Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội đề tài quá khứ trong sáng tác của nguyễn tuân trước cách mạng...

Tài liệu đề tài quá khứ trong sáng tác của nguyễn tuân trước cách mạng

.PDF
95
193
54

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- PHẠM THỊ HỒNG NGỌC ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội- 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------ PHẠM THỊ HỒNG NGỌC ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 01 21 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội- 2015 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3 1. Lí do chọn đề tài. ................................................................................................. 3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. .................................................................................. 4 2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung ............. 4 2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân 6 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài. ..............................................................................8 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. .........................................................................10 4.1. Đối tượng. ................................................................................................... 10 4.2. Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................... 10 5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................8 6. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 11 NỘI DUNG ...................................................................................................................... 10 Chƣơng 1: Hành trình sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945. ........................................................... 10 1.1. Hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. .......... 10 1.2. Các đề tài chính trong các sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng ...... 11 1.2.1. Đề tài về chủ nghĩa “xê dịch” .................................................................. 12 1.2.2. Đề tài viết về vẻ đẹp quá khứ. ................................................................. 16 1.2.3. Đề tài cuộc sống hưởng lạc ...................................................................... 18 1.3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân ....................................................... 20 1.3.1. Quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp ................................................. 20 1.3.2. Quan niệm nghệ thuật .............................................................................. 22 1.3.3. Quan niệm nghệ thuật về con người: ....................................................... 25 Chƣơng 2: Bức tranh thiên nhiên, con ngƣời và cuộc sống ........................... 29 2.1. Lí tưởng hóa cuộc sống quá khứ: ................................................................... 29 2.1.1. Giới thuyết vấn đề.................................................................................... 31 2.1.2. Vẻ đẹp của những bức tranh thiên nhiên. ................................................ 31 2.1.3. Vẻ đẹp thể hiện trong lối sống sinh hoạt. ................................................ 34 2.1.3.1. Nghệ thuật ẩm thực ............................................................................ 34 2.1.3.2. Thú vui chơi tao nhã .......................................................................... 40 2.1.3.3. Lối ứng xử tinh tế .............................................................................. 41 2.1.3.4. Nét tài hoa nghề nghiệp .................................................................... 43 2.2. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng .......................................................................................... 45 2.2.1. Giới thuyết vấn đề.................................................................................... 45 2.2.2. Những kiểu nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng47 2.2.2.1. Những nhà nho cuối mùa bi quan, chán nản trước thời cuộc. ........... 47 2.2.2.2. Những con người lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch. ........... 52 2.2.2.3. Những con người nghệ sĩ tài hoa, tài tử. ........................................... 54 Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện .......................................................................... 58 3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật. .............................................................. 58 3.2. Tình huống truyện đặc sắc .............................................................................. 