Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Y dược đánh giá kết quả điều trị dính mép trước dây thanh tại bv tai mũi họng trung ươn...

Tài liệu đánh giá kết quả điều trị dính mép trước dây thanh tại bv tai mũi họng trung ương

.PDF
88
41
63

Mô tả:

1 ĐẶT VẤN ĐỀ Màng dính mép trước dây thanh bản chất là một tổ chức xơ sẹo được phủ bởi một lớp biểu mô gai không có lớp sừng hóa nối liền hai dây thanh. Đây là một bệnh hiếm gặp trên lâm sàng.Tổn thương này chỉ chiếm tỉ lệ chưa đến 10% trong tổng số các bệnh tích sẹo hẹp thanh khí quản nói chung và khoảng 5% trong số các dị tật bẩm sinh của thanh quản [1]. Bệnh có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như bẩm sinh, chấn thương hay sau nhiễm trùng đặc hiệu. Ở Việt Nam màng dính dây thanh chưa được chú ý nhiều, bệnh thường bị bỏ qua trong quá trình điều trị các chấn thương hay nhiễm trùng nặng và chỉ được nhắc đến như một phần trong bệnh lý sẹo hẹp thanh khí quản [2]. Ở trẻ em bệnh hay gặp do nguyên nhân bẩm sinh: sẹo dính chiếm phần lớn diện tích thanh môn gây ra khó thở tím tái thậm chí gây tử vong sau khi sinh. Vì thế việc điều trị màng dính dây thanh ở trẻ em còn gặp nhiều khó khăn. Trong trường hợp màng dính thanh môn không hoàn toàn do nguyên nhân mắc phải như giai đoạn đầu của chấn thương thanh quản hay trong các bệnh cảnh nhiễm trùng nặng thì những biến đổi chủ yếu về giọng nói, chủ yếu là nói khàn, không rõ âm sắc gây khó khăn cho bệnh nhân khi giao tiếp và hoạt động nghề nghiệp. Cụ thể là sẽ gây ảnh hưởng đến cao độ lời nói (tần số rung dây thanh), cường độ (biên độ rung dây thanh) đặc biệt còn gây ảnh hưởng đến sự ổn định của tần số thanh cơ bản, ảnh hưởng đến tính ổn định của cường độ (các biên độ không đều) và trường độ (thời gian rung ngắn). Dù là do nguyên nhân nào thì điều trị màng dính mép trước dây thanh cũng là thách thức không nhỏ đối với các thầy thuốc tai mũi họng. Từ lâu đã có nhiều phương pháp phẫu thuật với mục tiêu là đảm bảo cho bệnh nhân vừa phát âm tốt vừa không bị khó thở nhưng cho đến giờ vẫn chưa có phương pháp nào cho kết quả như mong muốn. Màng dính mép dây thanh rất hay tái 2 phát [3] do tổ chức sẹo phát triển sau khi đã thực hiện phẫu thuật tách dính, làm dây thanh hai bên tái dính đôi khi còn nhiều hơn trước khi phẫu thuật nên đây vẫn là một phẫu thuật mà tỉ lệ thành công chưa cao. Tới đầu những năm 90 của thế kỉ XX người ta phát triển quá trình ứng dụng kháng sinh chống phân bào vào quá trình điều trị và đã mang lại những đặc tính ngăn chặn sự phát triển của các tổ chức xơ sẹo mà không ảnh hưởng tới sự phát triển của các tế bào biểu mô, được ứng dụng lần đầu tiên trong việc chống lại quá trình tạo sẹo ở các chuyên khoa khác(ngoại, mắt...). Việc sử dụng Mitomycin sau phẫu thuật tách dính đã làm giảm tỉ lệ tái phát của màng dính dây thanh [2] mang lại hiệu quả điều trị, cải thiện chất lượng giọng nói cho bệnh nhân. Trước đây việc điều trị chưa đem lại kết quả khả quan nên việc xử trí loại bệnh lí này hầu như không được chú ý và bị bỏ quên nhưng trong thời gian gần đây cùng với sự tiến bộ về quan điểm điều trị và trang thiết bị kĩ thuật đã phát hiện được nhiều trường hợp bị bệnh, cho kết quả chuyển biến tích cực hơn. Vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả điều trị dính mép trước dây thanh” với các mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và tìm hiểu một số nguyên nhân gây dính mép trước dây thanh. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật dính mép trước dây thanh qua nội soi và phân tích chất thanh. 3 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU 1.1.1. Trên thế giới So với các bệnh học thanh quản khác thì màng dính mép trước dây thanh được coi là loại bệnh “mới”. Năm 1820 Fleischmann mô tả ca lâm sàng màng dính dây thanh đầu tiên sau khi mổ tử thi cho một trẻ 15 tháng tuổi. Năm 1869 Zurelle phát hiện trường hợp đầu tiên trên người sống ở một cháu bé 11 tuổi bằng gương soi thanh quản gián tiếp. Năm 1889 Seiffer có báo cáo về một gia đình có cả bố, con trai và hai con gái mắc bệnh này [3],[4]. Trong lĩnh vực điều trị bệnh màng dính dây thanh Von Schroetter lần đầu tiên tách dính bằng việc đặt một ống cao su cứng vào thanh quản để nong rộng tổn thương [5]. Năm 1931 Jackson mô tả một phương pháp điều trị trong đó màng dính được cắt dọc theo bờ tự do của dây thanh hai bên [3]. Năm 1935 Samuel Iglauer [3] mô tả một phương pháp trong đó ông đã cấy một cái nhẫn vào đỉnh vùng dính mép trước, sau đó chờ khi biểu mô bò trở lại tạo thành một đường hầm biểu mô ở phía trước. Dựa vào nghiên cứu này nhiều cải tiến về kĩ thuật như phẫu thuật một thì, dây thanh hai bên được giải phóng ngay từ đầu, một ống nong phân tách mép trước hai bên với các loại vật liệu khác nhau như Silicon hay chất dẻo [6].... đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình biểu mô hóa bề mặt dây thanh hai bên, tránh hiện tượng dính trở lại [7],[8]. Một số các tác giả khác cũng sử dụng các ống nói trên dưới hình thức các tấm dẻo để ngăn chặn sự tiếp xúc trở lại của vùng mép trước dây thanh [6]. 4 Từ những năm 80 của thế kỉ XX việc điều trị màng dính dây thanh trở nên có hệ thống hơn từ việc phân loại tổn thương cho đến việc phối hợp nhiều phương pháp điều trị cho một tổn thương [9]. Tuy vậy vẫn có tỉ lệ đáng kể màng dính trở lại sau phẫu thuật [5], đây là khó khăn lớn trong việc điều trị màng dính dây thanh. Đến những năm 90, cùng với sự ra đời và phát triển thành công của các thuốc chống phân bào, các kĩ thuật phối hợp giữa phẫu thuật và thuốc chống phân bào mà điển hình là Mitomycin bắt đầu được áp dụng rộng rãi. Về thanh học, năm 1937 Griit Macher N.Lottermoser W đã đo được khả năng rung của dây thanh. Năm 1950 Wethelo và 1952 Martens P đã dùng thực nghiệm đánh giá khả năng rung của dây thanh.Và vào năm 1981 Muler H., Monet A và cộng sự đã dùng phổ âm đánh giá khả năng hồi phục phát âm của dây thanh sau phẫu thuật. 1.1.2. Trong nước Năm 2005 Lương Thị Minh Hương đã áp dụng phương pháp phẫu thuật cắt tách dính 2 bên dây thanh kết hợp với chấm Mitomycin C tại vùng phẫu thuật để chống tăng sinh tổ chức hạt nhằm chống tái dính đã cho kết quả khả quan: kết quả tốt 53,13%, bệnh nhân không khàn tiếng, dây thanh 2 bên nhẵn phẳng không dính trở lại. Kết quả trung bình 25% giọng vẫn còn khàn nhưng đã giao tiếp được, không phải đeo canuyn. Kết quả xấu 21,83% [10]. Năm 2009 tác giả Hoàng Đình Ngọc nghiên cứu về màng dính dây thanh đã cho những kết quả sau: sau phẫu thuật 10 tuần có tới 30/34 bệnh nhân (88,24%) có kết quả tốt về mặt hình thái học. Về mặt chức năng, sau phẫu thuật 10 tuần 31/34 bệnh nhân (91,18%) chỉ còn khàn tiếng mức độ nhẹ, không còn bệnh nhân nào có biểu hiện khó thở [2]. Trong quá trình theo dõi chưa thấy bệnh nhân nào có biểu hiện tái phát. 5 Ngoài ra có 1 số nghiên cứu về màng dính thanh quản được nhắc tới như một phần trong các nghiên cứu sẹo hẹp thanh khí quản nói chung của các tác giả Phạm Khánh Hòa, Quách Thị Cần... [11],[12]. Nghiên cứu về thanh học đã được tiến hành từ rất sớm nhưng chỉ được quan tâm thực sự trong những năm gần đây.  1999: Lê Văn Lợi [13] nghiên cứu về thanh học, các bệnh giọng nói, lời nói và ngôn ngữ. Đưa ra các khái niệm về khàn tiếng và các loại giọng khàn khác nhau qua cảm thụ khách quan.  2000: Nguyễn Giang Long [14] đã cho thấy sự ảnh hưởng của bệnh nhân hạt xơ dây thanh về thanh điệu nhưng nghiên cứu còn mang tinh chất định tính.  2002: Ngô Ngọc Liễn, Nguyễn Văn Lợi, Trần Công Hòa [15] đã nhận xét về sự biến đổi thanh điệu của giáo viên tiểu học bị bệnh thanh quản và bước đầu nhận định phân tích âm học trong chẩn đoán bệnh và giám định nghề.  2004: Nguyễn Hoàng Huy [16] nghiên cứu ngoài sự thay đổi về mặt thanh điệu còn có sự biến đổi của chất thanh.  2005: Trần Thái Sơn [17] đã sử dụng chương trình PRAAT để số hóa âm học và đưa ra những nhận xét về sự thay đổi chất thanh ở bệnh nhân bị sẹo hẹp thanh quản.  2006: Nguyễn Quang Hùng [18] đã nghiên cứu cho thấy sự biến đổi chất thanh ở bệnh nhân bị u nang dây thanh. 1.2. GIẢI PHẪU THANH QUẢN 1.2.1. Giải phẫu thanh quản Thanh quản là một thành phần quan trọng của ngã tư đường ăn và đường thở, vì vậy nó có cấu trúc cũng như chức năng đặc biệt phức tạp. Về mặt chức năng, thanh quản con người đã trải qua quá trình tiến hóa từ chức năng ban đầu là chức năng bảo vệ và kiểm soát đường thở thông qua 6 hoạt động đóng mở và thay đổi tinh vi của các dây thanh âm. Chức năng sau cùng của bậc thang tiến hóa là chức năng phát âm, đặc biệt là sự hình thành lời nói là một trong những đặc điểm quan trọng nhất là cho con người trở nên khác biệt với các động vật khác [19],[20]. Thanh quản được mô tả là một khung sụn xơ, và một loạt các cơ bám xung quanh nó để tạo nên các chức năng khác nhau của thanh quản. Thanh quản đi từ ngang mức đốt sống cổ 3 đến cổ 6. Ở trẻ em và nữ giới vị trí của thanh quản có thể cao hơn chút ít. Kích thước thanh quản ở nam và nữ giống nhau ở trước tuổi dậy thì, sau dậy thì đường kính trước sau của thanh quản ở nam giới thường gần gấp đôi ở nữ giới và lồi hơn ra phía truớc, dễ dàng sờ thấy. Đường kính của thanh quản [21]: Đường kính của thanh quản Giới Chiều cao ĐK ngang DK trước sau Nam 44mm 43mm 36mm Nữ 36mm 41mm 26mm Bộ khung thanh quản được tạo bởi các sụn là sụn nhẫn, sụn giáp, hai sụn phễu và sụn thanh thiệt [22], những sụn này được nối với nhau bằng các màng, dây chằng và các khớp. Khi các khớp này bị chệch hoặc bị cứng do chấn thương sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc thanh quản thậm chí gây hẹp thanh quản. Các sụn thanh quản được nối với nhau bằng các màng xơ chun như màng giáp- móng, màng nhẫn- giáp, màng nhẫn- khí quản, các màng này tạo nên sự bền vững của cấu trúc thanh quản [23],[24]. 7 Hình 1.1. Các cơ nội tại của thanh quản [21] A. Nhìn bên 1. Cơ nhẫn giáp B. Sau khi cắt mảnh sụn giáp C. Nhìn sau 2. Cơ phễu nắp 3.Cơ phễu chéo 4. Cơ phễu ngang 5. Cơ nhẫn phễu sau 6. Cơ nhẫn giáp 7. Cơ nhẫn phễu bên Thanh quản được vận động nhờ 3 nhóm cơ, các cơ này có tác dụng làm thay đổi chiều dài, độ căng, hình dạng, và vị trí của các dây thanh bằng cách làm thay đổi hướng của mỏm cơ và mỏm thanh âm của sụn phễu. Các cơ này đuợc xếp vào 3 nhóm chính là cơ khép dây thanh, cơ mở dây thanh và cơ căng dây thanh [25],[26]. Trong số cơ phát âm, chủ chốt nhất là cơ giáp – phễu. Cơ giáp phễu (Thyroarytenoid muscle) có thể coi là cơ quan trọng nhất trong sinh lý phát âm của thanh quản, và là một trong những thành phần chính của dây thanh. Cơ này có hai phần là bó ngoài và bó trong:  Bó ngoài cơ giáp phễu: ở phía trước đính vào góc trước sụn giáp, phía sau chạy đến bờ ngoài của sụn phễu, khi bó cơ này co lại làm cho mỏm thanh âm và góc trước gần với nhau, dẫn đến dây thanh âm ngắn và thanh môn khép lại. 8  Bó trong cơ giáp phễu: đi từ góc trước ra sau đến mỏm thanh âm của sụn phễu. Khi co, nó làm cho dây thanh ngắn lại và dày lên, bó cơ này được biết đến như là cơ dây thanh. Thanh quản được tính từ lỗ mở vào thanh quản thông với họng tới bờ dưới của sụn nhẫn, nơi thanh quản nối với sụn khí quản. Thanh quản có hình thể như đồng hồ cát và được chia làm 3 tầng:  Tầng thượng thanh môn (Upper part of the laryngeal cavity) hoặc tiền đình thanh quản (vestibulum laringis) Khoang thanh quản trên bắt đầu từ lỗ vào của thanh quản, nơi là ranh giới giữa họng và thanh quản tới nếp tiền đình hay băng thanh thất. Lỗ vào của thanh quản hướng ra sau và lên trên. Chu vi của lỗ vào thanh quản được hình thành bởi phần trước là bờ của sụn thanh thiệt, hai bên là hai nếp phễu thanh thiệt, hai nếp này chạy ra sau, xuống dưới và vào trong đến đính vào sụn phễu, ở khoảng giữa của hai đầu sau của hai nếp hình thành khuyết gian phễu [21]. Hình 1.2. Thiết đồ đứng dọc thanh quản[19] 9  Tầng thanh môn (Middle part of the laryngeal cavity) hay thanh thất Morgagni: Là phần chạy từ bờ của băng thanh thất ở phía trên tới bờ của dây thanh ở phía dưới. Hai nếp tiền đình giới hạn giữa chúng một khe gọi là buồng Morganie (rima vestibuli), và giữa hai nếp thanh âm (dây thanh âm) là thanh môn (rima glottis). Khoảng giữa buồng Morganie và dây thanh mở ra phía hai bên tạo thành buồng thanh thất, từ phần trước của thanh thất có một cái túi gọi là tiểu nang (saccule) lách lên giữa nếp tiền đình và mặt trong của sụn giáp, đôi khi nó có thể đi tới gấn bờ trên sụn này. Niêm mạc phủ trong tiểu nang chứa rất nhiều tuyến chế tiết nhày, chất nhày được tiết ra sẽ phủ lên bề mặt của dây thanh giúp dây thanh được bôi trơn, không bị khô và nhiễm khuẩn. Vì vậy tiểu nang được coi như “bình dầu nhờn” của thanh quản. Hình 1.3.Thiết đồ đứng ngang thanh quản [20]  Tầng hạ thanh môn (Lower part of the laryngeal cavity): Tầng này có hình phễu ngược, đi từ khe thanh môn tới bờ dưới sụn nhẫn. Niêm mạc vùng này có nhiều tuyến chế tiết, tổ chức dưới niêm mạc lỏng lẻo nên dễ xảy ra phù vùng này nhất là ở trẻ em tạo nên bệnh cảnh khó thở thanh quản phù nề hạ thanh môn. 10 1.2.2. Mạch máu thanh quản Có hai động mạch cấp máu cho thanh quản là động mạch thanh quản trên và dưới: - Động mạch thanh quản trên xuất phát từ động mạch giáp trên – là nhánh của động mạch cảnh ngoài. Động mạch thanh quản trên tách ra ngang mức xương móng, sau đó nó chạy vào trong cùng với nhánh trong của thần kinh thanh quản trên và đi qua màng giáp móng ở điểm 1 cm phía trên trong lồi củ trên (superior tubercle) của sụn giáp. - Động mạch thanh quản dưới tách ra từ động mạch giáp dưới, động mạch giáp dưới chia ra từ thân giáp cổ - một nhánh của động mạch dưới đòn. Động mạch thanh quản dưới chui vào thanh quản ở giữa các thớ của cơ siết họng dưới, chia nhánh và kết nối với các nhánh của động mạch thanh quản trên. Tĩnh mạch thanh quản đi kèm với động mạch, cũng bao gồm tĩnh mạch thanh quản trên và dưới [20], [27]. 1.2.3. Thần kinh thanh quản Thanh quản được chi phối bởi hai dây thần kinh đều tách ra từ dây thần kinh X:  Thần kinh thanh quản trên (superior laryngeal nerve) chia ra hai nhánh:  Thần kinh thanh quản trong (internal laryngeal nerve): chủ yếu là cảm giác và tự động, dây này qua màng giáp móng ngay trên động mạch thanh quản trên vào chi phối cho cả hai mặt của thanh thiệt, nếp phễu thanh thiệt và niêm mạc thanh quản tới tận dây thanh [20].  Thần kinh thanh quản ngoài (external laryngeal nerve): chi phối cho cơ giáp nhẫn Khi liệt dây thanh quản trên bệnh nhân sẽ mất cảm giác thanh quản, mất cảm giác nền lưỡi. Dây thanh bị chùng, bờ ngoằn ngoèo, tiếng nói khàn và nhỏ. 11  Thần kinh quặt ngược hay dây thần kinh hồi quy (recurrent laryngeal nerve): Có hai dây thần kinh quặt ngược tách ra từ dây X, dây quặt ngược trái tách ra ở dưới cung động mạch chủ, vòng qua quai này để đi lên, trong khi dây quặt ngược phải chỉ chạy vòng qua động mạch dưới đòn đi lên hai bên khí quản. Vì vậy, chiều dài dây quặt ngược trái có kích thước trung bình là 12 cm, thường dài gấp đôi chiều dài dây quặt ngược phải là 6cm, và vì có đường đi dài hơn nó dễ bị liệt hơn dây bên phải. Khi đến vùng cổ, dây quặt ngược chạy lên ở hai bên khí quản để đi vào thanh quản ở bờ dưới cơ siết họng dưới, ngay sau khớp nhẫn giáp. Dây quặt ngược vận động cho tất cả các cơ nội thanh quản ngoại trừ cơ nhẫn giáp, và cảm giác cho niêm mạc thanh quản phía dưới dây thanh. Khi bị liệt dây này, sụn phễu và dây thanh cùng bên sẽ không hoạt động được làm cho nửa bên thanh quản bị mất di động, nhưng cảm giác của thanh quản vẫn còn. 1.2.4. Cấu trúc vi thể của dây thanh âm Dây thanh âm có cấu trúc vi thể phức tạp, nó cho phép lớp biểu mô mềm mại ở nông dễ dàng rung động tự do ngay cả khi dưới nó là một tổ chức dưới niêm mạc cứng chắc hơn Hình 1.4 Cấu trúc mô học dây thanh theo Hirano [28] 12 Vi cấu trúc dây thanh được chia thành 3 lớp chính: Lớp niêm mạc, lớp dây chằng thanh âm và lớp cơ. Lớp ngoài cùng của dây thanh là lớp biểu mô vảy Lớp dưới biểu mô là ba lớp lá đệm niêm mạc (lamina propria) là lớp nông, lớp trung gian và lớp sâu. Ba lớp này có độ cứng chắc tăng dần. Lớp lá đệm niêm mạc nông nhất hầu như không có tế bào, và được cấu tạo gần giống như dịch protein ngoại bào, gồm những sợi collagen và elastin lỏng lẻo. Lớp lá đệm nông còn được gọi là khoảng Reinke, là lớp có cấu trúc lỏng lẻo nhất. Lớp trung gian và lớp sâu cũng được cấu tạo chủ yếu bởi những sợi elastin và collagen cứng chắc hơn. Lớp lá đệm trung gian và lớp sâu hình thành nên dây chằng thanh âm, lớp lá đệm nông lỏng lẻo và lớp biểu mô vảy có thể chuyển động dễ dàng trên lớp dây chằng thanh âm và lớp cơ để tạo nên những rung động âm thanh trong quá trình phát âm. Lớp cơ dây thanh được bao phủ bởi lớp niêm mạc và lớp dây chằng thanh âm, nó đi từ góc trước sụn giáp tới mỏm thanh âm của sụn phễu. 1.2.5. Sinh lí phát âm Luồng thở phát âm là nguồn động lực chính của phát âm, từ ngực bụng thở ra, nhưng không giống như nguồn thở ra trong sinh lý hô hấp. Thở ra trong sinh lý hô hấp:  Là một hiện tượng tự động và thụ động, do sự tự động co lại của lồng ngực và mô phổi  Dung tích thở ra đều nhau khoảng 500ml mỗi lần thở. 13 Thở ra trong sinh lý phát âm:  Chủ động vì có huy động thêm các cơ bụng, hiện tượng này rất rõ khi phải nói to, nói mạnh.  Chủ động cả về thời gian thở ra, ngắn hay dài khi phát âm ngắn hay kéo dài.  Chủ động cả về khối lượng hơi thở ra, tùy thuộc của yêu cầu của hơi phát âm mạnh hay yếu [18]. Luồng hơi thở ra: là động lực chính của phát âm: nhờ những phương tiện đo và ghi hình ở thanh quản, người ta thấy rằng luồng hơi thở ra là động lực chính để duy trì các rung động của dây thanh. Mặc dù có luồng điện kích thích vào các cơ của thanh môn, người ta có thể làm cho thanh môn rung động nhưng rung động này không thể tồn tại kéo dài được nếu không có luồng hơi thở ra thanh môn. Điều này chứng minh trên bệnh nhân đã được mở khí quản hoàn toàn không có khả năng phát âm, mặc dù hệ thống thần kinh còn nguyên vẹn. Hiện tượng rung thanh Âm cơ bản phát ra ở thanh quản là do sự rung của hai dây thanh đồng thời với luồng hơi đi qua. Muốn được như vậy hai dây thanh từ tư thế doãng thở chuyển sang tư thế có tên gọi là: tư thế phát âm Tư thế phát âm cụ thể là: Hai dây thanh khép lại (do cơ liên phễu và cơ nhẩn phễu bên). Đồng thời hai dây thanh căng lên (do cơ giáp nhẫn – đặc biệt cơ giáp phễu là cơ chính của dây thanh). Hai cơ này làm cho hình dạng dây thanh có thể biến đổi từ dầy, mỏng, căng ít, căng nhiều...Tùy theo yêu cầu của phát âm [19]. Với tư thế phát âm, luồng hơi thở đi qua sẽ xuất hiện sự rung của dây thanh 14 Hình 1.5 Tư thế phát âm với hai động tác [21] 1. Động tác mở - 2. Động tác khép căng Có nhiều giả thuyết cơ bản về sự rung của dây thanh [29]  Giả thuyết đàn hồi cơ của Ewald (1898) [13],[29] Đây là một giả thuyết cơ học : Sự rung động của thanh đai được sinh ra do sự mất thăng bằng giữa trương lực của thanh đai (do mức độ căng gây ra) và áp lực của không khí ở hạ thanh môn. Khi bắt đầu nói thì thanh đai khép lại. Không khí bi nén ở hạ thanh môn đè vào hai thanh đai và làm hé mở thanh môn, một ít không khí thoát lên họng, nhưng hai thanh đai lại khép trở lại do sự giãm áp lực và do đàn hồi của thanh đai hay nói cho đúng hơn của cơ năng như cơ giáp - phễu, cơ nhẫn - giáp. Áp lực tăng lên trở lại, thanh môn lại mở hé ra và chu kỳ cứ thế tiếp diễn cho đến khi không còn không khí để tạo ra áp lực ở hạ thanh môn. Tiếng nói sẽ lớn hay nhỏ tùy theo biên độ rung động của thanh đai tức là tùy theo áp lực của không khí ở hạ thanh môn. Giọng sẽ cao hay thấp, tùy theo mức độ căng của thanh đai tức là mức độ căng của cơ giáp- phễu. Thuyết của Ewald không đúng hẳn khi đối chiếu với thực tế lâm sàng: bệnh nhân bị liệt dây thanh (cơ dây thanh mất lực đàn hồi) nhưng vẫn có thể phát âm được dù giọng nói bị biến đổi. 15  Giả thuyết dao động theo luồng thần kinh của Husson (1950) [13],[29] Theo Husson, sự khép thanh môn và sự rung động dây thanh là hai động tác sinh lý khác nhau, dây thanh có thể rung một cách độc lập không cần phải có sự khép của thanh môn. Người ta có thể ghi được dòng điện này ở người (trong phẫu thuật cắt bỏ thanh quản) và thấy rằng nó phát ra những xung động thần kinh cùng thì (synchrome) với tần số của tiếng nói. Khi đi sâu vào sinh lý, giả thuyết này gặp một trở ngại lớn là vấn đề thời trị, chúng ta biết rằng dây thần kinh không có khả năng tải quá 1000 xung động thần kinh trong một giây đồng hồ, quá con số này các cơ sẽ không co giật nữa mà sẽ co cứng. Trong khi đó thanh đai của chúng ta có thể rung trên 3000 chu kỳ trong một giây đồng hồ. Thuyết Husson nói lên một phần của cơ chế phát âm chứ chưa giải thích hết được các hiện tượng sinh lý của phát âm. Hiện nay các nhà khoa học đã bổ sung hai thuyết trên bằng một số giả thuyết mới.  Giả thuyết rung sóng niêm mạc của Perello- Smith [13],[29] Hai giả thuyết trên có nhiều nhược điểm và có chỗ không ăn khớp với thực tế, nên người ta đề ra thuyết thứ ba dựa vào sự rung sóng của niêm mạc thanh đai. Sức hút của luồng không khí thoát qua thanh môn tạo ra những làn sóng niêm mạc dọc theo bờ tự do hai thanh đai. Những sóng này đi từ mặt dưới lên mặt trên của thanh đai. Giả thuyết rung sóng niêm mạc có thể giải thích được một số hiện tượng lâm sàng như:  Người ta có thể phát âm thành tiếng nói khi thở hít vào vì luồng không khí hít vào có thể gây ra rung sóng niêm mạc.  Những thương tổn niêm mạc dây thanh như phù nề, khô... hoặc bệnh lý ở lớp dưới niêm mạc dây thanh đều ảnh hưởng đến phát âm vì nó làm trở ngại sự rung sóng niêm mạc.  Mỗi dây thanh có thể rung sóng một cách độc lập và khác pha với dây thanh bên kia tạo giọng lưỡng âm. 16  Lý thuyết của Louis Sylvestre và Mac Leod (1968) [13],[29] Thuyết của Sylvestre và Mac Leod đã tổng hợp được hai giả thuyết của Ewald và Husson đồng thời giải thích được những thiếu sót của hai giả thuyết đó về mặt cấu trúc và sinh lí hoạt động của dây thanh. Theo Louis và Mac, điểm chính là cơ dây thanh thuộc loại cơ không phối nhịp. Nó khác hẳn với những cơ vân thông thường có thể co bóp mỗi nhịp theo từng luồng thần kinh chỉ huy. Cơ dây thanh hoạt động dao động theo kiểu con lắc, các biến thiên điện thế sẽ do dây quặt ngược mang tới không chuyển nhịp dao động mà chỉ chuyển lực điện thế và tức khắc nó sẽ gây rung động cho cơ dây thanh. Điều này được chứng minh cụ thể khi soi hoạt nghiệm dây thanh:  Trong phát âm tần số thấp toàn bộ dây thanh rung động có độ căng vừa phải.  Trong phát âm tần số cao, chỉ một phần dây thanh phía trước rung động có độ căng rất lớn. Tóm lại tất cả các thuyết trên, không thuyết nào đứng độc lập giải thích đầy đủ mà các thuyết đã bổ sung cho nhau để cùng giải thích hoàn chỉnh cơ chế phát âm của dây thanh. 1.2.6. Phôi thai học thanh quản Phát triển của thanh quản bắt đầu từ tuần thứ tư của thai kỳ, nó quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của khí quản. Khởi đầu có sự hình thành nếp thanh khí quản ở phía bụng của hầu, nếp này sẽ dần dần lõm sâu lại và các mép của nó khép lại với nhau để tạo nên một vách ngăn ngăn cách ống thanh khí quản với hầu và thực quản. Quá trình hình thành vách ngăn này bắt đầu từ phía đuôi và tiến triển lên phía đầu của phôi. Ống thanh khí quản được lót bởi lớp nội bì có cùng nguồn gốc với biểu mô đường hô hấp. Phía đầu phôi của ống này sẽ hình thành nên thanh quản và khí 17 quản, phía đuôi phôi của ống chia ra hai nhánh để tạo ra hai phế quản gốc và sau đó các nụ chồi của hai phối phải và trái sẽ phát triển trên hai phế quản này. Sự phát triển thiếu hụt trong giai đoạn này dẫn đến việc còn tồn tại khe giữa khí thực quản sau này, đây là một trong các tổn thương phối hợp trong bệnh màng dính thanh quản [2]. Hình 1.6.Sự phát triển của thanh quản [24] A. Ở phôi người 30 mm; B. Ở thai người 55 mm; C. Ở thai người 300 mm 1. Lưỡi; 2. Lồi dưới mang (mầm của nắp thanh quản); 3.Phình sụn phễu (nụ phễu); 4.Lỗ thanh quản thông với họng; 5.Nắp thanh quản; 6.Nếp phễu nắp thanh quản. Lòng thanh quản được bịt kín do sự tăng sinh của tế bào biểu mô nội bì kéo dài tới tháng thứ 3 của đời sống trong bụng mẹ. Sau đó, do sự thoái hoá của một số tế bào biểu mô lòng ống mới thông. Lúc ấy mỗi bên xuất hiện một cái ngách gọi là buồng thanh quản (thanh thất Morgani), buồng này được giới hạn bởi những nếp gấp phía trên và phía dưới. Các nếp này lần lượt là nguồn gốc của băng thanh thất và của dây thanh. Sự thoái hoá không hoàn toàn của 18 các tế bào biểu mô trong lòng ống ở ngang mức bình diện dây thanh chính là nguyên nhân của bệnh màng dính thanh quản bẩm sinh. 1.3. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN MÀNG DÍNH MÉP TRƯỚC THANH QUẢN 1.3.1. Nguyên nhân bẩm sinh Thanh quản được tạo ra bởi đoạn trên của ống thanh khí quản. Ranh giới của đoạn này ở mặt bụng bằng lồi dưới mang và ở hai bên bởi đầu hướng về phía bụng của cung mang thứ 6. Ở mỗi bên ống xuất hiện một nụ phễu. Hai nụ tiến lại gần nhau, đồng thời tiến lại gần lồi dưới mang đang phát triển thành sụn nắp thanh quản. Bởi vậy, lỗ thông giữa thanh quản với họng, lúc đầu là một khe dọc và hẹp, sau trở thành hình chữ T. Ngành dọc của chữ T chen vào giữa hai nụ phễu, còn ngành ngang chen vào giữa hai nụ phễu và nắp thanh quản. Sự tồn tại của ngành dọc chữ T khi sinh ra là một trong những tổn thương phối hợp có thể gặp trong bệnh màng dính thanh quản [24]. Các nguyên nhân tác động vào quá trình hình thành thanh quản bắt đầu từ tuần thứ 4 cho đến tuần thứ 12 trong thời kỳ bào thai, như đột biến nhiễm sắc thể (nhiễm sắc thể thứ 21) hay các bệnh người mẹ mắc phải lúc mang thai như cúm, rubeon… nhất là vào tháng thứ 3 khi lòng thanh quản bắt đầu chuẩn bị thông thoáng trở lại đều có thể cản trở quá trình hoàn thiện của thanh quản, dẫn đến nhiều dị tật bẩm sinh của thanh quản, trong đó có bệnh màng dính thanh quản. 1.3.2. Nguyên nhân mắc phải Thường hay gặp 2 nhóm nguyên nhân sau: - Chấn thương thanh quản kín hoặc hở gây đụng dập tổn thương vùng mép trước và dây thanh dẫn đến viêm dính hai dây thanh và mép trước. Các chấn thương này thường phối hợp với các tổn thương khác ở thanh khí quản như đụng dập, sập sụn giáp, sụn nhẫn gây hẹp lòng khí quản, trật khớp nhẫn phễu, viêm dính, sẹo lồi tiền đình thanh quản và hạ thanh môn. Một trong 19 những thể đặc biệt của chấn thương thanh quản là chấn thương do đặt ống nội khí quản. Trong trường hợp gây mê, hồi sức, nhất là trong các trường hợp khó đặt ống (lưỡi dày, hàm thụt, miệng nhỏ…), hay cấp cứu (hôn mê, khó thở…) đặt ống nội khí quản có thể gây tổn thương mép trước hoặc dây thanh dẫn đến tình trạng viêm dính mép trước. Bệnh lý này có thể đi kèm hiện tượng trật khớp nhẫn phễu. Ngoài ra hiện nay hay gặp nguyên nhân do thầy thuốc khi phẫu thuật vào vùng thanh môn như trong điều trị chấn thương, sẹo hẹp thanh quản, phẫu thuật cắt các khối u lành tính (u nang, hạt xơ, papilloma…) ở vùng dây thanh sát mép trước có thể gây dính mép trước thanh quản với mức độ khác nhau. - Do viêm nhiễm do virus như cúm, sởi…. hoặc do vi khuẩn gây loét 2 dây thanh, nhất là các viêm nhiễm đặc hiệu vùng thanh quản (Lao, giang mai, bạch hầu thanh quản…) có thể cũng là nguyên nhân gây viêm dính mép trước dây thanh. Trước đây nguyên nhân hay gặp là viêm nhiễm đặc hiệu, tuy nhiên trong thời gian gần đây cùng với gia tăng các bệnh lí ở dây thanh thì phẫu thuật vào vùng mép trước dây thanh như vi phẫu thanh quản lại làm tăng tỉ lệ màng dính. 1.3.3. Bệnh sinh Theo lý thuyết về sinh lý của quá trình phục hồi thương tổn thì qúa trình này liên quan đến cả tái tạo biểu mô và tổ chức hình thành sẹo xơ. Nó bao gồm 3 thì chính: Viêm - hình thành tổ chức hạt - lắng đọng các chất nền ngoài tế bào và sự bù đắp lại. Nếu sự tăng sinh, bù đắp ở tổ chức liên kết ở các mức độ vừa phải, lớp biểu mô có đủ thời gian để phục hồi che phủ phần biểu mô bị mất, tổ chức xơ sẽ không vượt quá ra khỏi lớp biểu mô gai, vết thương sẽ được phục hồi tương đối hoàn chỉnh. 20 Chất tơ huyết đọng ở 2 mép vết thương có tác dụng như keo: kết dính. Các mô bào, nguyên bào sợi, bạch cầu tập trung lấp đầy khe giữa 2 mép vết thương và mô hạt được hình thành. Quá trình tổng hợp chất collagen do nguyên bào sợi được tiến hành từ ngày thứ hai sau khi bị thương, đạt cao điểm ở ngày thứ năm, thứ bảy sau khi bị thương. Trong quá trình lành sẹo, nếu có sự tăng sinh quá mức của các chất gian bào, chất tạo keo và mô xơ có thể gây sẹo lồi. Đặc biệt trong những trường hợp viêm mạn tính, gây tồn tại các kích thích sự tổng hợp collagen dẫn đến hiện tượng sơ hóa co kéo. Hình 1.7. Các bước trong quá trình lành vết thương [2]
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng