt Nam; sử dụng mô hình định lượng để làm rõ sự khác nhau giữa các khoản
chi tiêu của tư nhân và chi tiêu công cho giáo dục và y tế lên tăng trưởng kinh tế. Hiệu
quả của các khoản chi được đánh giá qua dấu và độ lớn của các hệ số ước lượng của chi
tiêu cho y tế và chi tiêu cho giáo dục ở mô hình chi tiêu của tư nhân và chi tiêu công. Các
hệ số của mô hình lần lượt được ước lượng như sau:
Hồi quy số liệu chéo (OLS): Chi tiêu cho giáo dục hay y tế trong 1 năm có thể
chưa tạo ra vốn nhân lực ngay để tác động lên tăng trưởng kinh tế, chính vì vậy mô hình
số liệu chéo nhằm mục đích xem xét trung bình các yếu tố tạo ra vốn con người trong giai
đoạn 2011-2016 ảnh hưởng như thế nào lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Hồi quy số liệu mảng: bằng phương pháp ước lượng mô men tổng quát (GMM)
để xử lý vấn đề biến nội sinh cho mô hình số liệu mảng
Nguồn dữ liệu
- Số liệu sử dụng trong nghiên cứu gồm dữ liệu được khai thác từ Tổng Cục Thống kê
và Cục Thống kê các tỉnh, thành phố năm từ 2011-2016 thống kê theo 63 tỉnh.
- Các số liệu vĩ mô khác của Việt Nam giai đoạn 2011-2016 được cung cấp bởi
Tổng cục Thống kê.
- Số liệu chi tiêu giáo dục, y tế công được khai thác từ Bộ Tài Chính
- Số liệu điều tra về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và
Công thương Việt Nam (VCCI) cung cấp; dữ liệu về chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành
chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI)
- Số liệu điều tra mức sống dân cư (VHLSS) 2010-2016
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án sử dụng chủ yếu là phương pháp nghiên cứu định lượng, với các mô hình
kinh tế lượng được kiểm định đầy đủ để đảm bảo độ tin cậy cao để giải quyết một số vấn
đề khoa học có ý nghĩa quan trọng về lý thuyết và thực tiễn như sau:
Về mặt lý luận: Luận án kết hợp đồng thời các phương pháp ước lượng để phân
tích ảnh hưởng của các khoản chi (cho y tế và giáo dục) của tư nhân và chi tiêu công lên
tăng trưởng kinh tế.
Về mặt thực tiễn:
- Phân biệt rõ hiệu quả ảnh hưởng của các khoản chi tiêu của tư nhân cho y tế và
giáo dục lên tăng trưởng kinh tế so với hiệu quả các khoản chi tiêu công cho y tế và giáo
dục đến tăng trưởng kinh tế.
- Làm rõ được sự không hiệu quả của các khoản chi tiêu công cho y tế và giáo dục
so với các khoản chi tương ứng của hộ lên tăng trưởng kinh tế.
- Đánh giá được mức độ ảnh hưởng tương tác của 2 yếu tố giáo dục và y tế lên tăng
trưởng kinh tế ở cấp chi tiêu công và chi tiêu tư nhân, thông qua hệ số tương tác - Các kết
quả nghiên cứu của luận án là cơ sở để đề xuất một số khuyến nghị về chính sách để nâng
cao hiệu quả chi tiêu công cho giáo dục, y tế cũng như khuyến khích phát triển chất lượng
nguồn nhân lực của tư nhân theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
6. Kết cấu luận án:
Bố cục của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng về giáo dục, y tế và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn 2011-2016
Chương 3: Mô hình phân tích ảnh hưởng của giáo dục, y tế và tương tác của chúng
lên tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Chương 4: Kết luận và Khuyến nghị.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết về vai trò của vốn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở các lý thuyết tăng trưởng kinh tế, trong đó
vốn nhân lực đóng một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
1.1.1 Mô hình tăng trưởng cổ điển
Tăng trưởng kinh tế đã được các nhà kinh tế học cổ điển Adam Smith và David
Ricardo bàn đến từ cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, nhưng phải đến giữa thế kỷ 20, tăng
trưởng kinh tế mới được các nhà khoa học nghiên cứu một cách cơ bản. Cùng với tiến
trình đó, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế cũng ngày càng được hoàn thiện để làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong đời sống kinh tế. Nghiên cứu về
nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, các nhà khoa học đã chia các nhân tố tăng trưởng ra
hai nhóm: nhân tố ngoại sinh và nhân tố nội sinh.
1.1.2 Mô hình tăng trưởng tân cổ điển
Trong những năm 1960, lý thuyết tăng trưởng bao gồm chủ yếu là mô hình tân cổ
điển, như Ramsey (1928), Solow (1956), Swan (1956), Cass(1965). Một đặc điểm của mô
hình này là tài sản có tính hội tụ. Mức khởi đầu của tổng sản phẩm quốc nội trên đầu người
(GDP) càng thấp thì tốc độ tăng trưởng dự báo càng cao. Giáo dục là tâm điểm chú ý đối với
các nhà kinh tế học khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế kể từ khi các mô tăng trưởng nội
sinh được giới thiệu. Vào những năm 1950, mô hình tăng trưởng Solow-Swan đã bao hàm cả
lao động như là một yếu tố sản xuất gia tăng và tiến bộ công nghệ như là biến ngoại sinh
khác biệt theo thời gian, các yếu tố quyết định tăng trưởng trong dài hạn (Solow 1957), vốn
nhân lực gia tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, dẫn đến mức thu nhập cao hơn (Schultz
1961). Vấn đề này được các nhà kinh tế học, những người đồng tình với các luận điểm trong
lý thuyết vốn nhân lực của Schultz ủng hộ (Blaug 1976).
1.1.3. Lý thuyết tăng trưởng nội sinh
Vào những năm 1980, lý thuyết tăng trưởng nội sinh được Romer giới thiệu nhằm
khắc phục những hạn chế đã được nhận ra trong mô tăng trưởng tân cổ điển Swan-Solow
(Romer 1986). Khung lý thuyết này làm nổi bật vai trò quan trọng của nghiên cứu và phát
triển nguồn nhân lực, bao gồm giáo dục, như là cơ chế cho việc tích lũy kiến thức công nghệ.
1.2 Các khái niệm và đo lường về giáo dục, y tế, tăng trưởng kinh tế
1.2.1 Khái niệm và đo lường về Giáo dục
1.2.1.1 Khái niệm về Giáo dục
Từ khi ra đời, giáo dục đã trở thành một trong những yếu tố cơ bản thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế - xã hội thông qua việc thực hiện chức năng xã hội của giáo dục.
Các khái niệm giáo dục có thể được hiểu như sau:
5
6
Theo Dewey, John (1944) Giáo dục được hiểu là hình thức học tập theo đó kiến
thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự
hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học
1.2.1.2 Đo lường Giáo dục
Nhiều nhà nghiên cứu đã đo lường giáo dục theo các cách khác nhau, tuy nhiên
phổ biến nhất là đo lường một cách trực tiếp gián tiếp
Theo cách đo trực tiếp, Giáo dục được đo bằng tỷ lệ nhập học, số năm đi học bình
quân, tỷ lệ nhập học các cấp, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học, tỷ lệ đào tạo nghề…
Theo cách đo gián tiếp, Giáo dục được đo bằng chi tiêu cho giáo dục
Chi tiêu Giáo dục bao trùm toàn bộ các nguồn lực tài chính sử dụng để huy động
nguồn lực con người và vật chất cần thiết cho sự vận hành của hệ thống giáo dục, chi tiêu
Giáo dục bao gồm:
- Chi tiêu công (chính phủ) cho đầu vào nhân lực và vật chất cần thiết cho cung cấp
các dịch vụ giáo dục
- Các chi tiêu tư nhân từ học sinh và gia đình
- Chi tiêu xã hội từ phía cả cộng đồng
1.2.2 Khái niệm và đo lường về Y tế
1.2.2.1 Khái niệm về Y tế
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì: y tế hay chăm sóc sức khỏe, là việc chẩn
đoán, điều trị và phòng ngừa bệnh, bệnh tật, thương tích, và suy yếu về thể chất và tinh
thần khác ở người. Chăm sóc sức khỏe khác nhau giữa các nước, các nhóm và cá nhân,
phần lớn chịu ảnh hưởng bởi các điều kiện xã hội và kinh tế cũng như các chính sách y tế
tại chỗ. Hệ thống chăm sóc y tế là các tổ chức được thành lập để đáp ứng nhu cầu sức
khỏe của dân số. Chi tiêu cho y tế của hộ gia đình là tổng số tiền của hộ gia đình phải chi
cho tất cả các khoản có liên quan đến y tế, bao gồm phòng bệnh, nâng cao sức khoẻ và
khám, chữa bệnh. Chi của hộ gia đình có thể là các khoản chi trả trước khi bị ốm (ví dụ:
mua BHYT) hoặc chi trực tiếp từ tiền túi khi sử dụng dịch vụ.
1.2.2.2 Đo lường Y tế
Cũng như giáo dục, y tế cũng được đo lường theo cách trực tiếp và gián tiếp.
Theo cách đo trực tiếp, Y tế được đo bằng: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi thọ bình
quân, chất lượng chăm sóc sức khỏe...
Theo cách đo gián tiếp, Y tế được đo bằng chi tiêu cho Y tế, tổng chi cho y tế
quốc gia thể hiện tổng chi của toàn xã hội cho y tế, được tạo nên bởi hai nhóm chi tiêu
chính là chi công và chi tư cho y tế.
Tổng chi y tế quốc gia = Chi công cho y tế + Chi tư cho y tế
Chi tiêu công cho Y tế : Nói theo cách đơn giản: khi một dịch vụ được chi trả từ
nguồn thu thuế của nhà nước, hay từ quỹ BHYT xã hội, hay từ nguồn vốn ODA (do nhà
nước điều phối), thì khoản chi đó được gọi là chi công.
Chi công = chi NSNN cho y tế (không tính chi NSNN cấp qua BHYT) + chi quỹ
BHYT xã hội + chi nguồn ODA
Chi tiêu tư nhân cho Y tế
Các khoản chi: do cá nhân, hộ gia đình trả trực tiếp cho nhà cung ứng dịch vụ khi
ốm đau và sử dụng dịch vụ, khi mua thuốc và các vật tư thiết bị liên quan đến sức khỏe,
là chi tư. Với khái niệm như vậy, viện phí và các khoản đồng chi trả (khi KCB BHYT) do
bệnh nhân trả trực tiếp từ tiền túi, dù được thu ở bệnh viện công hay bệnh viện tư, đều là
chi tư.
Chi tư = chi trực tiếp của hộ gia đình + chi bởi tổ chức từ thiện, doanh nghiệp
(không tính đóng góp của doanh nghiệp cho BHYT xã hội) + chi BHYT tư nhân
Chi tiêu trực tiếp từ tiền túi cho y tế
1.2.3. Khái niệm và đo lường tăng trưởng kinh tế
1.2.3.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Khái niệm tăng trưởng kinh tế (Economic growth) lần đầu tiên xuất hiện trong tác
phẩm Của cải của các dân tộccủa Adam Smith xuất bản năm 1776, và đến năm 1956
trong bài viết Một đóng góp cho lý thuyết tăng trưởng kinh tế nhà kinh tế học Robert
Solow mới lý giải đầy đủ khái niệm này. Đến nay, khái niệm tăng trưởng kinh tế đã được
phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn, hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất quan
điểm: tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản phẩm quốc dân trong một thời kỳ nhất
định, là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ do nền kinh tế tạo ra, không
kể các hoạt động ấy được thực hiện trong nước hay nước ngoài.
1.2.3.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng bình quân hàng năm của một Quốc gia thường được đo như sau:
ggdpt = GDPt /GDPt-1 ,
trong đó: GDP là bình quân thu nhập đầu người, t là thời gian năm cần khảo sát
Tuy nhiên cách tính này chỉ mới thể hiện được tốc độ tăng trưởng của năm sau so
với năm trước như thế nào. Chính vì thế nhiều Quốc gia trên thế giới đo tăng trưởng kinh
tế thông qua GDP, thước đo lường kết quả sản xuất xã hội hàng năm, dùng để so sánh
quốc tế về mặt lượng của trình độ phát triển kinh tế giữa các nước, các nước có nền kinh
tế thị trường vẫn thường sử dụng 2 loại chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: Tổng sản phẩm quốc
dân (Gross National Product, viết tắt là GNP), tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic
Product, viết tắt là GDP).
Phương pháp đo lường GDP
Hiện nay ở Việt Nam, Tổng cục thống kê tính toán GDP theo ba phương pháp:
phương pháp chi tiêu, phương pháp thu nhập và phương pháp sản xuất.
Phương pháp chi tiêu: Phương pháp này đo lường GDP bằng cách thu thập các dữ
liệu về chi tiêu cho tiêu dùng (C), đầu tư (I), chi tiêu của chính phủ về hàng hóa dịch vụ
(G) và xuất khẩu ròng (NX).
Phương pháp thu nhập: Phương pháp này tính GDP theo chi phí các yếu tố đầu
vào của sản xuất mà các hàng kinh doanh phải thanh toán, tiền trả lãi vốn vay, tiền thuê
nhà xưởng, tài sản, tiền thanh toán tiền công, tiền lương, lợi nhuận thu được khi tham gia
kinh doanh, thu để bù đáp giá trị máy móc thiết bị, tài sản cố định đã hao mòn trong quá
trình sản xuất.
Phương pháp sản xuất (phương pháp giá trị gia tăng): Theo phương pháp giá trị
gia tăng, thì GDP được tập hợp tất cả các giá trị tăng thêm của các doanh nghiệp trong
quá trình sản xuất thường là một năm.
7
8
Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng đầu ra của một doanh
nghiệp với khoản mua vào về nguyên nhiên vật liệu mua của các doanh nghiệp khác mà
được sử dụng hết trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó.
1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
1.3.1. Ảnh hưởng của giáo dục lên tăng trưởng kinh tế
Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng năng
suất lao động
1.3.2 Ảnh hưởng của y tế lên tăng trưởng kinh tế
Sức khỏe là nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế, một trong những chìa
khóa đối với yếu tố quyết định hiệu quả kinh tế cả ở cấp vi mô và vĩ mô, góp phần vào
quá trình tăng trưởng kinh tế. Điều này cũng xuất phát từ các nghiên cứu của Blomm &
Canning (2003), Grossman (1972) cho rằng sức khỏe là một thành phần trực tiếp của đời
sống con người và là một hình thức làm tăng sự phát triển cá nhân, thông qua đó tác động
đến tăng trưởng kinh tế xã hội. Một số nhà nghiên cứu có cùng quan điểm
Lucas (1988), Rebelo (1991), Caballe và Santos (1993), Mulligan và Sala-i-Martin
(1993), và Barro và Salai-Martin (1995a, Ch.5), Nelson và Phelps (1966), Benhabib và
Spiegel (1994)), Robert J. Barro (2013) đã phân tích một cách hiệu quả để mở rộng mô
hình tăng trưởng tân cổ điển - để kết hợp khái niệm vốn về sức khoẻ. Một điểm chính của
phân tích này là sự kết hợp hai chiều giữa sức khoẻ và nền kinh tế.
1.3.3 Ảnh hưởng tương tác của giáo dục, y tế lên tăng trưởng kinh tế
Về kênh tác động giữa sức khỏe tốt cải thiện vấn đề giáo dục, Schultz (1961), giáo
dục và y tế là hai cấu phần chính của thành phần vốn nhân lực có tác động trực tiếp đến chất
lượng lao động và tăng trưởng kinh tế, ngoài ra các kênh lý thuyết cho rằng, việc cải thiện
sức khỏe dẫn đến nâng cao nhận thức về giáo dục trong suốt cuộc đời của mỗi con người.
Romer (1986), Lucas (1988), Squire (1993), Schultz (1999), Bassanini và Scarpetta (2001),
Churchill và cộng sự (2015). Bloom (2005), Yin-Chi Wang (2011) cho rằng ngoài ra chi
tiêu cho giáo dục và y tế là hai yếu tố bổ sung cho nhau, việc tăng chi tiêu y tế có thể góp
phần nâng cao tác động đến tăng trưởng kinh tế, dẫn đến tăng hiệu quả giáo dục và nâng cao
vốn con người; do vậy, chi tiêu công cho giáo dục và y tế nên kết hợp nhằm hướng tới tác
động tích cực đến nguồn nhân lực và tăng trưởng kinh tế.
1.3.4 Một số yếu tố khác ảnh hưởng lên tăng trưởng kinh tế
Các mô hình tân cổ điển đã chỉ ra vai trò quan trọng của vốn con người trong quá
trình tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên các mô hình còn cho thấy một số yếu tố khác cũng có
ảnh hưởng trực tiếp tới cá nhân người lao động và tăng trưởng kinh tế.
Ảnh hưởng của tiền lương, thu nhập lên tăng trưởng kinh tế
Ảnh hưởng của vốn đầu tư lên tăng trưởng kinh tế
Ảnh hưởng của việc làm lên tăng trưởng kinh tế
Ảnh hưởng của môi trường thể chế lên tăng trưởng kinh tế
1.4. Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của giáo dục, y tế và tương tác của
chúng đến tăng trưởng kinh tế
1.4.1. Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế
Theo trường phái thứ nhất.