62 3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu: ................................................................................ 65 3.3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................. 65 3.3.1.1. Ngôn ngữ kiểu cách, trang trọng ....................................................... 66 3.3.1.2. Hệ thống từ láy phong phú và tinh tế ................................................ 70 3.3.1.3. Ngôn ngữ so sánh, giàu hình ảnh, âm thanh và nhạc điệu ................ 71 3.3.2. Giọng điệu: .............................................................................................. 72 3.3.2.1. Giọng điệu khinh bạc ......................................................................... 73 3.3.2.2. Giọng điệu trữ tình mang màu sắc hoài niệm .................................... 75 3.4. Kết cấu ............................................................................................................ 77 3.4.1. Kết cấu tự do, linh hoạt, phóng túng ....................................................... 78 3.4.2. Kết cấu lồng ghép .................................................................................... 79 3.5. Thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối lập ....................................................... 82 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 89 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo ra những chuyển biến mang tính bước ngoặt cho nền văn học dân tộc, tạo đà cho văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu rực rỡ. Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỉ, nền văn học đã xuất hiện một đội ngũ nhà văn đông đảo, có tài năng và tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị. Một trong số đó là Nguyễn Tuân- một nhà văn lớn, có phong cách tài hoa, độc đáo. Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. Ông là “một trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX” (Nguyễn Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo lên các giá trị mới. Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Trên hành trình sáng tạo đầy nhọc nhằn nhưng cũng đầy vinh quang, Nguyễn Tuân giống như một người “phu chữ” cần mẫn, kiên trì trên cánh đồng nghệ thuật để cho ra đời những áng văn chương mà mỗi khi đọc nó, ta như được khai sáng về vẻ đẹp của chữ nghĩa. Bởi vậy, văn của Nguyễn Tuân cũng rất kén độc giả, “chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung ở ba đề tài lớn: Đề tài xê dịch, giang hồ; đề tài viết về quá khứ và đề tài về cuộc sống hưởng lạc. Dù viết về đề tài nào thì ở nơi mạch ngầm của các trang sách vẫn là lòng yêu nước thiết tha, tinh thần dân tộc sâu sắc. Qua luận văn này, chúng tôi muốn tìm hiểu một phần trong những đóng góp quan trọng của ông. Đó là Đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, độc đáo và có cá tính mạnh nên từ trước đến nay có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân. Ở đề tài viết về quá khứ, nhiều nhà nghiên cứu đã có những bài viết khá sâu sắc, giúp người đọc khám phá giá trị ẩn tàng trong từng trang viết của nhà văn. Tuy nhiên, đó chỉ là những bài viết đơn lẻ, chưa thành hệ thống, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Bản thân tôi luôn hứng thú, say sưa và yêu mến những trang viết tài hoa của ông. Đi sâu tìm hiểu về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân thêm phong phú, vững vàng; có thêm hiểu biết về vẻ đẹp văn hóa tinh thần của một thời đã xa, thêm trân trọng và giữ gìn vẻ đẹp đó trong thời đại mới, cũng như mang lại cái nhìn rộng mở hơn khi giảng dạy các tác phẩm của ông trong nhà trường. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Kể từ khi xuất hiện trên văn đàn, văn chương và con người Nguyễn Tuân luôn trở thành đề tài gây sự chú ý cho người đọc nói chung và cho các nhà nghiên cứu nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con người và sáng tác của ông 2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung: Có thể nói người tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu này chính là Nguyễn Đăng Mạnh. Ông cũng là người nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách khá toàn diện và sâu sắc. Từ bài tiểu luận in ở đầu Tuyển tập Nguyễn Tuân (2 tập, năm 19841986) và bài giới thiệu trong Toàn tập Nguyễn Tuân (1988), bên cạnh đó ông còn có bài viết Nguyễn Tuân- một phong cách độc đáo và tài hoa, Nguyễn Đăng Mạnh đã giúp người đọc có sự nhìn nhận khách quan về nhà văn. Ông đã phân tích một cách sâu sắc, thấu đáo sự nghiệp, quan điểm, phong cách nghệ thuật, đặc trưng thể loại của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến nét nổi bật ở nhà văn Nguyễn Tuân đó là cá tính Ngông: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhận kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc (…). Nhu cầu chơi ngông buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cái cực đoan, thậm chí tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết” [34, tr. 288]. Nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh đến đến cái tôi của nhà văn Nguyễn Tuân như một yếu tố có tính quyết định tới phong cách riêng của nhà văn. Ngoài ra, Nguyễn Đăng Mạnh còn có những nhận xét rất sâu sắc về ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết sức phong phú… Không chỉ tích lũy những từ sẵn có, ông luôn luôn có ý thức sáng tạo từ mới và cách dùng từ mới…”. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao về Nguyễn Tuân. Qua quá trình Lột xác đầy trăn trở của Nguyễn Tuân sau Cách mạng, Phan Cự Đệ cũng đưa ra lý giải một cách sâu sắc: “Sau Cách mạng nhà văn không đối lập hai yếu tố thẩm mĩ và xã hội nhưng anh vẫn nắm bắt nhanh những mặt đẹp, nhạy cảm với cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ”. Từ đó, người ta thấy Nguyễn Tuân và văn chương của ông là một mảnh đất màu mỡ, đầy bí ẩn mời gọi các nhà nghiên cứu đến tìm tòi và khám phá. Rất nhiều bài viết và công trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác ra đời: Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân- huyền thoại một thời của Vương Trí Nhàn; Nguyễn Tuân, ngƣời săn tìm cái đẹp của Nguyễn Trung Thành. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Thị Thanh Minh, Nguyễn Tuân và cái đẹp của Hà Văn Đức. Những bài viết của các tác giả kể trên đều đi sâu vào quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân để phát hiện ra cái đẹp qua các tác phẩm của nhà văn ở cả hai giai đoạn sáng tác. Bên cạnh đó là những bài viết ghi lại hồi ức, kỷ niệm về Nguyễn Tuân của gia đình, bạn bè nhà văn. Đó là những tư liệu quý giá giúp ta hiểu thêm về tài năng và nhân cách nhà văn. Nhắc đến Nguyễn Tuân không thể không nói tới thể loại tùy bút. Ở đây, có thể kể ra những bài nghiên cứu tiêu biểu: Nguyễn Tuân trong tùy bút của Phong Lê; Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới thiệu cuốn Tuyển tập Nguyễn Tuân. Những bài viết này làm rõ mối quan hệ giữa chủ thể văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng như sở trường của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá tính và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút như là một tất yếu. Trong văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất” . Nhà nghiên cứu Hà Văn Đức có bài Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám (Một số đặc điểm thể loại) in trong tập Năm mƣơi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996) đã đưa ra nhiều đánh giá và nhận định sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại. 2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân. Nhà văn Thạch Lam trong bài Đọc lại Vang bóng một thời (in trên tạp chí Ngày nay, số 212, ngày 15 Juin 1940) đã phát hiện ra mảng đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân ngay khi ông xuất hiện trên văn đàn. Thạch Lam cho rằng: “Có lẽ thu nhặt và kể lại những truyện, việc ngày xưa là một việc đáng chú ý, nhưng mà dễ. Nhưng phải yêu mến dĩ vãng, phải tiếc thương và muốn vớt lại những vẻ đẹp đã qua, mới có thể làm sống lại cả một thời xưa được. Vì cái ý ấy, Nguyễn Tuân cũng đáng cho chúng ta cảm ơn rồi. Tác phẩm của ông lại có một giá trị sáng tác và văn chương đặt ông vào địa vị một nhà văn cho chúng ta nhiều hy vọng. Vang bóng một thời là một sản phẩm đáng quý, đánh dấu bước đường trở lại tìm những cái đẹp xưa mà các nhà văn ta thường xao nhãng” [24, tr. 91]. Thạch Lam đã tỏ ra rất tinh tế khi phát hiện ra giá trị sáng tác và văn chương của Nguyễn Tuân ngay từ buổi ban đầu. Năm 1971, Phan Cự Đệ trong bài viết Đọc lại Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân đã lần đầu tiên đề cập đến hệ thống nhân vật trong tập truyện Vang bóng một thời. Còn Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về truyện ngắn Nguyễn Tuân trước Cách mạng đã phát hiện ra “chất mĩ học hoài cựu”. Ông cho rằng nhà văn đã biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng của bút pháp, kỹ thuật hiện đại. Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa tiểu sử và tác phẩm, ông chỉ ra “Nguyễn Tuân đã sống Vang bóng một thời trước khi viết Vang bóng một thời” [34, tr. 260]. Tiếp nối những người đi trước, nhà nghiên cứu Hà Văn Đức đã có một bài viết sâu sắc, công phu và toàn diện về sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng ở Chương XII của Giáo trình Văn học Việt Nam (1900- 1945), NXB Giáo dục, 1998. Ông đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác khi chỉ ra ba mảng đề tài lớn trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: đề tài xê dịch, đề tài quá khứ và đề tài về cuộc sống trụy lạc. Khi nhận định về mảng đề tài quá khứ, nhà nghiên cứu cho rằng: “Thất vọng trước hiện tại, Nguyễn Tuân lại quay ra tìm kiếm một con đường khác- con đường tìm