UBND HUYỆN YÊN LẠC
TRUNG TÂM GDNN – GDTX
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Tác giả sáng kiến: Đường Thị Huệ
Môn: Ngữ văn
Trường: Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc
Vĩnh Phúc, năm 2020
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Vĩnh Phúc, năm 2020
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
PPDH: Phương pháp dạy học
HS: Học sinh
GV: Giáo viên
BT THPT: Bổ túc Trung học phổ thông
PTNL: Phát triển năng lực
SGK: Sách giáo khoa
SBT: Sách bài tập
SGV: Sách giáo viên
LLBB: Lập luận bác bỏ
NLCB: Năng lực cơ bản
MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu........................................................................................................1
2. Tên sáng kiến......................................................................................................2
3. Tác giả sáng kiến:...............................................................................................2
4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến:....................................................................2
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến...............................................................................2
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử...............................2
7. Mô tả bản chất của sáng kiến............................................................................2
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÍ LUẬN................................................................................2
1.1. Năng lực............................................................................................................2
1.2. Thao tác lập luận bác bỏ....................................................................................5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ..........................................................8
2.1. Thuận lợi............................................................................................................8
2.2. Khó khăn...........................................................................................................8
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN...............................13
3.1. Cách tiến hành thực nghiệm............................................................................13
3.2. Khảo sát giáo án, thiết kế................................................................................16
3.3. Khảo sát hoạt động dạy học qua dự giờ..........................................................18
3.4. Khảo sát qua bài văn của học sinh...................................................................18
3.5. Thực nghiệm dạy học......................................................................................18
3.6. Đề xuất giáo án mới dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” theo định
hướng phát triển năng lực cho HS..........................................................................21
3.7. Xây dựng bài tập, đề kiểm tra trong dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh..................................................31
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC..................................................................36
KẾT LUẬN.............................................................................................................38
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): không.....................................38
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến................................................38
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được............................39
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã áp dụng thử..................................40
PHỤ LỤC...............................................................................................................41
TÀI LỆU THAM KHẢO..........................................................................................52
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
1.1. Nền Giáo dục – Đào tạo nước ta luôn được Đảng và Nhà nước coi là
quốc sách hàng đầu. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực”.
Bộ GD-ĐT cũng đề ra trong công văn 791/HD-Bộ GD-ĐT, chuyển từ
phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy học tích cực, lấy
HS làm trung tâm, nhằm hướng dẫn thí điểm phát triển chương trình giáo dục và
năng lực học sinh là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục phổ thông hiện nay.
Môn Ngữ văn là một môn học chính, giữ vai trò quan trọng trong việc phát
triển năng lực và phẩm chất của người học nên các giáo viên dạy môn Ngữ văn
cần nỗ lực trong công cuộc đổi mới này.
1.2. Năng lực phản biện là một năng lực mới được bổ sung vào trong
nhóm năng lực cần phát triển ở HS cấp phổ thông nói chung và khối BT THPT
nói riêng. Đồng thời bài học “Thao tác lập luận bác bỏ” là bài học trọng tâm
PTNL phản biện cho học sinh, đặc biệt là trong viết văn nghị luận. Bởi trong xã
hội ngày nay có rất nhiều ý kiến trái chiều với thực tại, nên bản thân mỗi người
cần có kiến thức sâu rộng để gạt đi, bác đi những ý kiến sai lệch và bảo vệ,
thuyết phục người khác đồng tình với quan điểm của mình. Trong văn nghị luận
cũng không thể thiếu kĩ năng bác bỏ để bài văn của mỗi học sinh hay hơn,
thuyết phục hơn.
1.3. Thực trạng dạy học bài Thao tác lập luận bác bỏ trong nhà trường
phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế, các giáo viên chủ yếu dạy lí thuyết mà
không chú trọng kĩ năng, cũng như không sử dụng các phương pháp, phương
tiện mới vào dạy học nên học sinh chưa hứng thú và bài học còn nhiều hạn chế.
Bản thân tôi cũng muốn nghiên cứu việc dạy học theo định hướng PTNL
học sinh để qua đó có thể trang bị cho mình kiến thức, kĩ năng phát triển năng
1
lực nghề nghiệp, nhằm phần nào đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục
phổ thông hiện nay.
2. Tên sáng kiến
Dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” theo định hướng phát triển năng
lực cho học sinh.
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Đường Thị Huệ
Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc.
Số điện thoại: 0915257427 E-mail:
[email protected]
4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến:
Họ và tên: Đường Thị Huệ
Địa chỉ: Trung tâm GDNN - GDTX Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Chức vụ: Giáo viên.
Số điện thoại: 0915257427 E-mail:
[email protected]
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Môn Ngữ văn lớp 11 BT THPT
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Học kì I, năm học 2019 - 2020
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Năng lực
1.1.1 Khái niệm về năng lực
Năng lực (competency) có nguồn gốc tiếng La tinh “competentia”, ngày
nay có nhiều khái niệm năng lực được hiểu theo các nghĩa khác nhau.
“Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc
như là các khả năng, hình thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện
thực hóa qua ý chí” (John Erpenbeck 1998).
2
Từ đó, chúng ta có thể nhận định: Năng lực của HS là khả năng làm chủ
những hệ thống kiến thức, kỹ năng, thái độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành
(kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ học tập, giải
quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em trong cuộc sống.
1.1.2. Định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong nhà trường
Theo Weinert (2001) định nghĩa “Năng lực là những khả năng và kỹ xảo
học hoặc sẵn có của cá thể nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như
sự sẵn sàng về động cơ, xã hội và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề
một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt”
* Sơ đồ khái quát các năng lực chung cần hình thành ở HS.
Năng lực chung
Năng lực xã
hội
Năng
lực
giao
tiếp
Năng
lực
hợp
tác
Năng lực cá thể
Năng
lực
tự
học
Năng
lực
giải
quyết
vấn
đề
Năng
lực
sáng
tạo
Năng lực công cụ
Năng
lực tự
quản
Năng
lực sử
dụng
công
nghệ
thông
tin
Năng
lực
sử
dụng
ngôn
ngữ
Năng
lực
tính
toán
1.1.3. Định hướng phát triển năng lực môn Ngữ văn cho học sinh trong
nhà trường
Theo cuốn sách “Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh” thì sau năm 2015 sẽ triển
khai thực hiện dự thảo đề án đổi mới chương trình SGK giáo dục phổ thông theo
định hướng năng lực. Đối với HS THPT khi học môn Ngữ văn cần hình thành
các năng lực chuyên biệt sau [5, tr50 – 56]
Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ: là khả năng của mỗi cá
nhân trong việc nhận ra được các giá trị thẩm mỹ của sự vật, hiện tượng, con
người và cuộc sống, thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái
thiện, từ đó biết hướng những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện
[4, 56].
3
Năng lực sáng tác: đó là việc tiếp thu các kiến thức kết hợp với kiến thức
của bản thân viết nên tác phẩm, có thể là thơ, truyện, sách, báo...để có được tác
phẩm có giá trị và giàu cảm xúc người đọc cần tích lũy kĩ năng tạo lập văn bản,
tìm hiểu kết cấu, bố cục, nội dung của thể loại mình muốn sáng tác, xác định đối
tượng cần viết và xây dựng bố cục chặt chẽ. Cần nắm chắc các thủ pháp nghệ
thuật từ đó có thể tạo một tác phẩm văn học hấp dẫn.
Năng lực lí luân, phê bình: Từ việc tiếp nhận một tác phẩm văn học,
người học sẽ được tiếp nhận các tri thức mới và tự nói lên quan điểm, tư tưởng
riêng của mình đối với tác phẩm văn học. Như vậy, để có sự đánh giá đúng đắn
về tác phẩm, người học cần biết văn bản đó có giá trị nội dung và nghệ thuật
nào? Đồng thời cũng cần có kĩ năng tìm tòi, phát hiện những giá trị mới trong
văn bản đó. Qua đó, tổng hợp lại viết thành một bài lí luận hoàn chỉnh.
Năng lực giải quyết vấn đề: năng lực này cần được triển khai và áp dụng
nhiều khi dạy học một số nội dụng cụ thể trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế
hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp nhận một số thể loại văn học mới, viết
một kiểu loại văn bản, lý giải các hiện tượng đời sống được thể hiện qua văn
bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá các hiện tượng văn học...GV
tạo ra càng nhiều tình huống có vấn đề trong tiết học thì càng khơi gợi được
hứng thú tìm tòi, khám phá cái mới, tinh thần trách nhiệm của học sinh và sự
phối hợp, tương tác giữa các em [4,50].
Năng lực sáng tạo: đây cũng là một trong những năng lực mà môn Ngữ
văn muốn hình thành ở HS. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các
tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các
văn bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những
góc nhìn khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của HS
trước một vẻ đẹp, một giá trị của cuộc sống. Nó còn bộc lộ thái độ đam mê và
khát khao được tìm hiểu của HS, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức
[4, 51].
Năng lực giao tiếp Tiếng Việt: là một trong những năng lực quan trọng
cần hình thành ở HS khi dạy học môn Ngữ văn. Năng lực này được thể hiện ở 4
kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết...Năng lực này coi trọng khả năng thực hành, vận
dụng những kiến thức Tiếng việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của
cuộc sống [4, 55].
4
Năng lực hợp tác: Đây là một năng lực cần thiết trong xã hội hiện đại, khi
mà chúng ta đang sống và làm việc trong một môi trường phát triển với xu thế
hội nhập. Trong tiết học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện rõ khi HS cùng chia
sẻ phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm
vụ học tập diễn ra trong giờ học. Từ đó, HS được bày tỏ những suy nghĩ, cảm
nhận của mình về các vấn đề đặt ra đồng thời biết cách lắng nghe những ý kiến
trao đổi, thảo luận của các bạn trong nhóm để tự điều chỉnh hành vi và suy nghĩ
của bản thân. Đây là những yếu tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách
cho HS [4, 52].
Năng lực tự quản bản thân: năng lực này giúp mỗi con người luôn chủ
động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình, sống có kỉ
luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
Muốn HS có được các năng lực này thì dạy học không được thiên quá
nhiều về lý thuyết mà cần dành đa số thời gian để HS được trải nghiệm và vận
dụng.
Để đạt được mục tiêu trên GV cần đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới
cách kiểm tra đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực.
Tức là, GV phải thiết kế giáo án theo các hoạt động dạy học mới, trong
phần mục tiêu bài học GV cần chỉ rõ những năng lực mà HS cần hình thành và
rèn luyện. Đối với những nội dung dạy học mới hoặc có sự thay đổi về mục tiêu
bài học, cần có sự thay đổi thống nhất giữa các GV trong tổ, nhóm chuyên môn
để đưa ra mục tiêu và những nội dung, hình thức dạy học cụ thể, thống nhất.
- Ngoài việc phát huy tối đa tác dụng của những hình thức và phương
pháp dạy học truyền thống, nên tiến hành dạy học theo những hình thức mới
như: nghiên cứu bài học, dạy học theo dự án… kết hợp với hệ thống các câu hỏi
gợi mở, dẫn dắt nhằm đánh giá mức độ năng lực của HS. Đặc biệt, cần ứng dụng
công nghệ thông tin nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS,
hình thành cho các em phương pháp tự học để có năng lực học tập suốt đời.
- Tăng cường các bài tập tình huống nhằm liên hệ, nối kết các nội dung,
sự kiện, nhân vật, kiến thức, kĩ năng trong các bài học với cuộc sống, hiện thực
đang diễn ra hàng ngày; từ lời ăn tiếng nói đến cách diễn đạt, suy nghĩ, cách thể
hiện sự đồng cảm, chia sẻ…
1.2. Thao tác lập luận bác bỏ
1.2.1. Khái niệm
5
Thao tác lập luận bác bỏ là một hoạt động tư duy nhằm giúp cho con
người nhận thức được cái đúng, biết phê phán cái sai, bảo vệ chân lí, lẽ phải.
Tuy nhiên đây là thao tác khá mới trong dạy học Làm văn. Bởi lẽ trước đây,
trong dạy Làm văn chỉ đưa ra những kiểu bài nghị luận (phân tích, chứng minh,
so sánh, bình luận...). Nhưng do việc thay đổi chương trình và xuất phát từ thực
tế viết văn nghị luận là phải vận dụng kết hợp thao tác lập luận trong một bài
văn, các em học sinh cần nhận biết được các thao tác lập luận nên chương trình
SGK Ngữ văn 11 đã đưa ra một số thao tác lập luận cơ bản, trong đó có thao tác
bác bỏ. Vì đây là một thao tác mới nên những công trình nghiên cứu về thao tác
và dạy học thao tác bác bỏ là chưa nhiều.
Thao tác lập luận bác bỏ cũng được nghiên cứu trong SGK. Việc nghiên
cứu này chỉ mang tính chất khái quát về lập luận bác bỏ, chưa đi sâu nghiên cứu
các bài tập mới ngoài SGK. Trong SGK cũng đã có có cả hai phần lý thuyết và
thực hành luyện tập thao tác lập luận bác bỏ nhưng hầu như cả hai phần này đều
chưa thực sự đi sâu vào kết quả cần đạt đến. Trong bài dạy lý thuyết, SGK chỉ
mới đề cập tới các vấn đề đó là: Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận và cách
bác bỏ; cách bác bỏ vẫn còn rất mơ hồ, chưa cụ thể, không mới mẻ. Vì vậy, nếu
đưa được cách dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” và bài “Luyện tập thao
tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn 11, tập 2 theo định hướng phát triển
năng lực HS thì bài học sẽ đạt được kết quả rất cao.
Cùng với đó là cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn lớp 11, tập 2 do Phan
Trọng Luận chủ biên đã đề cập tới lập luận bác bỏ, nhưng công trình này cũng
chưa đi sâu nghiên cứu các bài tập ngoài SGK mà chỉ định hướng việc dạy thao
tác lập luận bác bỏ trong dạy học lý thuyết và thực hành. Nếu đưa các bài tập
ngoài SGK nhất là những bài tập ngay trong đời sống xã hội, văn học theo hướng
phát triển năng lực thì kỹ năng lập luận bác bỏ của HS sẽ tốt hơn rất nhiều
Theo SGK Ngữ văn 11, tập 2 đưa ra khái niệm như sau: “Lập luận bác bỏ
là dùng lí lẽ và chứng cứ để gạt bỏ những quan điểm, ý kiến sai lệch hoặc thiếu
chính xác, … từ đó, nêu ý kiến đúng của mình để thuyết phục người nghe (người
đọc).
1.2.2. Vai trò của bác bỏ và lập luận bác bỏ
Bác bỏ là một khái niệm trong logic học. Khái niệm này được sử dụng
thường xuyên trong cuộc sống, học tập và công việc. Khi cần trao đổi, tranh
luận để phản bác một ý kiến sai lầm, lệch lạc, phản khoa học, người ta thường
6
sử dụng lập luận bác bỏ.Tư duy bác bỏ thể hiện rất rõ trình độ hiểu biết, khả
năng suy nghĩ độc lập và tính tự chủ của người nói, người viết.Vì vậy, muốn làm
việc hiệu quả, muốn nhận thức thấu đáo chân lí và sự thật, muốn hiểu bản chất
của vấn đề một cách vững chắc, chúng ta phải biết cách bác bỏ.
Trong thực tế, HS có thể đã biết bác bỏ nhưng lập luận còn thiếu cơ sở,
thiếu logic dẫn đến kết quả bác bỏ không có sức thuyết phục. Mục tiêu của giáo
dục trong nhà trường phổ thông hiện nay là nhằm phát triển năng lực toàn diện
cho HS, trong đó đề cao năng lực sáng tạo, suy nghĩ độc lập, biết bảo vệ chân lí,
lẽ phải… nên việc dạy học thao tác lập luận bác bỏ là rất cần thiết. Không phải
ngẫu nhiên mà trong Chương trình Ngữ văn lớp 11 (mới), LLBB được coi là
một trong bốn thao tác lập luận chính cần dạy cho HS. LLBB vừa rèn luyện khả
năng tư duy ngược chiều một cách độc lập tự chủ, vừa nâng cao năng lực nghị
luận cho HS khi nói và viết. Đồng thời giúp HS có ý thức hơn trong việc nâng
cao trình độ hiểu biết của bản thân để bảo vệ chính kiến của mình, bảo vệ chân
lí, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, lệch lạc. Đó cũng chính là việc hình thành và
bồi dưỡng cho HS ý thức dân chủ, công khai, đức tính trung thực, tôn trọng chân
lí và sự thật trong cuộc sống, trong khoa học.
Từ điển tiếng Việt giải thích: “Bác bỏ (đg): Bác đi, gạt đi, không chấp
nhận. Bác bỏ ý kiến. Bác bỏ luận điệu vu khống. Dự án bị bác bỏ” [24; tr37].
Trong logic học “Bác bỏ là thao tác logic nhằm xác lập tính giả dối hay
tính không có căn cứ của luận đề đã được nêu ra. Phán đoán cần bác bỏ gọi là
luận đề của bác bỏ. Các phán đoán dùng để bác bỏ gọi là các luận cứ. Có ba
cách bác bỏ: 1. Bác bỏ luận đề (bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp); 2. Bác bỏ
luận cứ và 3. Làm sáng tỏ tính không vững chắc của luận chứng” [25; tr193].
Trong văn nghị luận muốn cho lập luận chặt chẽ, khi viết cần biết soi sáng
vấn đề dưới nhiều góc cạnh bằng cách tự đặt ra các câu hỏi như là chất vấn, đối
thoại để làm nổi bật sự thật, để phơi bày mặt trái, mặt vô lí của một vấn đề nào
đấy. Ở đây, thao tác LLBB thường được vận dụng một cách triệt để.
Như vậy, rèn kĩ năng lập luận bác bỏ cho HS cũng chính là rèn luyện
năng lực tư duy, suy luận, năng lực thuyết phục cho HS khi nói và viết.
7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
2.1. Thuận lợi
Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc, nơi tôi công tác, là một ngôi trường
khang trang, đảm bảo vệ sinh môi trường, nhà trường đã có sự đầu tư về cơ sở
vật chất, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho việc dạy và học.
Đồng thời luôn có sự chỉ đạo sát sao của Chi bộ, Ban giám đốc trong mọi
lĩnh vực hoạt động đặc biệt là trong công tác giảng dạy.
Bản thân tôi luôn trau dồi, học hỏi kiến thức cho mình. Là người giáo viên
giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi luôn yêu nghề, nguyện đem hết khả năng của
mình để phục vụ cho sự nghiệp.
+ Hàng tháng tôi luôn được Ban giám đốc, các anh chị đồng nghiệp trong
tổ nhóm chuyên môn dự giờ, rút kinh nghiệm.
+ Đồng thời thông qua bạn bè đồng nghiệp tôi đã học hỏi được một số
kinh nghiệm trong phương pháp giảng dạy. Đó là điều kiện thuận lợi để bản thân
có thể dạy tốt môn học này. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi cũng không thể
tránh những khó khăn trong quá trình giảng dạy.
2.2. Khó khăn
2.2.1.Thực trạng về tài liệu dạy học
* Tìm hiểu nội dung dạy bài “Thao tác lập luận bác bỏ” (SGK Ngữ văn 11,
tập 2).
A. Mục tiêu bài học
Mục tiêu bài học của bài: “Thao tác lập luận bác bỏ” trong SGK Ngữ văn
11, tập 2 bao gồm 3 phần: kiến thức, kĩ năng, thái độ, cụ thể như sau:
* Về kiến thức
Giúp học sinh nắm được:
- Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ.
- Cách bác bỏ.
- Yêu cầu sử dụng thao tác lập luận bác bỏ.
*Kĩ năng:
- Nhận diện và chỉ ra tính hợp lí, nét đặc sắc của các cách bác bỏ trong các
văn bản.
8
- Viết một đoạn văn, bài văn bác bỏ một ý kiến với cách bác bỏ phù hợp.
* Về thái độ:
- Có quan điểm, lập trường vững vàng, bảo vệ những ý kiến đúng đắn, bác
bỏ các quan điểm, ý kiến sai lệch.
Nhìn chung về mục tiêu bài học đối với bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
(SGK Ngữ văn 11, tập 2) về lí thuyết đã chỉ ra những mục tiêu cơ bản về kiến
thức, kĩ năng và thái độ. Tuy nhiên, cần phải khai thác sâu hơn nữa về mục tiêu
bài học và theo hướng phát triển năng lực của HS.
B. Nội dung bài học
Đối với bài “Thao tác lập luận bác bỏ” (SGK Ngữ văn 11, tập 2) có những
nội dung chính như sau:
I.
Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ
1.
Mục đích
2.
Yêu cầu
II.
Cách bác bỏ
1.
Phân tích ngữ liệu
a.
Ngữ liệu a
b.
Ngữ liệu b
c.
Ngữ liệu c
2.
Cách thức bác bỏ
III.
Luyện tập
1.
Bài tập 1
2.
Bài tập 2
* Đánh giá:
Nội dung dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” (SGK Ngữ văn 11, tập 2)
về cơ bản vẫn còn đơn giản, ở phần I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận
bác bỏ trong phần này mới chỉ ra bác bỏ là gì? (theo từ điển tiếng Việt). Phần II.
Cách bác bỏ, với mục 1 là phân tích các ngữ liệu nhưng sang đến mục 2 SGK
chỉ viết hãy cho biết các cách thức bác bỏ, không đưa ra các ví dụ hay những lời
nhận xét. Qua đây, chúng ta có thể thấy trong mục I thiếu phần khái niệm, trong
9
SGK chưa chỉ ra các bước LLBB và ở phần II tên đề mục chưa đầy đủ. Như vậy,
với nội dung bài “Thao tác lập luận bác bỏ” như trong SGK thì còn quá chung
chung, sơ sài, cần phải thay đổi các phần và sắp xếp hợp lí để nội dung bài học
được chi tiết hơn.
Trong thực tế, yêu cầu phát triển năng lực cho HS THPT nói chung và HS
BT THPT nói riêng xuất phát từ khả năng trí tuệ của HS đã có những bước hoàn
thiện về thế chất lẫn tâm lí.
Tài liệu dạy học cụ thể là SGK, SBT, SGV cũng đã bước đầu định hướng
các kiến thức, kỹ năng cơ bản để HS có thể biết cách lập luận bác bỏ.
Tuy nhiên qua việc khảo sát các tài liệu dạy học tôi thấy, vẫn chưa có
bước định hướng vào phát triển năng lực cho HS.Thao tác lập luận bác bỏ là
kiểu bài lí thuyết về kĩ năng, vì thế mà mục tiêu chính của bài là phải rèn luyện
cho học sinh kĩ năng lập luận bác bỏ. SBT mặc dù đã đưa ra cho HS một số bài
tập nhưng vẫn còn ít và chưa đa dạng, chưa rèn luyện được kĩ năng sửa chữa,
lập luận cho HS. Do đó, trong quá trình dạy học cần phải tăng cường, đa dạng
hoá hệ thống ngữ liệu và hệ thống bài tập để rèn luyện nhiều về kĩ năng lập luận
bác bỏ cho học sinh.
Tài liệu dạy học về kiểu bài này còn ít, giữa những tài liệu còn chưa có sự
thống nhất cao trong việc phát triển năng lực cho học sinh và chưa có tài liệu
nào thiết kế bài “Thao tác lập luận bác bỏ” theo định hướng phát triển năng lực
cho HS một cách cụ thể.
Vì vậy, tôi nhận thấy tài liệu dạy học chưa đề ra những kiến thức nhằm
rèn luyện kĩ năng cũng như phát triển năng lực cho HS bởi vậy mới dẫn đến tình
trạng bài học chưa sâu, chưa đạt được mục tiêu rèn luyện và phát triển những
năng lực cần thiết cho HS.
2.2.2 .Thực trạng về hoạt động dạy của GV
Qua nhiều dịp dự giờ thăm lớp, các giờ dạy của đồng nghiệp, tôi nhận
thấy việc tổ chức dạy học của tôi và các GV khác đã hướng vào việc định hướng
cho HS kiến thức lí thuyết về cách lập luận bác bỏ và cung cấp cho HS một số kĩ
năng làm bài.
Đa số các GV đều cho rằng việc vận dụng các PPDH tích cực trong giảng
dạy là cần thiết và sẽ đem lại hiệu quả cao hơn so với các phương pháp truyền
thống. Tuy nhiên, nhiều GV còn ngần ngại vận dụng các PPDH tích cực, nhất là
10
PPDH dự án vì phải đầu tư nhiều thời gian, công sức. Còn một số GV đã quen
với các phương pháp truyền thống nên ngại đổi mới.
Về việc dạy học để phát triển các NLCB cho HS vẫn chưa được các GV
viên chú trọng. Đa số GV giảng dạy theo lối truyền thụ tri thức là chủ yếu, nên
việc phát triển các NLCB cho HS trong bài thao tác lập luận bác bỏ còn nhiều
hạn chế. Như: việc dạy học kiểu cũ chỉ chú ý tới tiếp nhận kiến thức mà chưa
chú ý tới phát triển năng lực cho HS. Tri thức mà HS tiếp nhận còn phiến diện,
một chiều, đôi chỗ còn làm các em mơ hồ.
2.2.3. Thực trạng về hoạt động học của HS
Văn nghị luận là một loại văn khó, đòi hỏi người viết phải có trí tuệ, có sự
quan sát, tổng hợp, khái quát, đánh giá….nên không phải học sinh nào cũng có
thể tiếp nhận dễ dàng.
Trung tâm GDNN – GDTX Yên Lạc, nơi tôi đang giảng dạy là trường
thuộc khối GDTX, đa số các em HS ở đây có học lực trung bình và một số ít HS
có học lực khá. Nhiều em ý thức còn kém, việc dạy - học theo kiểu cũ về thao
tác lập luận bác bỏ còn rất mơ hồ. Rất nhiều HS chưa nhận thức rõ được tầm
quan trọng của thao tác này trong bài văn nghị luận.
Hệ thống bài tập chưa có sự đa dạng, chưa có sự phân hoá, phân loại theo
chủ đề, theo sở thích, năng lực của HS. Vì vậy hoạt động của các em rất thụ
động, không có sự sáng tạo, hứng thú trong học tập. Đặc biệt, hệ thống bài tập
chưa có những bài tập ứng dụng, bài tập vận dụng năng lực giao tiếp để rèn
luyện cho HS năng lực nói - trình bày vấn đề cũng như thể hiện cách lập luận,
dẫn dắt vấn đề, nói một cách rõ ràng, thuyết phục cho mọi người về các vấn đề
đặt ra.
Một số phụ huynh còn coi nhẹ và chưa sát sao với việc học tập của con
em mình, thường xuyên cho con nghỉ học tuỳ tiện nên ít nhiều cũng làm ảnh
hưởng tới kết quả học tập của các em.
Tôi nhận thấy rằng việc dạy học cần điều chỉnh hoạt động học cho HS
thông qua việc chú trọng các kiến thức, kĩ năng nhằm nâng cao năng lực cho các
em để các em thành thục kĩ năng lập luận so sánh, tiếp cận những đề bài một
cách chủ động, sáng tạo; đồng thời tạo hứng thú học tập, kích thích, khơi gợi ở
các em khả năng tự bộc lộ suy nghĩ, quan điểm của mình… như thế bài học mới
đạt được mục tiêu giáo dục đề ra là: Dạy học văn gắn liền với với đời sống, phát
huy năng lực của người học để lĩnh hội và chủ động chiếm lĩnh tri thức. Việc kết
11
hợp dạy học vào việc phát triển năng lực cho HS là vô cùng cần thiết, nó phải
được định hướng một cách cụ thể bằng những phương pháp dạy học tích cực để
nâng cao năng lực làm văn nghị luận cho HS.
12
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Cách tiến hành thực nghiệm
* Thực nghiệm thăm dò: Chúng tôi tiến hành thực nghiệm phỏng vấn
GV và phát phiếu điều tra khảo sát HS ở một số lớp khối 11, để thăm dò thực
trạng dạy và học kiểu bài “Thao tác lập luận bác bỏ” (SGK Ngữ văn 11, tập 2).
* Tác giả khảo sát qua điều tra phỏng vấn (phiếu điều tra GV và HS)
Để tìm hiểu được thực trạng dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ”
(SGK Ngữ văn 11, tập 2) của giáo viên và thực trạng học bài “Thao tác lập luận
bác bỏ” ở học sinh, chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra, khảo sát với 4 GV
trong nhóm chuyên môn Ngữ văn (phiếu điều tra, khảo sát số 1), phát phiếu điều
tra, khảo sát đối với học sinh lớp 11A2 trong trường (phiếu điều tra, khảo sát số
2). Kết quả đạt được như sau:
Phiếu khảo sát số 1:
- Số phiếu phát ra: 04
- Số phiếu thu về: 04
Trả lời
Câu hỏi Đáp án
1
2
3
4
Số lượng
Phần trăm
A
1
25%
B
0
0%
C
0
0%
D
3
75%
A
1
25%
B
1
25%
C
2
50%
D
0
0%
A
1
25%
B
0
0%
C
3
75 %
A
1
25%
13
5
6
7
B
2
50%
C
1
25%
A
1
25%
B
0
0%
C
1
25%
D
2
50%
A
1
25%
B
3
75%
- Học sinh hiểu bài nhưng khi vào bài viết không phải học sinh nào
cũng áp dụng được, số áp dụng được không nhiều.
- Ngữ liệu của bài “Thao tác lập luận bác bỏ” thường dài nên khi
tìm hiểu mất nhiều thời gian. Vì vậy, trong giờ dạy phân tích được ít
ngữ liệu.
- Câu hỏi còn khó. Các dạng đề kiểm tra ít sử dụng thao tác LLBB.
- Nội dung lý thuyết còn sơ sài.
- Trình độ nhận thức của học sinh còn thấp, thiếu tính tích cực, chủ
động, sáng tạo. Học sinh không hứng thú khi học bài “Thao tác lập
luận bác bỏ”.
8
- Các dẫn chứng chưa thật sự sinh động, phong phú, cần bổ sung
thêm.
- Có nhiều cách để bác bỏ một luận điểm, luận cứ tuy nhiên khi dạy
học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” cần đưa ra một số cách cơ bản để
học sinh áp dụng.
- Phần I, mục đích, yêu cầu của bài “Thao tác lập luận bác bỏ” cần
bổ sung khái niệm về “Thao tác lập luận bác bỏ”.
- Dạy học kết hợp với các phương tiện hỗ trợ (máy chiếu, sơ đồ,
tranh ảnh, bảng phụ…) để tạo hứng thú cho học sinh và nâng cao
chất lượng giờ dạy.
- Cần có trong chương trình một bài viết văn có sử dụng thao tác lập
luận bác bỏ để biết được khả năng nhận thức và vận dụng của HS.
14
Phiếu khảo sát số 2:
- Số phiếu phát ra: 32
- Số phiếu thu về: 32
Câu hỏi
Đáp án
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Trả lời
Số lượng
Phần trăm
A
19
59,4%
B
11
34,4%
C
2
6,2%
A
17
53,1%
B
11
34,4%
C
4
12,5%
A
13
40,6%
B
19
59,4%
A
12
37,5%
B
20
62,5%
A
26
81,3%
B
6
18,7%
A
29
90,7%
B
3
9,3%
A
9
28,1%
B
23
71,9%
A
14
43,8%
B
18
56,2%
- Em mong được học theo phương pháp hiện đại, có sử dụng máy
chiếu, video, tranh ảnh minh họa, được học theo nhóm để làm giờ
học không nhàm chán.
- Em muốn kiểm tra những câu hỏi tùy vào lực học của mỗi HS,
kiểm tra với kiến thức vừa phải. Khi kiểm tra bài cô giáo nên cho
15
HS lập luận về một vấn đề nào đó mà bản thân mình quan tâm nhất
và cô giáo nhận xét.
- Em muốn tìm hiểu kĩ thêm về thao tác lập luận bác bỏ, bài học
được mở rộng và nâng cao hơn (nâng cao phương pháp giảng dạy,
đưa ra nhiều ví dụ và bài tập để nâng cao kĩ năng làm văn)
- Em muốn được học theo phương pháp hiện đại, thầy (cô) giúp
hoàn thiện kĩ năng lập dàn ý để có thể có kiến thức chắc hơn.
- Em muốn được học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” với cách cô
giáo cho bài tập ngoài SGK, sau đó bản thân tự làm và được cô giáo
chữa, xem mình có làm đúng hay không, khả năng tự lập luận như
thế nào để biết được khả năng nắm bài và kĩ năng của mình đến đâu.
- Mong thầy cô giảng chậm và kĩ hơn về bài học này.
3.2. Khảo sát giáo án, thiết kế
* Khảo sát giáo án
Để biết thực trạng dạy học bài “Thao tác lập luận bác bỏ” (SGK Ngữ văn
11, tập 2) trong nhà trường diễn ra như thế nào thì chúng tôi đã tiến hành khảo
sát 2 giáo án của 2 GV khác nhau ở trường, chúng tôi nhận thấy như sau:
Giáo án số 1:
- Về mục tiêu bài học: với kiến thức GV mới chỉ giúp HS nắm được mục
đích, yêu cầu của thao tác lập luận bác bỏ mà chưa chỉ ra cần phải giúp HS nắm
được khái niệm về thao tác LLBB. Tiếp theo là giúp HS nắm được cách bác bỏ,
vậy cách bác bỏ ở đây là gì thì GV vẫn chưa chỉ ra cụ thể mà nói một cách rất
chung như phần II. Cách bác bỏ trong SGK, cuối cùng là giúp HS nắm được một
số vấn đề xã hội và văn học, vậy vấn đề xã hội và văn học là cái gì? GV cần xác
định đủ vấn đề hơn như giúp HS biết bác bỏ một ý kiến sai, thiếu chính xác về
một vấn đề nào đó trong xã hội và trong văn học.
- Về nội dung bài học: ở phần I. Mục đích, yêu cầu của thao tác lập luận
bác bỏ GV có chỉ ra bác bỏ là bác đi, gạt đi, không chấp nhận nhưng đây thực
chất là khái niệm của bác bỏ chứ không phải mục đích của thao tác LLBB và
GV lại chỉ ra nghị luận về bản chất là tranh luận, tranh luận để bác bỏ những
quan điểm, ý kiến không đúng, bày tỏ và bênh vực những ý kiến đúng đắn. Để
nghị luận thêm sâu sắc và giàu tính thuyết phục thì cần phải biết bác bỏ, thực
16