thước đo trực tiếp biến giáo dục có thể được được đo bằng tỷ lệ nhập học, số năm đi
học bình quân, tỷ lệ nhập học các cấp, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học, tỷ lệ đào tạo nghề
một số nghiên cứu cụ thể như: Mankiw và cộng sự (1992, Lee(2000), Lin(2004), Kwach
và Lee (2006), Cooray (2012), Khattak và Khan (2012a), Omojimite và Ben (2010),
Sawami Matsushita và cộng sự (2006)
Theo trường phái thứ hai
Thước đo gián tiếp, biến giáo dục được đo bằng chi tiêu cho giáo dục, trong chi tiêu
cho giáo dục bao gồm 2 biến thành phần: chi tiêu công cho giáo dục, chi tiêu hộ gia đình
cho giáo dục, một số nhà nghiên cứu đã minh chứng như : Yousra Mekdad và cộng sự
(2014), Kouton và Jeffrey ( 2018), Salwa Trabelsi (2017), Mallick và cộng sự (2016),
Elumah Lucas O và Shobayo Peter B. (2017) , Barro and Sala-i-Martin (1995), Mankiw
và cộng sự (1992), Barro (1991), Zeynep Karaçor và cộng sự (2017)
Ngoài tác động trực tiếp thì giáo dục còn gián tiếp tác động lên tăng trưởng kinh tế
thông qua những bổ sung của nó cho các yếu tố tăng trưởng khác. Đáng chú ý, có các
nghiên cứu ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua sự bổ sung của nó cho tính
minh bạch: Kwack và Lee (2006), Pyo(1995); Kang(2006). Trong những năm gần đây ở
Việt Nam: cũng đã có một số nghiên cứu thực nghiệm phân tích vai trò của giáo dục đối với
tăng trưởng. Các nghiên cứu tập trung giải thích kinh nghiệm tăng trưởng của Việt Nam
trong những năm gần đây, dựa trên các biến số kinh tế - xã hội bao gồm vốn con người
(Scott và Trương Thị Kim Chuyên (2004), Klump và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2004)), Moock
và cộng sự (1998), Nguyễn Nguyệt Nga (2002), Nguyễn Đức Thành (2004) , Wolff (2000),
Bils và Klenow (2000), Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), Nguyễn Ngọc Hùng và
Tống Thị Lộc (2017), Ngô Thái Hưng (2015), Bùi Quang Bình (2012)
1.4.2. Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của y tế lên tăng trưởng kinh tế
Theo trường phái đo trực tiếp Y tế
Thước đo trực tiếp biến y tế được đo bằng: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi thọ bình quân,
chất lượng chăm sóc sức khỏe, mộ số nghiên cứu có thể kể đến như: Bloom và cộng sự
(2004), Daron Acemoglu và Simon Johnson (2007), Naeem akram và cộng sự (2008),
Usman và cộng sự (2015)
Theo trường phái đo gián tiếp Y tế
Thước đo gián tiếp, biến y tế được đo bằng chi tiêu cho Y tế, tổng chi cho y tế quốc
gia thể hiện tổng chi của toàn xã hội cho y tế, được tạo nên bởi hai biến thành phần: chi tiêu
công cho y tế, chi tiêu hộ gia đình cho y tế, một số nghiên cứu như : Piabuo and Tieguhong
(2017) , Eugene Kouassi và cộng sự. (2018) , Zahramila Elmi và Somaye. Sadeghi (2012),
Marta (2011) , Ozturk và Topçu (2014) , Atılgan, Kılıç và Ertuğrul (2017)
Tuy nhiên có một số nghiên cứu kết luận chi tiêu công của chính phủ đối với
nguồn nhân lực không có ảnh hưởng đáng kế đến tăng trưởng như: Maku (2009), Cetin
và Ecevit (2010), Juste Somé và cộng sự (2019)
Ở Việt Nam từ trước đến nay còn rất ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của y tế và
chăm sóc sức khỏe đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Thông thường thì vấn đề y tế và
chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế được nghiên cứu thông qua các
kênh tác động gián tiếp hoặc qua các ảnh hưởng tương tác với các yếu tố khác. Đây có
thể coi là khoảng trống nghiên cứu mà trong nghiên cứu này này tác giả muốn đi sâu xem
9
10
xét bằng cách sử dụng các mô hình định lượng với bộ số liệu mảng. Một số nghiên cứu
cụ thế về ảnh hưởng của y tế đến tăng trưởng kinh tế: Vũ Trịnh Thế Quân (2015),
Nguyễn Quang Trung và Trần Phạm Khánh Toàn (2014), Nguyễn Đình Tuấn (2013)
Nguyễn Đình Tuấn (2013), Nguyễn Thị Thu Hương (2009), Đàm Viết Cương (2006)
1.4.3. Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng tương tác của giáo dục, y tế lên tăng
trưởng kinh tế
Đo ảnh hưởng tương tác của Giáo dục và Y tế bao gồm 2 biến: Chi tiêu công cho giáo
dục và Chi tiêu hộ gia đình cho giáo dục; chi tiêu công cho Y tế và chi tiêu hộ gia đình
cho Y tế một số nghiên cứu có thể kể đến như: Hongyi Li và Huang Liang (2010), Sergio
Beraldo (2003), Azam và Ahmed (2010), Tang & Lai (2011), Bloom và cộng sự (2001),
Jude Eggoh và cộng sự (2015), Awaworyi và cộng sự (2015), Hüseyin 4en và cộng sự
(2015), Selsah Pasali (2019), Yin-Chi Wang (2011), Bloom (2005), Isola và Alani (2005),
Tuy nhiên Grossman (1972), Hassan và Kalim (2012)
Ở Việt Nam cũng có một số nghiên cứu đồng thời hai yếu tố Giáo dục và Y tế đến
tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên các nghiên cứu chưa phân tách và đi sâu và 2 yếu tố này,
thường chỉ xem xét nó trong mối quan hệ làm tăng chất lượng nguồn nhân lực như: Nguyễn
Quang Trung và Trần Phạm Khánh Toàn (2014), Nguyễn Ngọc Hùng (2016)
1.5. Khung phân tích của luận án
NCS đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
tangtruongkinhte = β 0 + β1 giaoduc + β 2 yte + β 3 giaoduc * yte + β 4bienkiemsoat + ε
Trong đó:
- Tangtruongkinhte: Thu nhập bình quân đầu người (GDP); giaoduc: Giáo
dục; yte: Y tế; bienkiemsoat: cac yếu tố khác có tác động đến tăng trưởng kinh tế; - β 0 ;
β1 ; β 2 ; β3 ; β 4 ; ε là các hằng số
Các biến của mô hình:
- Biến phụ thuộc: Tăng trưởng kinh tế, được đo bằng thu nhập bình quân đầu người
(GDP)
- Biến Giáo dục gồm 2 thước đo, (i) thước đo trực tiếp biến giáo dục có thể được
được đo bằng tỷ lệ nhập học, số năm đi học bình quân, tỷ lệ nhập học các cấp, tỷ lệ sinh viên
tốt nghiệp đại học, tỷ lệ đào tạo nghề…(ii) Thước đo gián tiếp, biến giáo dục được đo bằng
chi tiêu cho giáo dục, trong chi tiêu cho giáo dục bao gồm 2 biến thành phần: chi tiêu công
cho giáo dục, chi tiêu hộ gia đình cho giáo dục
- Biến Y tế gồm 2 thước đo, (i) thước đo trực tiếp biến y tế được đo bằng: tỷ lệ sinh,
tỷ lệ chết, tuổi thọ bình quân, chất lượng chăm sóc sức khỏe …(ii) Thước đo gián tiếp,
biến y tế được đo bằng chi tiêu cho Y tế, tổng chi cho y tế quốc gia thể hiện tổng chi của
toàn xã hội cho y tế, được tạo nên bởi hai biến thành phần: chi tiêu công cho y tế, chi tiêu
hộ gia đình cho y tế
- Biến tương tác, bao gồm 2 biến: Chi tiêu công cho giáo dục và Chi tiêu hộ gia
đình cho giáo dục; chi tiêu công cho Y tế và chi tiêu hộ gia đình cho Y tế
- Biến kiểm soát: Vốn, Việc làm, Môi trường thể chế (Tham gia của người dân ở
cấp cơ sở; Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công; Cung ứng dịch vụ công - Thủ tục
hành chính công; Điều kiện pháp lý)
Luận án đưa ra các giả thuyết nghiên cứu:
H1: Giáo dục có ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng kinh tế
H2: Có sự khác biệt ảnh hưởng của chi tiêu tư nhân cho giáo dục lên tăng trưởng
kinh tế và ảnh hưởng của chi tiêu công cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế
H3: Y tế có ảnh hưởng tích cực lên Tăng trưởng kinh tế
H4: Có sự khác biệt ảnh hưởng của chi tiêu tư nhân cho y tế lên tăng trưởng kinh
tế và ảnh hưởng của chi tiêu công cho y tế lên tăng trưởng kinh tế
H5: Tác động của y tế lên tăng trưởng phụ thuộc vào mức độ của giáo dục (Tương
tác Giáo dục và Y tế có ảnh hưởng lên tăng trưởng kinh tế) và ngược lại
Mô hình này mới chỉ là mô hình tổng quát, phản ánh tác động của các biến độc lập
lên biến phụ thuộc nói chung. Việc cụ thể mối quan hệ tác động theo thời gian sẽ được
thể hiện bằng các mô hình nghiên cứu chuyên biệt trong phần chương 3: mô hình nghiên
cứu thực nghiệm.
Nhận Xét
Chương 1, tác giả đã giới thiệu cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu về: (i)
lý thuyết ảnh hưởng của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế; (ii) lý thuyết ảnh hưởng của y
tế đến tăng trưởng kinh tế; (iii) lý thuyết ảnh hương tương tác của giáo dục và y tế đến
tăng trưởng kinh tế. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy giáo dục, y tế và ảnh hưởng tương
Giáo dục
(He)
Vốn tư bản
(K)
Tăng trưởng
kinh tế
Ảnh hưởng tương tác
giáo dục và y tế
Y tế
(Hh)
Lao động
(việc làm)
Môi trường thể chế:
- Tham gia của người dân ở cấp cơ sở;
- Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công
- Cung ứng dịch vụ công - Thủ tục hành chính công
- Điều kiện pháp lý
- PCI
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu chính thức
Nguồn: Tác giả đề xuất
Mô hình nghiên cứu
Mô hình tổng quát:
11
12
tác đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, tuy nhiên một số nghiên cứu đã
không tìm thấy bằng chứng về sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến tăng trưởng kinh tế.
Thông qua tổng quan cho thấy, các nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác của giáo
dục và y tế đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cũng chưa có nhiều và chưa sâu, đa số
các nghiên cứu đều nhấn mạnh quan điểm rằng vốn con người là hàm số của tổng chi tiêu
cho giáo dục và y tế và xác định chi tiêu công như một yếu tố quyết định của vốn con
người, hoặc là cân nhắc một trong hai yếu tố chi cho y tế hoặc giáo dục. Phần lớn các
nghiên cứu trong nước sử dụng phương pháp phân tích định tính hoặc nếu có xây dừng
mô hình thì chưa nghiên cứu sâu ảnh hưởng tương tác của 2 yếu tố này đến tăng trưởng
kinh tế. Khác biệt về phương pháp tiếp cận đó, nên trong Luận án này tác giả xem xét cả
chi tiêu cho y tế và giáo dục ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tác giả đã lựa chọn sử
dụng phương pháp định lượng, và một số phương pháp ước lượng các biến số: phương
pháp ước lượng số liệu mảng; phương pháp ước lượng moment tổng quát GMM, lựa
chon các biến số phù hợp với phạm vi nghiên cứu và bộ số liệu kinh tế vĩ mô thu thập,
các biến số có thể sử dụng để đo lường như: chi tiêu công cho giáo dục; chi tiêu tư nhân
cho giáo dục; tỷ lệ lao động qua đào tạo; tỷ lệ lao động có bằng cấp chứng chỉ, chi tiêu
công cho y tế; chi tiêu tư nhân cho y tế; tuổi thọ bình quân, một số yếu tố kiểm soát: vốn;
lao động; việc làm; môi trường thể chế
2.2.1. Thực trạng về giáo dục phổ thông
Ngành giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục phổ thông ngày càng được toàn xã
hội quan tâm sâu sắc, đặc biệt là quan điểm về phổ cập giáo dục ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, đầu tư cho ngành giáo dục về cơ sở vật chất, trường lớp, đội ngũ giáo
viênngày càng được nâng cao.
- Về số trường học:
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, giai đoạn từ 2011 đến 2017, số trường học phổ
- Về số giáo viên và học sinh:
+) Số giáo viên:
+) Số học sinh phổ thông
2.2.2. Thực trạng về giáo dục đại học
Giáo dục bậc cao đặc biệt là giáo dục cao đẳng, đại học vẫn luôn là mốt quan tâm
lớn của toàn xã hội đặc biệt là đối với học sinh cuối cấp và phụ huynh của họ. Bảng sau
thể hiện quy mô trường học; giáo viên và sinh viên theo học qua các năm.
Về số trường học:
Về số giáo viên và sinh viên:
2.2.3. Thực trạng về giáo dục nghề nghiệp
Hoạt động giáo dục nghề nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi quản lý nhà nước về cơ
sở giáo dục nghề nghiệp được quy về một đầu mối, đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ. Chính
vì vậy tại Nghị quyết 76/NQ-CP ngày 3 tháng 9 năm 2016 Chính phủ thống nhất giao cho Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Bộ
Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lý nhà nước đối với các trường sư phạm.
- Theo loại hình cơ sở giáo dục nghề nghiệp
- Theo khu vực kinh tế-xã hội
- Theo hình thức sở hữu
Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định có 3 loại hình thức sở hữu cơ sở giáo dục
nghề nghiệp bao gồm: Cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp
tư thục và cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc doanh nghiệp
- Thực trạng về học sinh, sinh viên học nghề
+) Số lượng tuyển sinh CĐN, TCN, Sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng
tăng so với năm 2015
+) Thông tin tốt nghiệp
+) Kết quả tốt nghiệp CĐN, TCN, SCN và Dạy nghề dưới 3 tháng chia theo
vùng kinh tế - xã hội
2.3. Thực trạng chi tiêu cho giáo dục
2.3.1. Thực trạng chi tiêu công cho giáo dục
Nhìn chung chi tiêu công bình quân cho giáo dục có xu hướng gia tăng theo từng
năm trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 ở tất cả các nhóm tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, có sự gia tăng rõ nhất ở hai nhóm tăng trưởng thấp nhất và tăng trưởng cao
nhất. Theo đó, chi tiêu công bình quân cho giáo dục ở nhóm tăng trưởng thấp nhất tăng
đều từ mức 0,45 triệu đồng/người/năm ở năm 2011 đến 0,60 triệu đồng/người/năm vào
năm 2015. Trong khi đó, một sự gia tăng mạnh mẽ hơn ở nhóm tăng trưởng cao nhất, từ
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2016
2.1. Một số chính sách về Giáo dục và Y tế
2.1.1 Một số chính sách giáo dục và đào tạo ở Việt Nam có hiệu lực trong giai
đoạn 2011 - 2016
- Chính sách về cách nhìn nhận đa chiều trongnhận thức vai trò của giáo dục - Chính sách bảo đảm phát triển cân đối hệ thống giáo dục từ phía Nhà nước:
- Chính sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
2.1.2 Một số chính sách liên quan đến khám chữa bệnh ở Việt Nam có hiệu lực
trong giai đoạn 2011 – 2016
- Chính sách về tài chính
- Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo (Quyết định 139/2002/QĐ-TTg sửa
đổi năm 2012)
- Chính sách mở rộng việc chi trả chi phí khám, chữa bệnh BHYT cho người nhiễm
HIV/AIDS
- Chính sách về hỗ trỡ chuyên môn
- Chính sách liên quan đến khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế (BHYT)
- Chính sách phân bổ nguồn ngân sách
2.1.3. Chính sách phân bổ nguồn ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho
Giáo dục và Y tế
2.2. Thực trạng về giáo dục giai đoạn 2011-2016
13
14
mức 0,35 triệu đồng/người/năm ở năm 2011 tăng mạnh lên mức 0,60 triệu
đồng/người/năm ở năm kế tiếp và đạt mức 0,85 triệu đồng/người/năm ở năm 2015. Điều
đó cho thấy, có sự khác biệt đáng kể giữa chi tiêu công bình quân cho giáo dục giữa các
tỉnh thuộc các nhóm có mức tăng trưởng GDP cao nhất và các tỉnh có mức tăng trưởng
thuộc nhóm thấp nhất. Tuy nhiên, sự khác biệt về mức chi tiêu công bình quân cho giáo
dục là không rõ ràng ở các tỉnh thuộc các nhóm tăng trưởng trung gian như nhóm tăng
trưởng thấp, nhóm tăng trưởng trung bình và tăng trưởng cao. Từ đó, có thể đặt ra một
giả thuyết rằng tồn tại một mối tương quan dương giữa chi tiêu công bình quân cho giáo
dục với tăng trưởng kinh tế qua các năm trong giai đoạn khảo sát.
2.3.2.Thực trạng chi tiêu tư nhân cho giáo dục
Theo nhóm thu nhập, hộ càng giàu thì mức chi cho giáo dục càng lớn, tính đến
năm 2016, mức chi bình quân chung một người một tháng là 1,14 triệu đồng, trong khi
chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người nhóm giàu nhất (2,2 triệu đồng/người/ tháng)
cao gấp hơn 4 lần nhóm nghèo nhất (0,49 triệu đồng/người/năm) và hơn gấp 2 lần mức
chi bình quân chung. Tuy nhiên, tỷ trọng chi tiêu đầu tư cho giáo dục trong tổng chi tiêu
của hộ lại rất thấp, chỉ chiếm khoảng 2% tổng chi tiêu của hộ.
2.4. Thực trạng về y tế giai đoạn 2011-2016
2.5. Thực trạng chi tiêu cho y tế
2.5.1. Thực trạng chi tiêu công cho y tế
Hai luồng tài chính công lớn để cung cấp tài chính cho y tế ở Việt Nam là vốn ngân
sách nhà nước và quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) xã hội. Do hoạt động đầu tư tư nhân thường
hướng tới lợi nhuận, Chính phủ vẫn khẳng định sẽ tiếp tục tăng ngân sách cho y tế nhằm
mục tiêu công bằng và hiệu quả của ngành y tế.
2.5.2. Thực trạng chi tiêu tư nhân cho y tế
Nghiên cứu từ số liệu khảo sát mức sống dân cư năm 2012 và 2014 cho thấy chi
tiêu cho y tê bình quân đầu người năm 2016 tăng đáng kể so với năm 2010 và nó diễn ra
khá đều ở tất cả các nhóm thu nhập.
Đa số những người nằm trong nhóm nghèo nhất đều là những hộ thuộc khu vực nông
thôn và chi tiêu bình quân cho y tế của nhóm này tăng khá nhanh trong giai đoạn 2010-2016,
năm 2010 bình quân một người trong nhóm này chi tiêu y tế bình quân là 253,6 nghìn
đồng/người/năm và đến năm 2016, con số này là 835,8 nghìn đồng/ người/ tháng, tăng gấp
hơn 3 lần so với năm 2010.Đến năm 2016, mức chi tiêu cho y tế bình quân chung một người
một tháng là 1,36 triệu đồng, trong khi chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người nhóm giàu
nhất (1,9 triệu đồng/người/tháng) cao gấp hơn 2 lần nhóm nghèo nhất (0,83 triệu
đồng/người/năm) và hơn gấp 1,5 lần mức chi bình quân chung.
2.6. Thực trạng tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn 2011-2016: kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn do những vấn
đề nội tại của nền kinh tế và chịu tác động không nhỏ của sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trong hai năm 2011-2012, tăng trưởng kinh tế liên tiếp sụt giảm, từ mức 6,42% năm
2010 xuống còn 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012.
Từ năm 2013 cho đến nay, với nỗ lực điều hành chính sách, tháo gỡ khó khăn cho
nền kinh tế đồng thời nhờ những tác động tích cực của sự phục hồi kinh tế thế giới, kinh
tế trong nước bắt đầu có sự cải thiện đặc biệt ghi nhận mức tăng trưởng đột phá trong
năm 2015, ước đạt 6,68%, vượt 0.48 điểm phần trăm so với kế hoạch đề ra”.
2.7 Thực trạng tăng trưởng kinh tế chi tiêu cho y tế và giáo dục
Theo từng năm, mức chi tiêu trung bình của hộ cho y tế và giáo dục của hộ dường
như có sự biến động trong một phạm vi hẹp với tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, các điểm dữ liệu
cho các mối quan hệ này tập trung quanh đường trung bình song song với trục tăng trưởng
kinh tế. Điều đó có nghĩa, một sự dao động mạnh của các mức chi tiêu trung bình cho giáo dục
và y tế của hộ chỉ làm thay đổi một lượng nhỏ trong tốc độ tăng trưởng GDP của đất nước.
Tương tự, phân theo ngũ phân vị tăng trưởng kinh tế thì đồ thị phân tán của các
mức chi tiêu công cũng như chi tiêu bình quân của hộ cho y tế và giáo dục với tăng
trưởng kinh tế cho thấy có phân bố hình cầu, hay không tồn tại một dạng phân bố tuyến
tính về mối quan hệ giữa các mức chi tiêu lên tăng trưởng kinh tế ở 5 nhóm tăng trưởng
kinh tế trong giai đoạn khảo sát.
Xét về mặt tổng thể của bộ dữ liệu trong giai đoạn khảo sát thì có thể tồn tại một
mối quan hệ tuyến tính dương giữa các mức chi tiêu cho y tế và giáo dục của hộ lên tăng
trưởng kinh tế.
Nhận Xét
Trong chương 2 thông qua phân tích tổng hợp và so sánh thực trạng về giáo dục và
đạo tạo, y tế hiện nay, tác giả đã tìm ra một số yếu tố như: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ lao
động qua đào tạo, tỷ lệ sinh viên, tỷ lệ trình độ đại học/dân số, số bác sỹ/1 vạn dân là
những yếu tố có liên quan đến năng suất lao động, vậy các yếu tố này ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế như thế nào?
Ngoài ra, thông qua bộ dữ liệu được tổng hợp từ GSO trong giai đoạn khảo sát từ năm
2011 đến năm 2015 thì bước đầu xác định được một mối tương quan dương giữa các khoản
chi tiêu công cũng như chi tiêu bình quân của hộ cho y tế, giáo dục với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, sự tương quan này là tương đối nhỏ. Kết quả thống kê qua phương pháp đồ thị cho
thấy một mô thức rõ ràng về các khoản chi tiêu cho giáo dục qua từng năm và giữa các nhóm
tăng trưởng kinh tế. Các vấn đề này sẽ lần lượt được làm sáng tỏ trong chương 3.
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ TƯƠNG TÁC
CỦA CHÚNG LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Dữ liệu, biến số sử dụng trong mô hình
3.1.1 Dữ liệu sử dụng
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu gồm dữ liệu được khai thác từ Tổng Cục Thống
kê và Bộ Tài Chính các năm từ 2011-2016 thống kê theo 63 tỉnh, thành phố gồm các
thông tin về: GDP, vốn, lao động, chi tiêu cho giáo, chi tiêu cho y tế. Ngoài ra còn một số
dữ liệu khác được sử dụng trong mô hình như là biến kiểm soát gồm: dữ liệu về chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được thực hiện bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam; dữ liệu về chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam, số
liệu điều tra mức sống dân cư (VHLSS) 2011-2016
3.1.2. Các biến số
Từ tổng quan nghiên cứu và phân tích thực trạng của giáo dục và y tế, tác giả đã
lựa chọn các biến số sử dụng trong các mô hình kinh tế lượng để đo lường cho giáo dục
15
16
và y tế, tăng trưởng kinh tế, gồm hai nhóm: biến phụ thuộc và các biến độc lập. Trước
tiên, biến phụ thuộc (GDP) là tổng sản phẩm hàng năm của tỉnh.
Biến độc lập được phân làm 3 nhóm yếu tố: (i) nhóm biến giáo dục, (ii) nhóm
biến về y tế, (iii) nhóm biến kiểm soát. Cụ thể:
(i) Nhóm biến thể hiện cho giáo dục bao gồm các biến:
- Chi tiêu công cho giáo dục
- Chi tiêu của tư nhân cho giáo dục là tổng chi tiêu của tư nhân cho giáo dục trong
một năm theo tỉnh
- Tỷ lệ dân số có trình độ đại học/dân của tỉnh trong năm i
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh trong năm i
Các biến chi tiêu công cho giáo dục, chi tiêu của tư nhân cho giáo dục được logarit
hóa trước khi đưa vào mô hình để đảm bảo những biến này sẽ phân phối chuẩn.
(ii) Nhóm biến thể hiện cho y tế bao gồm các biến:
- Chi tiêu công cho y tế là khoản chi thường xuyên của chính phủ cho y tế.
- Chi tiêu của chi tiêu tư nhân cho y tế là tổng chi tiêu của các hộ gia đình cho y tế
trong một năm theo tỉnh
- Tuổi thọ bình quân
- Số bác sỹ trên một vạn dân.
- Các biến chi tiêu công cho y tế, chi tiêu tư nhân cho y tế cũng được logarit hóa
trước khi đưa vào mô hình để đảm bảo những biến này sẽ phân phối chuẩn.
(iii) Nhóm biến kiểm soát khác: bao gồm các biến: việc làm của tỉnh, vốn đầu tư
phát triển của tỉnh, tiền lương bình quân. Ngoài ra, mô hình còn có những yếu tố kiểm
soát khác thể hiện năng lực cạnh tranh của tỉnh hoặc chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành
chính công của tỉnh.
Ở đây biến vốn được tính là tổng vốn đầu tư phát triển của địa phương. Phần chi tiêu
cho giáo dục và y tế của địa phương được lấy từ nguồn chi thường xuyên của tỉnh, do đó các
khoản chi này không có liên quan đến chi đầu tư phát triển của địa phương.
3.2. Mô hình
Cơ sở lý thuyết lựa chọn mô hình
Trong mô hình Mankiw-Romer-Weil (1992), đã đề cập đến vốn nhân lực. Điểm
khác biệt quan trọng trong mô hình là cách xử lý biến vốn nhân lực. Mankiw, Romer, và
Weil giả định vốn nhân lực được tích lũy giống như tư bản hiện vật, và do vậy nó được
đo bằng số đơn vị đầu ra chứ không phải số năm.
Giả sử rằng hàm sản xuất có dạng: Y = KαHβ(AL)1-α-β, với α và β là các hằng số
với giá trị trong (0,1) và tổng của chúng cũng nằm trong (0,1). Vốn nhân lực được tích
lũy giống như tư bản hiện vật: H = sH Y − δ H . Trong đó sH là tỷ trọng đầu ra đầu tư vào
vốn nhân lực và nó không đổi. Ngoài ra vai trò của vốn nhân lực cũng được phát triển và
đề cấp trong các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh như: Squire (1993), Schultz (1999),
Romer (1986), Lucas (1988), Bassanini & Scarpetta (2001) đã xác định nguồn nhân lực
trở thành yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.
Mô hình nghiên cứu thực nghiệm
Quá trình lựa chọn các biến số căn cứ theo các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm
trước đây, Luận án để xuất các mô hình hồi quy được nghiên cứu cụ thể như sau:
Mô hình 1: Tác động của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế. Xem Giáo dục là thành
phần chính của vốn nhận lực
LnGDPit = α 0 + α1 LnKit + α 2 LnLit + α 3eduit + β k X kt + uit
(3.1)
Mô hình 2: Tác động của y tế đến tăng trưởng kinh tế. Xem y tế là thành phần
chính của vốn nhân lực
LnGDPit = α 0 + α1 LnKit + α 2 LnLit + α 3 healthit + β k X kt + uit
(3.2)
Mô hình 3: Tác động tương tác của giáo dục và y tế đến tăng trưởng kinh tế. Xem
giáo dục và y tế là 2 thành phần chính của vốn nhân lực.
LnGDPit = α 0 + α1 LnK it + α 2 LnLit + α 4 educvit + α 5 healthvit + α 6 educvit * healthvit + β k X kt + uit
(3.3)
Trong các mô hình (3.1) và (3.2) hệ số α1 chính là hệ số tác động của giáo dục và y
tế đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong mô hình (3.3) để xác định được tác động của
chi tiêu giáo dục và y tế tới tăng trưởng kinh tế, đạo hàm phương trình (3.3) theo giáo dục
và y tế:
∂G D P
= α 4 + α 6 h e a lt h v it ,
∂ ed u c v i t
(3 .4 )
∂G D P
= α 5 + α 6 ed u c v i t ,
∂ h ea lth v it
(3 .5)
Như vậy hệ số α6 là các hệ số tác động tăng thêm của ảnh hưởng tác động biên của
giáo dục và y tế lên tăng trưởng, khi đánh giá tác động biên của yếu tố Giáo dục lên tăng
trưởng kinh tế thì yếu tố này còn phụ thuộc và một lượng α6healthvit (và ngược lại đối với Y
tế), chính vì hệ số của biến tương tác rất quan trọng khi thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa 2
yêu tố này trong vai trò vốn con người ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Kiểm định biến nội sinh trong mô hình
3.3. Phương pháp ước lượng
3.3.1 Phương pháp hồi quy số liệu mảng (FE, RE)
3.3.2 Phương pháp mô men tổng quát (GMM)
3.3.3. Quy trình ước lượng
Quá trình thực hiện các lượng như sau:
Với phương pháp mô hình số liệu mảng
• Ước lượng REM, kiểm định về sự tồn tại hay không của µi trong mô hình bằng
kiểm định xttest0, nếu không tồn tại µi , có thể quay về quy trình ước lượng OLS thông
thường cho số liệu mảng
• Nếu tồn tại µi , khi đó cần lựa chọn giữa FEM và REM bằng kiểm định Hausman
• Sau đó thực hiện các kiểm định tương ứng cho mô hình được lựa chọn ở bước trên
Với phương pháp GMM
• Kiểm định về tính nội sinh của biến giải thích, nếu không có vấn đề về biến nội sinh thì
sử dụng phương pháp REM hoặc FEM nói trên, nếu có thì chuyển sang bước tiếp theo
• Ước lượng bằng GMM
• Kiểm định về tính hợp lý của biến công cụ
17
3.4. Kết quả nghiên cứu
3.4.1 Kết quả ước lượng số liệu chéo của chi tiêu cho giáo dục , y tế và ảnh hưởng
tưởng tác của chúng lên tăng trưởng kinh tế
Kết quả cho thấy có sự khác nhau về ý nghĩa tác động của chi tiêu cho y tế lên tăng
trưởng kinh tế giữa chi tiêu công và chi tiêu của tư nhân. Cụ thể, chi tiêu cho y tế của tư nhân
góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP. Theo đó, cứ mỗi % gia tăng trong chi tiêu của tư nhân
cho y tế sẽ góp phần làm tăng 0,2 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù, chi tiêu
công cho y tế cũng làm tăng tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên hệ số lại nhỏ hơn rất nhiều so với
chi tiêu hộ. Kết quả này nhấn mạnh rằng sự không hiệu quả của chi tiêu công cho y tế trong
mối quan hệ đến tăng trưởng kinh tế.
Tương tự với các khoản chi cho y tế, kết quả ước lượng trong giai đoạn 2011 – 2016
cũng cho thấy sự khác nhau về ý nghĩa giữa chi tiêu cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế
giữa hai nguồn chi tiêu hộ và chi tiêu công. Kết quả cũng phản ánh đúng thực tê khi cả 2 khu
vực chi tiêu công và chi tiêu tư nhân đều mang dấu dương và tác động tích cực lên tăng
trưởng kinh tế.
3.4.2 Kết quả ước lượng số liệu mảng của chi tiêu cho giáo dục , y tế và ảnh hưởng
tưởng tác của chúng lên tăng trưởng kinh tế
3.4.2.1 Kết quả hồi quy số liệu mảng phân tích ảnh hưởng của Giáo dục lên tăng
trưởng kinh tế
Nghiên cứu tác động của chi tiêu y tế đến tăng trưởng kinh tế thông qua phương
trình: LnGDPit = α 0 + α1 LnKit + α 2 LnLit + α 3eduit + β k X kt + uit
(3.1)
Kết quả cho thấy chi tiêu của tư nhân cho giáo dục có mối quan hệ cùng chiều với
tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi thì cứ mỗi % trong
gia tăng tỉ lệ chi tiêu cho giáo dục của tư nhân sẽ làm tăng thêm 0,027% điểm trong tăng
trưởng kinh tế. Điều này cho thấy rằng, gia tăng chi tiêu cho giáo dục của hộ sẽ nâng cao
trình độ học vấn của các thành viên trong hộ, từ đó nâng cao trình độ của người lao động
và làm tăng năng suất lao động, dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Tương tự với kết quả ước lượng của chi tiêu công cho giáo dục, chi tiêu công cho
Giáo dục cũng có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mức độ tác động là
nhỏ hơn so với tác động của chi tiêu của tư nhân. Cụ thể, mỗi phần trăm gia tăng cho chi tiêu
y tế của tư nhân sẽ góp phần làm tăng 0,00038 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP. Cả
hai kết quả này cho thấy sự đóng góp hiệu quả của các khoản chi tiêu của hộ dành cho giáo
dục lên tăng trưởng kinh tế ở mỗi địa phương trong giai đoạn khảo sát.
3.4.2.2 Mô hình hồi quy số liệu mảng phân tích ảnh hưởng của Y tế lên tăng
trưởng kinh tế
Nghiên cứu tác động của chi tiêu y tế đến tăng trưởng kinh tế thông qua phương trình:
LnGDPit = α 0 + α1 LnKit + α 2 LnLit + α 3healthit + β k X kt + uit
(3.2)
Các khoản chi tiêu công cho y tế và chi tiêu tư nhân lại một lần nữa cho thấy sự tác
động tích cực của 2 khoản chi này lên tăng trưởng kinh tế. Kết quả ước lượng bằng GMM
một bước cho thấy chi tiêu công cho y tế và chi tiêu tư nhân trung bình đều làm giảm
tăng trưởng kinh tế ở mỗi tỉnh (có ý nghĩa thống kê 5%), theo đó khi tăng chi tiêu tư nhân
cho y tế lên 1% thì làm tăng lên 0,037 điểm trong GDP, còn gia tăng 1% chi tiêu công
18
cho y tế sẽ làm tăng lên 0,015 điểm trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù, chưa có bằng
chứng rõ ràng về sự tác của chi tiêu công cho Y tế lên tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, đây
cũng là một giả thuyết quan trọng về tính hiệu quả của chi tiêu công cho y tế lên tăng
trưởng kinh tế ở các địa phương.
3.4.2.3 Mô hình hồi quy số liệu mảng phân tích ảnh hưởng tương tác (tác động
biên) của Giáo dục và Y tế lên tăng trưởng kinh tế
Ảnh hưởng biên của chi tiêu công cho giáo dục và y tế lên tăng trưởng kinh tế
Thông qua phương trình:
LnGDPit = α 0 + α1 LnK it + α 2 LnLit + α 4educvit + α 5 healthvit + α 6educvit * healthvit + β k X kt + uit
(3.3)
Kết quả ước lượng cho thấy các khoảng tác động của chi tiêu công cho giáo dục và
y tế như sau:
Nếu 0 < ln(chi tiêu công cho Y tế) < 13,13 thì tác động biên của Chi tiêu công cho giáo
dục Tgd có tác động tích cực đến GDP, ngược lại nếu ln(chi tiêu công cho Y tế) nằm ngoài
khoảng đó thì Tgd làm giảm GDP bình quân.
Nếu 0 < ln(chi tiêu công cho giáo dục) < 14 thì tác động biên của Chi tiêu công cho Y
tế Tyt có tác động tích cực đến đến GDP ngược lại nếu ln(chi tiêu công cho giáo dục) nằm
ngoài khoảng đó thì Tyt làm giảm GDP bình quân
Ảnh hưởng biên của chi tiêu tư nhân cho giáo dục và y tế lên tăng trưởng kinh tế
Như vậy chúng ta có thể thấy được các khoảng tác động của chi tiêu tư nhân cho
giáo dục và y tế như sau:
Nếu 0 < ln(chi tiêu tư nhân cho Y tế) < 1,4 thì tác động biên của chi tiêu tư nhân
cho giáo dục ( T’gd ) có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế GDP, ngược lại nếu
ln(chi tiêu tư nhân cho Y tế) nằm ngoài khoảng đó sẽ làm giảm GDP
Nếu 0 < ln(chi tiêu tư nhân cho giáo dục) < 0,98 thì tác động biên của chi tiêu tư
nhân cho y tế T’yt có tác động tích cực đến GDP, ngược lại nếu ln(chi tiêu tư nhân cho giáo
dục) nằm ngoài khoảng đó sẽ làm giảm GDP
NHẬN XÉT
Chương 3 Luận án giới thiệu 3 mô hình kinh tế lượng nhằm xem xét ảnh hưởng
của Giáo dục, Y tế và tương tác của chúng lên tăng đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Các mô hình hồi quy theo số liệu chéo, số liệu mảng, đều hướng đến kiểm định ảnh
hưởng của các yếu tố Giáo dục, Y tế và tương tác của chúng đến tăng đến tăng trưởng
kinh tế tại các tỉnh Việt Nam. Tuy nhiên do số liệu hạn chế, chỉ nghiên cứu trong giai
đoan 2011-2016, nên các mô hình không đánh giá tác động theo yếu tố thời gian mà chỉ
xem xét xu hướng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trên lên tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong thời gian khảo sát.
Nghiên cứu đã phân biệt rõ hiệu quả tác động của các khoản chi tiêu y tế và giáo
dục của tư nhân và khu vực công. Theo đó, các khoản chi tiêu cho y tế và giáo dục của tư
nhân đều góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn quan sát. Ngược lại, các
khoản chi tiêu công cho y tế và giáo dục lại không phát huy hiệu quả. Điều đó cho thấy,
hiệu quả chi tiêu của khu vực công chưa cao. Kết quả phân tích tác động biên cũng cho
thấy ở chi tiêu tư nhân thì giáo dục và y tế là những hàng hóa bổ sung nhau trong vai trò
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này có nghĩa rằng, cần thiết phải gia tăng đồng thời
19
20
các khoản chi tiêu của tư nhân cho y tế, giáo dục để mong đợi một kết quả tích cực cho
tăng trưởng kinh tế. Ở khu vực công, sự kém hiệu quả của chi tiêu công cho y tế cao hơn
giáo dục và hệ số chi tiêu cho giáo dục đóng góp nhiều hơn trong tăng trưởng kinh tế hơn
các biến chi tiêu y tế.
CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. KẾT LUẬN
4.1.1. Kết luận chung
Từ tổng quan nghiên cứu và phân tích thực trạng về giáo dục, y tế, tăng trưởng
kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2016
- Quá trình nghiên cứu tổng quan đã chỉ ra các nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác
của giáo dục và y tế đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cũng chưa có nhiều và chưa sâu,
đa số các nghiên cứu đều nhấn mạnh quan điểm rằng vốn con người là hàm số của tổng chi
tiêu cho giáo dục và y tế và xác định chi tiêu công như một yếu tố quyết định của vốn con
người, hoặc là cân nhắc một trong hai yếu tố chi cho y tế hoặc giáo dục. Phần lớn các
nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định tính. Khác biệt về phương pháp tiếp cận
đó, nên trong Luận án này tác giả xem xét cả chi tiêu cho y tế và giáo dục ảnh hưởng đến
tăng trưởng kinh tế. Tác giả đã lựa chọn sử dụng phương pháp định lượng, và các phương
pháp đo lường các biến số: ước lượng số liệu mảng; phương pháp ước lượng moment tổng
quát GMM, lựa chon các biến số phù hợp với phạm vi nghiên cứu và bộ số liệu kinh tế vĩ
mô thu thập
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm
- Phân biệt rõ hiệu quả ảnh hưởng của các khoản chi tiêu của hộ cho y tế và giáo
dục lên tăng trưởng kinh tế so với hiệu quả các khoản chi tiêu công cho y tế và giáo dục
đến tăng trưởng kinh tế.
- Làm rõ được sự không hiệu quả của các khoản chi tiêu công cho y tế và giáo dục
so với các khoản chi tương ứng của hộ lên tăng trưởng kinh tế.
- Đánh giá được mức độ ảnh hưởng tương tác của 2 yếu tố giáo dục và y tế lên tăng
trưởng kinh tế ở cấp chi tiêu công và chi tiêu tư nhân, thông qua hệ số tương tác
4.1.2 Các kết quả chính
Luận án: "Giáo dục, y tế và ảnh hưởng tương tác của chúng lên tăng trưởng kinh
tế" đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng hiện đại để trả lời các câu hỏi
nghiên cứu đã được trình bày trong phần mở đầu, đó là: (i) Giáo dục ảnh hưởng thế nào
đến tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt giữa ảnh hưởng chi tiêu công cho giáo dục lên tăng
trưởng kinh tế và ảnh hưởng chi tiêu hộ gia đình cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế? (ii)
Y tế ảnh hưởng thế nào đến tăng trưởng kinh tế, sự khác biệt giữa ảnh hưởng chi tiêu
công cho y tế lên tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng chi tiêu hộ gia đình cho y tế lên tăng
trưởng kinh tế? (iii) Ảnh hưởng tương tác của giáo dục- y tế lên tăng trưởng kinh tế như
thế nào? Bằng cách sử dụng đa dạng các phương pháp tiếp cận mới trong nghiên cứu,
luận án đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
Các mối quan hệ của các khoản chi tiêu công và chi tiêu hộ gia đình cho y tế và
giáo dục lên tăng trưởng kinh tế lần lượt được ước lượng thông qua mô hình hồi quy số
liệu chéo và mô hình hồi quy số liệu mảng. Các kết quả ước lượng này đã giúp Luận án
làm rõ hiệu quả của chi tiêu công và chi tiêu tư nhân cho giáo dục và y tế đến tăng trưởng
kinh tế. Cụ thể:
Trong mô hình hồi qui số liệu chéo, chi tiêu cho giáo dục của tư nhân góp phần
thúc đẩy tăng trưởng GDP. Theo đó, cứ mỗi % gia tăng trong chi tiêu của tư nhân cho
giáo dục sẽ góp phần làm tăng 0,2 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn. Tương tự, chi tiêu công cho giáo cũng làm tăng tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên hệ
số đo lương là rất bé 0,087. Kết quả này nhấn mạnh rằng sự không hiệu quả của chi tiêu
công cho giáo dục so với chi tiêu tư nhân trong mối quan hệ đến tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, chi tiêu của tư nhân cho Y tế cũng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Theo đó, cứ mỗi % gia tăng trong chi tiêu của tư nhân cho y tế sẽ góp phần làm tăng 0,27
điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Điều này cho thấy chi tiêu
củatư nhân cho giáo dục, y tế góp phần làm tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Ngược
lại, ở khu vực công thì chi tiêu công cho giáo dục lẫn y tế lại cho thấy sự không hiệu
quả đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này thể được chứng minh bằng sự kém hiệu quả
của quá trình sử dụng hiệu quả vốn con người. Sự không hiệu quả này là do các yếu tố
cấu trúc và thể chế (như hỗn hợp công-tư của các cơ sở y tế và tham nhũng), cơ cấu thị
trường khác nhau, dịch vụ chăm sóc sức khỏe… Đến lượt nó, tác động tiêu cực của vốn
con người từ đó không có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
Trong mô hình số liệu mảng, chi tiêu của tư nhân cho giáo dục cho thấy có tác động
tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mỗi phần trăm gia tăng cho chi tiêu giáo dục củatư nhân
sẽ góp phần làm tăng 0,027 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP. Mức độ của chi tiêu
cho giáo dục của tư nhân lên tăng trưởng kinh tế phần nào cao hơn tương đối so với chi
tiêu công. Điều này cho thấy rằng, gia tăng chi tiêu cho giáo dục của tư nhân sẽ nâng
cao trình độ học vấn của các thành viên trong hộ, từ đó nâng cao trình độ của người
lao động và làm tăng năng suất lao động, từ đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Tương tự chi tiêu cho y tế của tư nhân cũng có mối quan hệ cùng chiều với tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mức độ tác động là lớn hơn so với tác động của chi tiêu công
cho y tế. Cụ thể, mỗi phần trăm gia tăng cho chi tiêu y tế của tơ nhân sẽ góp phần làm
tăng 0,037 điểm phần trăm trong tăng trưởng GDP. Cả hai kết quả này cho thấy sự đóng
góp hiệu quả của các khoản chi tiêu của tư nhân dành cho giáo dục và y tế lên tăng trưởng
kinh tế ở mỗi địa phương trong giai đoạn khảo sát. Ngược lại, các khoản chi tiêu công
cho y tế và giáo dục lại một lần nữa cho thấy sự không hiệu quả lên tăng trưởng kinh tế.
Ở đây, chưa có bằng chứng rõ ràng về sự tác động dương của chi tiêu công cho giáo dục
và y tế lên tăng trưởng kinh tế.
Cuối cùng là để đánh giá sự bổ sung cũng như tầm quan trọng của các khoản chi
tiêu lên tăng trưởng kinh tế, các phân tích biến cho các biến với sự bổ bổ sung thêm thành
phần tương tác (phi tuyến) giữa các biến để làm rõ hơn về mức độ tác động tương tác lẫn nhau
giữa chi tiêu cho y tế và giáo dục ở cấp hộ và khu vực công lên tăng trưởng kinh tế. Kết quả
cho thấy, ở cả 2 quy mô chi tiêu cấp tư nhân và khu vự công thì giáo dục và y tế là hai hàng
hóa bổ sung nhau trong vai trò là đầu vào của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên để bổ sung cho
nhau có hiệu quả thì khi tăng các yếu tố này cần quan tâm trong ngưỡng cho phép (tăng
có điều kiện), khi đó yếu tố còn lại mới có hiệu quả tích cực đến tăng trưởng kinh tế mới
cao.
21
22
4.1.3 Điểm mới của luận án
Về mô hình nghiên cứu: đề tài đã phân tách rõ hiệu quả tác động của các khoản chi
tiêu cấp tư nhân và chi tiêu công cho hai yếu tố quan trọng của chất lượng nguồn nhân
lực là giáo dục và y tế, xây dựng mô hình đánh giá ảnh hưởng tương tác của 2 yếu tố giáo
dục và y tế lên tăng trưởng kinh tế
Về phương pháp: đề tài sử dụng đồng thời nhiều phương pháp khác nhau để làm
rõ các ảnh hưởng của các mối quan hệ giữa chi tiêu công, chi tiêu tư nhân cho y tế và
giáo dục. Phương pháp hồi quy dữ liệu chéo trong giai đoạn quan sát được sử dụng để
ước tính mối quan hệ giữa các yếu tố trong thời gian 1 năm quan sát. Phương pháp mô
men tổng quát (GMM) được sử dụng để ước lượng các mối quan hệ số liệu mảng trong cả
quá trình 2011- 2016, khi các mô hình có chứa biến nội sinh, giải quyết vấn đề thiên
chệch do các biến nội sinh là chi tiêu cho giáo dục, y tế của tư nhân và khu vực công
trong mô hình. Tất cả các kết quả ước lượng của mô hình đều được kiểm định, đảm bảo
thỏa mãn các giả thuyết của mô hình trước khi sử dụng trong phân tích. Do vậy, các kết
quả đảm bảo sự tin cậy cho việc phân tích.
Về ý nghĩa: đề tài đã phát hiện sự kém hiệu quả của các khoản chi tiêu công cho y
tế và giáo dục trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế so với các khoản chi tiêu cấp tư
nhân. Đề tài cũng cho thấy sự kém hiệu quả của chi tiêu công cho giáo dục cao hơn y tế và
hệ số chi tiêu cho giáo dục đóng góp ít hơn hơn trong tăng trưởng kinh tế hơn so với các
biến chi tiêu y tế. Đặc biệt đề tài đã tìm thấy mối quan hệ tương tác giữa 2 yếu tố giáo dục
và y tế với tăng trưởng kinh tế. Ở một chiều hướng khác, đây chính là điều kiện để cho sự
bổ trợ tích cực của hai khoản chi tiêu cho y tế và chi tiêu cho giáo dục của tư nhân và khu
vự công lên tăng trưởng kinh tế. Điều này sẽ là những cơ sở quan trọng trong việc hoạch
định chính sách phát triển nguồn nhân lực phù hợp, góp phần phát triển kinh tế địa phương.
4.2. KHUYẾN NGHỊ
4.2.1. Chính sách của chính phủ về chi tiêu công cho Giáo dục và Y tế
Về Giáo dục
(1) Mặc dù những năm qua việc xã hội hóa giáo dục cũng đem lại những bất cập,
Tuy nhiên Nhà nước vẫn nên: Xã hội hóa giáo dục
(2) Nhà nước nên: điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo theo hướng tăng
chi đầu tư phát triển, giảm chi thường xuyên.
(3) Nhà nước nên: điều chỉnh cơ cấu chi giữa các bậc học, ngành học. Cần ưu tiên phát
triển hài hòa tỷ lệ giữa các ngành đào tạo, thực hiện tiêu chuẩn hóa và hiện đại hóa giáo dục.
(4) Nhà nước hỗ trợ trực tiếp học phí đối với một số đối tượng thuộc diện chính sách;
cho vay tín dụng ưu đãi đối với sinh viên thuộc gia đình nghèo, cận nghèo.
(5) Nên tăng chi tiêu cho đào tạo nghề.
(6) Cần có chính sách: Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, đa dạng
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, liên thông
giữa các trình độ giáo dục nghề nghiệp và liên thông với các trình độ đào tạo khác.
(7) Nhà nước nên có chính sách phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở,
trung học phổ thông vào giáo dục nghề nghiệp phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh
tế - xã hội.
(8) Nhà nước nên thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng đào tạo đối với những
ngành, nghề đặc thù; những ngành, nghề thuộc các ngành kinh tế mũi nhọn; những
ngành, nghề thị trường lao động có nhu cầu nhưng khó thực hiện xã hội hoá. Các cơ sở
hoạt động giáo dục nghề nghiệp không phân biệt loại hình đều được tham gia cơ chế đấu
thầu, đặt hàng.
(9) Chính quyền địa phương cần đẩy mạnh các chính sách khuyến học, đào tạo
nghề trong vùng nhằm gia tăng chi tiêu thông qua sự nhân thức tích cực về vai trò của
giáo dục từ người dân.
Về y tế:
(1) Nhà nước cần có những chính sách phân bổ nguồn ngân sách một cách hợp lý
dựa trên những bất hợp lý hiện tại.
(2) Nhà nước cần có những chính sách thuận lợi hơn để cải cách thủ tục mua,
cấp thẻ và thanh toán BHYT để tạo điều kiện thuận lợi cho người có BHYT trong quá
trình sử dụng dịch vụ y tế, tiến tới thực hiện lộ trình BHYT toàn dân
4.2.2. Chính sách của chính phủ về chi tiêu tư nhân cho Giáo dục và Y tế
Về giáo dục:
(1) Mặc dù những năm qua việc xã hội hóa giáo dục cũng đem lại những bất cập,
Tuy nhiên Nhà nước vẫn nên: Xã hội hóa giáo dục, đào tạo đặc biệt trong đào tạo đại học
thuộc ngành kỹ thuật – công nghệ và dạy nghề, điều này sẽ làm tăng sự lựa chọn các
quyết định đầu tư vào giáo dục của các hộ gia đình nhiều hơn.
(2) Nhà nước cần có những chính sách thuận lợi: khuyến khích các ngân hàng
chính sách ngoài ở các địa phương ưu tiên chi tiêu ngân sách cho giáo dục
(3) Nhà nước nên tiếp tục phát triển chương trình Tín dụng ưu đãi dành sinh viên
(4) Nhà nước nên thực hiện nguyên tắc: từng bước tăng thu từ người học để bù đắp
chi phí đào tạo theo lộ trình điều chỉnh giá, phí quy định tại Nghị định 16/2015/NĐ-CP của
Chính phủ.
(5) Nhà nước nên thông qua các chính sách hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ sản xuất, giảm
thuế, mặt khác với lợi thế so sánh vùng miền ở mỗi địa phương thì cần có các chính sách
phát triển kinh tế để gia tăng các làng nghề nhằm tạo nhiều việc làm lao động cũng như
các chương trình đào tạo nghề cho hộ gia đình thoát nghèo.
Về Y tế
(1) Nhà nước nên tăng cường đội ngũ y bác sỹ có chuyên môn cao về các trạm xá
của cở sở như Phường (xã) để người dân tích cực đến thăm khám và điều trị những bệnh
đơn giản, giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên
(2) Các cấp địa phương nên thường xuyên tuyên truyền phổ biến các chính sách
mới về chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm để người dân có thể cấp nhật kịp thời, tránh tình
trạng thiếu hiểu biết mất quyền lợi khi khám điều trị bệnh ở các bệnh viện lớn
4.2.3 Chính sách liên quan đến tuổi thọ bình quân
Tuổi thọ là nhân tố đại diện cho chất lượng cuộc sống cũng như hệ thống y tế chăm
sóc sức khỏe của xã hội, do vậy:
(1) Nhà nước nên thực hiện tốt chế độ lương hưu, hệ thống chăm sóc sức khỏe cần
được nâng cao hơn nữa nhằm đem lại sức khỏe tốt để người dân làm việc cống hiến cho
đất nước một cách tối ưu nhất.
23
24
(2) Nhà nước cần đẩy mạnh các việc làm cho người sau khi nghỉ hưu nhưng vẫn có nhu
cầu làm việc cống hiến cho xã hội, có như vậy khi hết độ tuổi lao động họ vẫn tạo ra nguồn lực
đóng góp tối đa cho tăng trưởng kinh tế, vì với tuổi thọ trung bình nâng cao (73 tuổi) trong khi
khoảng cách tới độ tuổi nghỉ hưu là khá xa (nữ 55 tuổi, nam 60 tuổi).
4.2.4 Chính sách liên quan đến bác sỹ của các địa phương
(1) Có những chính sách phân bổ lượng bác sỹ kết hợp với y tá và điều dưỡng một cách
hợp lý để phù hợp với từng vùng miền địa phương; (2) Hạn chế tăng bác sỹ theo số lượng
4.2.5 Chính sách về lao động, việc làm
Các địa phương cần giải quyết hợp lý nguồn lao động tăng thêm hàng năm để khai
thác nguồn lực đất đai trước hết ở tỉnh mình. Lập dự án kinh tế mới để tiếp nhận có chọn
lọc nguồn nhân lực mới. Chú trọng và mở rộng việc bồi dưỡng kỹ năng lao động, truyền
nghề cho nguồn lao động phổ thông
4.2.6 Chính sách về môi trường thể chế
Nhà nước nên có những chính sách phát huy và nâng cao các chỉ số minh bạch,
kiểm soát tham nhũng, chỉ số thủ tục hành chính công ở các địa phương, từ đó tạo ra môi
trường thể chế ổn định thu hút nguồn đầu tư từ ngoài tỉnh tạo việc làm cho nguồn lao
động tại các địa phương.
4.3.2. Hạn chế
Luận án "Ảnh hưởng của giáo dục, y tế và tương tác của chúng lên tăng trưởng
kinh tế Việt Nam" mặc dù đã đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, song tác giả nhận
thấy còn một số hạn chế sau:
Thứ nhất, đề tài chỉ thực hiện nghiên cứu trong môt giai đoạn ngắn từ năm 2011 đến
năm 2016 của tăng trưởng kinh tế Việt Nam với dữ liệu gộp cho 63 tỉnh/TP, do vậy, chưa
thể bao quát được tác động dài hạn của các khoản chi tiêu cho y tế và giáo dục của tư nhân
cũng như khu vực công lên tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, các phân tích sâu hơn để đưa ra gợi ý
chọn lọc đối tượng trợ cấp phù hợp cũng chưa được làm sáng tỏ. Chẳng hạn, các câu hỏi như nên
tập trung vào lĩnh vực nào, khu vực nào để cải thiện hiệu quả chi tiêu công cho y tế hay ưu tiên
khuyến khích đầu tư cho giáo dục ở bậc nào, ở đâu vẫn chưa được giải thích trong đề tài này.
Thứ hai, hạn chế trong việc tiếp cận và kiểm chứng dữ liệu thực tế cho các chỉ số vĩ
mô của mỗi tỉnh. Các số liệu có sự phân tán mạnh ở các chỉ số vĩ mô như GDP, vốn đầu tư,
tiền lương và các khoản chi tiêu cho y tế, giáo dục của tư nhân. Sự khác nhau này cũng
được thể hiện ở các bộ dữ liệu tổng hợp khác nhau như bộ dữ liệu chỉ số vĩ mô, bộ dữ liệu
khảo sát mức sống dân cư Việt Nam (VHLSS) của GSO.
Thứ ba, do hạn chế về số liệu nên trong các mô hình hồi quy nghiên cứu mới chỉ
dừng lại ở các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, chưa đi sâu về đánh giá các yếu
tố tác động tốc độ tăng trưởng kinh tế (ggdp), còn bỏ sót một số biến quan trọng đã đề
cập đến trong phần tổng quan nghiên cứu như : biến đo lường của giáo dục ảnh hưởng tới
tăng trưởng kinh tế (tỷ lệ bỏ học; số lượng học sinh tiểu học và trung học, tỷ lệ học sinh
tham gia giáo dục nghề và giáo dục từ xa; tỷ lệ học sinh đến trường các cấp; chất lượng
giảng dạy và nỗ lực người học; số nhân khẩu học; tỷ lệ lao động qua đào tạo). Đối với
biến đo lương của Y tế ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế (Chi tiêu y tế theo tuổi và giới
tính; chi y tế nội trú; chi tiêu y tế của gia đình theo thành thị và nông thôn; chi tiêu cho
các dịch vụ y tế và độ bao phủ chất lượng các cơ sở y tế, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh; tỷ lệ
sống sót của người chết; tỷ lệ sinh)
Thứ tư, các mô hình kinh tế lượng trong luận án sử dụng số liệu tổng hợp từ các
nguồn số liệu thống kê của GSO, thống kê quyết toán chi ngân sách của Bộ Tài chính, số
liệu điều tra mức sống dân cư từ giai đoạn 2011-2016 để tính toán theo cấp tỉnh. Tuy nhiên
lại chưa thể tính toán hoặc ước lượng được cho các cấp thấp hơn như cấp ngành, cấp hộ gia
đình hoặc cấp cá nhân. Nếu có thể vận dụng các mô hình nghiên cứu này cho các bộ dữ
liệu với cấp độ quan sát khác nhau như cấp ngành, cấp hộ, cấp cá nhân, hy vọng có thể có
thêm những khám phá mới tùy theo đơn vị phân tích. Các mô hình kinh tế lượng trong
luận án mặc dù đã tiếp cận đa dạng, xem xét mối quan hệ tương tác giữa các biến theo thời
gian, theo không gian và theo các nhóm, tuy nhiên vẫn có thể xem xét sâu hơn, mở rộng
hơn về tương tác giữa các biến hoặc nghiên cứu cập nhật các phương pháp phù hợp để
cung cấp thêm bằng chứng phục vụ mục tiêu nghiên cứu.
- Xem thêm -