về quá khứ, tìm kiếm trong quá khứ những gì có thể mang lại đôi chút hơi ấm, soi rọi ít nhiều tia nắng và niềm tin cho cuộc sống đang lạnh lẽo, tối tăm” [8, tr. 605]. Nhận xét về những giá trị tích cực nhất trong sáng tác Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ông khẳng định: Đó là tinh thần dân tộc biểu hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống, trong đó phải kể đến sự gắn bó, trân trọng tiếng mẹ đẻ của nhà văn. Nghiên cứu Nguyễn Tuân theo hướng thi pháp học có bài viết Chất thơ trong Vang bóng một thời trong cuốn Thi pháp hiện đại (2000) của Đỗ Đức Hiểu. Ông đã cho rằng ở Vang bóng một thời có ba motif: motif buổi chiều máu, motif sương mờ, motif liêu trai; và chỉ ra: “Vang bóng là chất thơ bao trùm ba motif trên; một thời chỉ rõ một thời kỳ lịch sử cụ thể, lúc giao thời. Nguyễn Tuân, con người lãng tử, khí phách, độc lập ấy đã nhìn sâu vào lịch sử bằng con mắt nghệ sĩ, tìm thấy một phương diện cái đẹp, cái hào hùng và cái thuần khiết của tâm hồn trong buổi giao thời nhập nhoạng, một thời kỳ lịch sử bị bạo lực vi phạm thô bạo” [18, tr. 34]. Từ motif ông đi vào tìm hiểu không gianthời gian, nhân vật và ngôn ngữ của tác phẩm để đưa ra những luận giải, khái quát rất tinh tế. Có thể thấy, những nghiên cứu của các tác giả kể trên đã đi tìm hiểu đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng để phát hiện ra giá trị nhân văn cùng bút pháp nghệ thuật đặc trưng của nhà văn. Kế thừa những phát hiện của các nhà nghiên cứu đi trước, cùng sự hứng thú với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc mà ngày nay đã mai một được miêu tả trong những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, trong luận văn này chúng tôi đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp quá khứ trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu những vấn đề về Nguyễn Tuân cho đến nay đã quá nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, nhiều ý kiến trái chiều, người khen khen không ngớt, người chê, chê không tiếc lời nhưng cùng với thời gian, vị trí và giá trị văn chương của Nguyễn Tuân trên văn đàn ngày càng được khẳng định vững vàng. Sự độc đáo, một “cái tôi ngông ngạo” của nhà văn ngày nào bị “ném đá” thì nay lại trở thành niềm say mê, hứng thú với lớp hậu thế. Di sản văn chương của ông trở thành mảnh đất mỡ màu, được nhiều nhà nghiên cứu “canh tác” và gặt hái được những thành tựu to lớn. Công trình của các nhà nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong sáng tác của Nguyễn Tuân và có nhận định chính xác về những đóng góp của nhà văn với nền văn học dân tộc. Đồng thời, công trình của các nhà nghiên cứu cũng gợi mở đề tài cho các thế hệ sinh viên, học viên cao học chuyên ngành Ngữ văn trên con đường khởi đầu nghiên cứu khoa học. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài. Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích, lý giải Đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng. Đây là một đề tài rất lý thú và hấp dẫn song cũng đầy thử thách. Song với niềm say mê đặc biệt với nhà văn, chúng tôi góp phần làm nổi rõ thành công của Nguyễn Tuân ở cả hai phương diện nội dung, nghệ thuật và cả hạn chế trong sáng tác của ông trước Cách mạng. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tƣợng: Các đề tài sáng tác của Nguyễn Tuân rất đa dạng nhưng ở luận văn này chúng tôi nghiên cứu tìm hiểu những đóng góp của Nguyễn Tuân ở đề tài viết về quá khứ trong những sáng tác của ông trước Cách mạng. Ở đề tài này, chúng tôi nhận thấy nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa, nghệ sĩ và phô diễn một pho hiểu biết sâu sắc về vẻ đẹp của một thời đã xa nay dần phai loãng trước sự tấn công ào ạt của văn hóa phương Tây, sự nô dịch văn hóa trong chính sách cai trị của thực dân Pháp cùng những biến động của lịch sử. Những tác phẩm của ông như những thước phim tư liệu quý tái hiện cho thế hệ sau hiểu biết rõ hơn về đời sống của ông cha ta trong quá khứ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Dẫu biết khuôn khổ của một luận văn có những giới hạn nhất định về dung lượng nhưng chúng tôi vẫn cố gắng khảo sát để bước đầu có một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về toàn bộ những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, đặc biệt là tập truyện ngắn Vang bóng một thời. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn kế thừa thành tựu của những công trình nghiên cứu đi trước, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu những sáng tác trước Cách mạng của nhà văn Nguyễn Tuân theo một hệ thống từ hành trình sáng tác, quan điểm nghệ thuật, các đề tài chính và những đặc sắc nghệ thuật. - Phương pháp phân tích- tổng hợp: nhằm tìm hiểu đặc sắc về nghệ thuật trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân từ chi tiết, cụ thể đến khái quát giúp cho việc nghiên cứu có sức thuyết phục cao. - Phương pháp so sánh: được tiến hành ở một số nét tiêu biểu về nghệ thuật sáng tác trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân với các nhà văn, nhà thơ khác để tìm ra nét riêng độc đáo của nhà văn này. - Phương pháp loại hình: nhằm để khảo sát và phân loại sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, giúp người nghiên cứu nắm bắt các hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể, bao quát; đồng thời phát hiện nét độc đáo, khác biệt, từ đó đánh giá được những đóng góp và của Nguyễn Tuân vào quá trình hiện đại hóa văn học và thành tựu của ông trong nền văn học Việt Nam. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1: Hành trình sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chương 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài viết về quá khứ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Chương 3: Những đặc sắc nghệ thuật. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945. 1.1. Hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của Nguyễn Tuân cho đến trước năm 1937 hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu như Giang hồ hành (thơ), Vƣờn xuân lan tạ chủ (truyện ngắn) những tín hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người. Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rƣợu lậu, Mƣời năm trời mới gặp lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm một vị trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình. Nguyễn Tuân chỉ thực sự được công nhận như một phong cách văn chương độc đáo kể từ tùy bút - du ký Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp những trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ phim Cánh đồng ma. Nét đặc sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu. Có thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo: “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa” [34, tr. 255]. Nhân vật chính trong tác phẩm là cái tôi ngông nghênh kiêu bạc của nhà văn. Một cái tôi sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của mình tích lũy được trên bước đường xê dịch. Một năm sau, 1939, với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. Tác phẩm được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngõ cụt. Nếu như ở Thiếu quê hƣơng (1940), Chiếc lƣ đồng mắt cua (1941) tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái Tôi vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái Tôi ấy nhưng đã có vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc. Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm Xác ngọc lam, Ðới roi, Rƣợu bệnh, Loạn âm cũng đủ nói lên tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này. Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ Vang bóng một thời trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng việc khám phá và đề cao cái tôi cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm sâu sắc bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, gắn bó tha thiết với quê hương bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị, cả trong những thời điểm khắc nghiệt nhất. 1.2. Các đề tài chính trong các sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng 1.2.1. Đề tài giang hồ, xê dịch Sự tiếp xúc với văn học phương Tây hồi đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam. Nhiều trào lưu, chủ nghĩa có nguồn gốc từ phương Tây đã du nhập vào nước ta và được các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tiếp nhận nồng nhiệt. Chủ nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân là một thứ lí thuyết vay mượn từ văn học phương Tây mà các đại diện tiêu biểu là A. Gide, Pôn Môrăng, nhà triết học Đức Friedrich Nietzsche…A. Gide (1869- 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng nước Pháp thế kỉ XX, từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Ông là người rất ham mê du lịch khắp nơi trên thế giới. Câu nói nổi tiếng Pôn Môrăng đã được Nguyễn Tuân lấy làm lời đề tựa cho tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng của mình: “Ta chỉ muốn rằng sau khi ta chết đi, người ta lột da ta để làm một chiếc va li”. Thêm vào đó, phong trào dịch thuật phát triển đã tạo điều kiện cho lớp công chúng văn học thành thị, trong đó có các nhà văn được biết đến các tiểu thuyết phiêu lưu giả tưởng của các nhà văn phương Tây như: Robinson Crusoe của nhà văn Anh Daniel Defoe (16601731); Hai vạn dặm dƣới biển của nhà văn Pháp Jules Verne (xuất bản ở Pháp năm 1870); các nhân vật trong tiểu thuyết của Satôbriăng du lịch sang châu Mỹ…Còn ở phương Đông là tiểu thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân (1506?1581), hình ảnh tài tử, lãng mạn của những thi nhân thích du lịch trong thơ ca đời Đường như Lý Bạch (701- 762), Đỗ Phủ (712- 770); cùng với đó là ý thức về cái “tôi”- con người cá nhân giữa cuộc đời trở thành những động lực mạnh mẽ thôi thúc các nhà văn Việt Nam lên đường sau khi đọc xong và gửi gắm niềm đam mê trong các tác phẩm của chính mình. Còn văn học Việt Nam, nhiều tác giả thích cuộc sống lãng du và say mê thể hiện vẻ đẹp của non sông đất nước trong tác phẩm của mình như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, đặc biệt là lối sống phóng túng của Tản Đà đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành tính cách và sở thích xê dịch ở Nguyễn Tuân. Trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, giang hồ xê dịch còn trở thành thứ “bệnh” của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong các nhà văn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh đã dành tình cảm ưu ái cho nhân vật Dũng- người khách chinh phu có chí khí, gác tình riêng để dấn thân vào “cuộc đời phiêu lưu hoạt động” trong tiểu thuyết luận đề Đoạn tuyệt và Đôi bạn. Thế Lữ (1907- 1989) là nhà thơ Mới nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930 với hình ảnh người khách chinh phu đưa “gót lãng du” khắp “chốn hải hồ” trong Giây phút chạnh lòng(1937) và các truyện ngắn kinh dị như Vàng và máu, truyện ngắn lãng mạn núi rừng như Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh; hình ảnh li khách trong Tống biệt hành (1944) của Thâm Tâm; hình ảnh người lãng tử giang hồ với những mùa xuân tha hương trong thơ Nguyễn Bính; hình ảnh cậu bé đa cảm, chớm ôm mộng giang hồ trong bài thơ Những ngày nghỉ học (1938) của Tế Hanh… Bên cạnh đó, các bạn văn cùng thời với Nguyễn Tuân như Nam Cao, Tô Hoài cũng rất thích cuộc sống xê dịch, nửa đêm nghe tiếng còi tàu hỏa đã gợi hứng lên đường. Chính những chuyến “giang hồ vặt” này đã giúp các nhà văn, nhà thơ có nguồn tư liệu thực tế phong phú để phục vụ công việc viết lách của mình. Khác với các nhà văn cùng thời, Nguyễn Tuân giang hồ chỉ để chơi, đi không vì mục đích nào cả, đi chỉ là đi, đi không xác định địa điểm trước. Trong những người ưa xê dịch, có lẽ Nguyễn Tuân là người đi xa nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất. Sáng tác của ông mang tính chất điển hình, sâu đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghĩa xê dịch. Không chỉ chịu ảnh hưởng của phương Tây và nền văn học phương Đông mà sở thích này xuất phát từ chính Nguyễn Tuân bởi ông là người có cá tính độc đáo và ý thức cá nhân phát triển cao. Ham mê xê dịch còn là một “gen trội” mà Nguyễn Tuân được thừa hưởng từ gia đình khi ông nội và bố ông đều là những người có một dĩ vãng “lang bạt kì hồ”. Là người tự do, phóng túng, ông quan niệm “đời là một trường du hý”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Nếu nói “văn là người” thì điều này rất đúng với Nguyễn Tuân. Ông viết văn như để chơi ngông với đời. Những gì người khác cho là nghịch lí, nghịch thuyết thì ông đẩy nó lên thành chủ nghĩa tới mức cực đoan. Ham du lịch, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý thuyết- “chủ nghĩa xê dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao thích phiêu lưu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đường, những miền đất mới, được gặp gỡ muôn mặt người trên con đường giang hồ mê mải. Những điều này đã cùng gặp gỡ nhau nơi con người Nguyễn Tuân để rồi những trang viết được thăng hoa qua ngòi bút của ông. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đã viết một loạt những tác phẩm thể hiện niềm đam mê cuộc sống giang hồ lãng du của mình như Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hƣơng (1943), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943)… Là một nhà văn có cá tính mạnh mẽ, phóng túng, trước sự ngột ngạt của xã hội thực dân nửa phong kiến “ối a ba phèng” đương thời, đi và viết với Nguyễn Tuân là một sự giải thoát khỏi những bế tắc, chán chường trong cuộc sống. Đó cũng là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng không tìm được lối thoát. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc đáo, những cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt, khuôn phép, yên ổn, cầu toàn. Với Nguyễn, đi là để “thay đổi thực đơn cho giác quan”, hồ hưởng cho hết những sinh thú bất thình lình và những cảm xúc không chờ đợi. Ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt mĩ của gió bão, núi cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội… Trước Cách mạng, hình tượng những cơn gió được nói đến khá nhiều trong tác phẩm của Nguyễn Tuân về đề tài xê dịch. Trong tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng, hình ảnh những cơn gió giục khách lên đường, khích lệ con người sống mạnh mẽ: “Có những trận gió nó bảo người ta rằng cái lối sống câu dầm là một điều thất sách và những hy vọng tự chế ra để giữ mình chỉ là một cách chết mòn. Tất cả, hoặc là không có gì. Gió chỉ thổi một chiều” [34, tr. 423]. Đối với những con người lấy sự đi lại làm mục đích của cuộc đời như Bạch, Vi, Sương, Hoàng,… thì những cơn gió có một sức hấp dẫn kì lạ, khó có thể cưỡng lại được “cũng như mùi vị gió lúc này trên sông mưa, khói tẩu thuốc buổi lữ hành này có một hương vị cuốn rũ” và “thấy gió đã khởi, người ta liền lên đường”. Gió ở vùng mỏ Vàng Danh bị quẩn trong vùng thung lũng, xung quanh là những ngọn núi bao vây nên muốn tìm con đường để thoát, nên nó dữ tợn, phá phách và nổi loạn. Trong cái gió vùng mỏ ấy người ta nhận ra chính con người “bất đắc chí” của Nguyễn Tuân. Có lúc gió là hình tượng mà nhà văn gửi gắm tâm trạng cô đơn, buồn nản: “Gió sông rộng có cả sức tò mò của một trận gió vàng. Mỗi đợt gió lọt vào khoang thuyền là một sự tọc mạch đến chuyện riêng của lòng. Tôi trằn trọc, thèm muốn một tấm chăn đơn” (Cửa Đại). Ngay cả những lúc bế tắc nhất, Nguyễn cũng xem gió như một người bạn tri âm, chia sẻ khỏa lấp nỗi buồn: “Gió biển giục tôi nghĩ đến một việc gì nên làm ngay đi kẻo lại muộn lỡ mất” (Võng ngô đồng). Gió Vàng Danh kết hợp với thứ gió giang hồ kêu gọi người ta chống gậy lên đường, tạo thành một hệ thống các hình tượng về gió trước Cách mạng của Nguyễn Tuân. Nó biểu hiện một trạng thái mất cân bằng, bế tắc, quẩn quanh, một thái độ phá phách, nổi loạn với cái xã hội “ối a ba phèng” lúc bấy giờ. Cùng với hình tượng gió, Nguyễn Tuân cũng hay nói đến những con đường vô định. Bút kí Một chuyến đi đã ghi lại những hình ảnh và cảm xúc của một kẻ lữ hành nơi chân trời, góc bể, nơi lạ người lạ cảnh. Đi đã trở thành một lí tưởng, một triết lí sống của Nguyễn Tuân. Chính vì vậy mà nhà văn nguyện được lăn mãi vỏ mình trên con đường vô định: “Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi trên đường, với cái luân lí của người khách bộ hành” (Chiếc va li mới). Với Nguyễn, bất kể là thứ đường gì, xê dịch bằng phương tiện gì, dẫu có phải ngồi trên một chiếc hồ lô lăn đường cũng là một thứ cứu cánh tốt đẹp cho một tâm hồn cô đơn, bất lực, quẩn quanh và bế tắc. Trong Thiếu quê hƣơng, nhân vật Bạch chỉ luôn thèm muốn được đổi chỗ, được rong ruổi trên những con đường dài hun hút, không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch, cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xê dịch làm cứu cánh. Hình tượng nhân vật hay những hình ảnh trở đi trở lại trong văn Nguyễn Tuân chính là lăng kính phản ánh chính con người ông. Hình ảnh chàng Nguyễn trước Cách mạng có phần nào đó sống vô trách nhiệm, kiêu bạc, chán chường, không lối thoát trước cuộc đời. Tuy nhiên, trong cách phản ứng có phần tiêu cực của người thanh niên có cá tính mạnh mẽ ấy, ta cũng nhận ra tình yêu đất nước thầm kín, là lời bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết với cảnh sắc và phong vị đất nước bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ sống giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương. Không chỉ thế, Nguyễn Tuân đã thực sự sống xê dịch trước khi viết về xê dịch. Những quan niệm về xê dịch của nhà văn cũng không giống thái độ mục đích du lịch thông thường mà thực sự đã trở thành một hệ thống tư tưởng, lý thuyết chủ nghĩa độc đáo. Sở thích lãng du, thậm chí dám vượt biên giới để tìm kiếm và trải nghiệm những cảm giác khác lạ của nhà văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang lụi tàn trong tâm hồn không ít thanh niên tâm huyết với đất nước mà bất lực trước thời cuộc đương thời. 1.2.2. Đề tài viết về vẻ đẹp quá khứ Chủ nghĩa lãng mạn thường biểu hiện ở sự chối bỏ thực tại, vượt lên thực tại buồn chán, bế tắc, hoặc hướng về tương lai hay ngoảnh lại quá khứ, hoặc khao khát, bay bổng với hiện tại được mộng ảo hóa. Trong khi văn học Việt Nam 1930- 1945 phân hóa thành nhiều xu hướng, nhiều dòng văn học với những đề tài, chủ đề khác nhau thì dòng văn học lãng mạn xuất hiện đề tài viết về quá khứ. Đề tài viết về quá khứ nằm trong phong trào phục cổ, phong trào suy tôn Khổng giáo và bảo tồn quốc túy mà Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, các tạp chí Nam phong, Đông Dương tạp chí và Nhà xuất bản Alechxandre de Rhodes của thực dân Pháp phát động. Trở về quá khứ cũng là một trong những con đường thoát ly của chủ nghĩa lãng mạn. Bên cạnh đó, ta thấy lúc này ý thức cá nhân phát triển, các nhà văn, nhà thơ thất vọng trước cuộc sống hiện tại ngột ngạt, bế tắc nên có xu hướng trở về quá khứ. Người ta trở về quá khứ với nhiều tâm trạng phức tạp. Huy Thông muốn tìm trong lịch sử một giấc mộng anh hùng (Hạng Vũ, Kinh Kha). Chế Lan Viên quay về quá khứ để nhớ tiếc một dân tộc điêu tàn (Trên đƣờng về, Chiến tƣợng). Vũ Đình Liên trở về xu hướng hoài cổ mong tìm lại chút “hồn xưa” của dân tộc. Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn Bách Thú để thể hiện sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại trong bài thơ Nhớ rừng. Huy Cận trở về với nét Đẹp xƣa với chút buồn man mác. Nguyễn Nhược Pháp tươi tắn và hồn nhiên hướng về Ngày xƣa với bao huyền thoại đẹp đẽ. Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu- một người luôn nghĩ đến cuộc đời hiện tại, cũng có lúc chán nản với “cuộc thế ao tù” lại trở về “chiêu hồn sương quá khứ”. Còn nhà văn Ngô Tất Tố lại trở về quá khứ bằng việc tái hiện chế độ khoa cử phong kiến qua tiểu thuyết Lều chõng. Cũng nằm trong khuynh hướng phục cổ, Nguyễn Tuân không giống với các nhà văn, nhà thơ khác, ông trở về quá khứ theo cách của riêng mình. Nhà văn không tìm thấy cái đẹp hiện hữu trong cuộc đời, nên đã trở về quá khứ, với cội nguồn dân tộc. Là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn hoài niệm, ông chắt chiu, gạn lọc tất cả những gì là tinh hoa trong quá khứ để thể hiện trong tác phẩm của mình. Có lẽ, sống giữa thời cuộc Tây Tàu nhố nhăng, Nguyễn Tuân đã nhận thức được rằng một cá nhân mình không thể phủ định được thực tại để hướng tới tương lai tốt đẹp, bởi vậy ông phải vin vào quá khứ vàng son của dân tộc để sống và để nhấm nháp dư vị của một thời không bao giờ trở lại. Các tác phẩm viết về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân đăng rải rác trên các tạp chí Tao đàn, Tiểu thuyết thứ bảy, Thanh nghị và hai tập tùy bút Tùy bút I và Tùy bút II nhưng tập trung đậm nét hơn cả vẫn là trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời- tác phẩm được tặng giải thưởng của Nhà xuất bản Alechxandre de Rhodes- một nhà xuất bản có khuynh hướng phục cổ của thực dân Pháp. Có thể nói trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân dường như cố quên đi cái hiện thực mà ông đang sống, cái hiện thực mà theo ông đầy những xấu xa, bon chen, đố kỵ. Ông thực sự say sưa tỉa tót, tô đậm thêm cái nét xưa đã mờ nhạt, nét vẻ của những ngày đã qua, một thời đã tàn. Nguyễn Tuân cũng hiểu rằng, cái thời đó đã qua và không bao giờ trở lại nữa, vì vậy ông không khỏi biểu lộ niềm tiếc nuối của mình. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân viết về thời đã qua không phải vì muốn khôi phục lại thời phong kiến suy tàn mà thực chất là phản ứng của ông trước hiện tại nhố nhăng mà ông đang sống. Việc làm sống lại cái đẹp xưa, Nguyễn Tuân đã thể hiện một cách giữ thiên lương, tỏ thái độ bất hợp tác với thực dân, một lòng thiết tha với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Giữa làn sóng Âu hóa mạnh mẽ, thái độ đó của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng. 1.2.3. Đề tài cuộc sống hƣởng lạc Chủ nghĩa lãng mạn thường thoát ly hiện thực. Họ thoát ly bằng nhiều con đường khác nhau: trốn vào tình yêu, trốn vào quá khứ và trốn vào trụy lạc để quên lãng, để tìm những cảm giác lạ. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, đan xen với chủ đề giang hồ xê dịch là chủ đề về cuộc sống hưởng lạc. Bản thân cuộc sống giang hồ phần nào đã gợi lên trong những trang viết của Nguyễn Tuân một cuộc sống phóng túng, chơi bời ở những tiệm rượu, tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Hai chủ đề này vì thế có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau. Trước Nguyễn Tuân, văn học Việt Nam có không ít cây bút đề cập đến đề tài này. Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cuộc sống bỉ ổi, đồi bại của tầng lớp thượng lưu trong xã hội nhố nhăng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ (1936). Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng… mô tả cuộc sống trụy lạc như một tệ nạn xã hội cần phê phán. Còn các cây bút văn xuôi lãng mạn như: Nhất Linh, Khái Hưng… đi ra ngoài quỹ đạo phê phán xã hội khi viết về đề tài này để hướng đến sự đề cao tự do, giải phóng cá nhân và đề cao giá trị ẩn chứa bên trong những gì bị cho là nhơ nhuốc tận cùng. Không chỉ trong văn xuôi, thơ ca lãng mạn giai đoạn 1930- 1945 cũng có nhiều thi sĩ viết về đề tài này. Năm 1939, trong Tinh huyết, Bích Khê có lúc thi vị hóa và thanh khiết hóa cái đẹp nhục thể (Tranh lõa thể), có lúc diễn tả những cảm giác điên cuồng, ngất ngư trong khoái lạc. Trong thơ Thế Lữ cũng nói đến “khói huyền lên” và Lưu Trọng Lư, ngoài Mộng và Tình lại thêm “Quẩy theo với rượu một vừng giai nhân”. Đến Vũ Hoàng Chương thì rượu, thuốc phiện và gái giang hồ đã trở thành đề tài thú vị của thi ca! Thơ ông nói nhiều đến cái say: say rượu, say tình, say nhạc, say thơ. Cái say của Vũ Hoàng Chương là cái say trong bến bờ siêu thực, nơi mọi ràng buộc của lý trí và hiện thực trơ lì, đen tối không bén mảng đến. Cái say ấy làm sống dậy bản năng sáng tạo và thiên tính nghệ thuật thi ca vĩnh hằng. Tất cả những trạng thái say sưa, điên đảo đó là sự nổi loạn của tâm hồn uất ức, chán ngán với thời cuộc. Viết về đề tài thuốc phiện, cô đầu, Nguyễn Tuân khác với các nhà văn hiện thực và có phần đồng cảm với các nhà văn, nhà thơ lãng mạn. Nhưng nếu các nhà
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan