ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH
CUỘC DI CƯ VÀ ĐỊNH CƯ CỦA ĐỒNG BÀO
CÔNG GIÁO MIỀN BẮC SAU HIỆP ĐỊNH
GENÈVE (1954-1963)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã ngành: 62.22.03.13
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ VIỆT
NAM
Người hướng dẫn: GS.TS Ngô Văn Lệ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Ngô Văn Lệ
Phản biện độc lập 1:...............................................
Phản biện độc lập 2:...............................................
Phản biện 1:............................................................
Phản biện 2:............................................................
Phản biện 3:............................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào
tạo họp tại:
vào hồi ………. giờ ………. ngày ………. tháng ……….năm 2019
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
- Trung tâm tư liệu nghiên cứu Viện Social Life
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Sau Hiệp định Genève, rất nhiều người Công giáo Bắc Bộ đã di cư
vào Nam theo điều khoản thi hành tạm thời của Hiệp định, trước khi tiến
tới tổng tuyển cử trên cả nước. Nhìn bề ngoài, quyết định di cư của người
dân có vẻ như hoàn toàn tự nguyện, nhưng thật ra, đằng sau của các điều
khoản của hiệp định này là những chiến lược chính trị của các quốc gia lớn,
với âm mưu chia cắt Việt Nam thành hai chiến tuyến, theo hai thể chế khác
nhau. Các tác giả nghiên cứu về vấn đề này có nhiều cách kiến giải khác
nhau, nhưng thường chỉ dừng lại ở các chủ đề tương đối rộng như nguyên
nhân và diễn biến cuộc di cư nói chung, nhiều nhà nghiên cứu vì trở ngại
trong việc tiếp cận tư liệu nên khi đánh giá về cuộc di cư ít nhiều vẫn còn
đưa ra những quan điểm trái chiều và gây tranh luận trong giới sử học.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu về “Cuộc di cư và định cư
của đồng bào công giáo miền Bắc sau Hiệp định Genève (1954 - 1963)”
1.1 Nhiệm vụ nghiên cứu:
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài Cuộc di cư và định cư của đồng bào công giáo
miền Bắc sau Hiệp định Genève (1954-1963), chúng tôi mong muốn khám
phá và lý giải ý nghĩa các cứ liệu lịch sử về cuộc di cư và định cư của đồng
bào công giáo miền Bắc dưới thời Đệ nhất Cộng hòa (1954-1963). Qua đó
có cái nhìn toàn diện về kế hoạch, chính sách của chế độ Mỹ - Diệm trong
cuộc di cư và định cư (1954 – 1963). Chúng tôi hy vọng kết quả nghiên cứu
sẽ phần nào đúc kết được những bài học lịch sử về việc xây dựng khối đoàn
kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi xác định mục tiêu
nghiên cứu cụ thể như sau:
-Nhận diện hoàn cảnh lịch sử Việt Nam và Hiệp định Genève năm
1954 trong bối cảnh quốc tế, chính sách thực dân mới của Mỹ những năm
đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Đồng thời, bước đầu đưa ra những nhận
định về bối cảnh lịch sử dẫn đến cuộc di cư của đồng bào Công giáo từ Bắc
Bộ vào Nam Bộ.
2
-Trình bày, phân tích, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến cuộc di
cư năm 1954, trong đó đề cập đến vai trò của Mỹ và chính quyền VNCH
trong việc đề ra chiến lược đưa người Công giáo Bắc Bộ vào định cư ở một
số tỉnh ở miền Nam ở giai đoạn đầu.
-Phân tích, đánh giá vai trò, vị trí của Chính quyền VNCH trong
việc kiện toàn công cuộc định cư, phân bố lại mật độ dân di cư và những hỗ
trợ thời gian đầu (1955 – 1956), cũng như quá trình địa phương hóa - tổ
chức định cư cho đồng bào di cư vào năm 1957 và sự hình thành các khu
dinh điền.
-Tổng kết, lý giải chiến lược di cư, phân bố, quản lý dân cư của
chính quyền VNCH.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Cuộc di cư và định cư của đồng bào Công giáo miền Bắc vào miền
Nam giai đoạn 1954 - 1963 ở vùng đô thị và nông thôn tại khu vực Đông
Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương) và Tây Nam
Bộ (Kiên Giang).
2.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài này là cộng đồng người Công giáo
di cư 1954 tại Nam Bộ.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đông Nam Bộ (Thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương) và Tây Nam Bộ (Kiên Giang)
- Phạm vi thời gian: Đề tài giới hạn thời gian nghiên cứu trong giai
đoạn 1954 và 1955 – 1963 (Đệ nhất Cộng hòa).
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Qua đề tài Cuộc di cư và định cư của đồng bào công giáo miền
Bắc sau Hiệp định Genève (1954-1963), chúng tôi mong muốn đóng góp
phần nào vào cơ sở lý luận sử học dùng để nghiên cứu các vấn đề lịch sử
Việt Nam hiện đại, đặc biệt trong giai đoạn 1954 – 1975 tại miền Nam Việt
Nam.
3
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Chúng tôi hy vọng đề tài này sẽ trở thành một trong những nguồn
tham khảo cho những người quan tâm và muốn tìm hiểu cuộc di cư của
đồng bào Công giáo 1954 – 1963 về nguyên nhân, diễn biến cuộc di cư,
quá trình địa phương hóa của cộng đồng di cư và thiết lập các địa điểm
dinh điền ở Đông - Tây Nam Bộ.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu đề tài này, chúng tôi
đã tập hợp và khai thác tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau:
+ Tài liệu của TTLTQG II Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Sách chuyên khảo, luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp, hồi ký
tác giả trong nước và người nước ngoài, đề tài nghiên cứu khoa học liên
quan đến lịch sử Việt Nam hiện đại, liên quan đến cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
+ Các biên bản phỏng vấn lịch sử qua lời kể của tác giả trong quá
trình điền dã tại hai khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.
4.2. Các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu
Chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp Lịch sử và phương pháp logic
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử qua lời kể (oral history)
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, chúng
tôi chia nội dung luận án thành bốn chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về cuộc di cư và định
cư của đồng bào công giáo miền Bắc vào miền Nam năm 1954 – 1963.
4
- Chương 2: Bối cảnh lịch sử và những nguyên nhân dẫn đến cuộc
di cư sau Hiệp định Genève năm 1954.
- Chương 3: Diễn biến cuộc di cư và giai đoạn đầu định cư của
đồng bào Công giáo miền Bắc tại Đông Nam Bộ, chủ yếu ở khu vực Sài
Gòn và các vùng lân cận (1954 – 1956)
- Chương 4: Quá trình “địa phương hóa” và chiến lược phân bố dân
di cư ở Cái Sắn qua loại hình dinh điền (1957 – 1963).
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CUỘC DI CƯ VÀ
ĐỊNH CƯ CỦA ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO MIỀN BẮC VÀO MIỀN
NAM NĂM 1954 – 1963
1.1.
Những nghiên cứu về nguyên nhân cuộc di cư lịch sử năm 1954
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc di cư năm 1954 nên các nhà
khoa học đứng trên các lập trường khác nhau đã có những cách lý giải khác
nhau về nguyên nhân chính dẫn đến cuộc di cư 1954 trong các công trình
nghiên cứu của mình. Trong khuôn khổ luận án này, chúng tôi dẫn lại một
số cách lý giải tiêu biểu dưới đây.
Các nhà nghiên cứu trong nước đưa ra nhiều cách lý giải khác
nhau về nguyên nhân của cuộc di cư như: họ di cư do cuộc sống khó khăn
do hạn hán, mất mùa và hậu quả của nạn đói, do những sai lầm thiếu sót
trong việc thi hành chính sách, do sự lôi kéo, dụ dỗ di cư của Mỹ và chính
quyền VNCH, do lập trường chống cộng của Vatican…
Các nhà nghiên cứu nước ngoài lại lý giải nguyên nhân cuộc di cư
năm 1954 là: do hoạt động tâm lý chiến của Mỹ, do muốn bảo vệ đức tin,
do sự khác biệt về tôn giáo, do muốn trãi nghiệm.
Như vậy, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về
nguyên nhân cũng như trách nhiệm của các bên trong cuộc di cư, mỗi tác
giả dựa trên cách thức tiếp cận và quan điểm khác nhau.
1.2.
Về cuộc di cư và định cư của đồng bào Công giáo
1.2.1. Di cư từ miền Bắc
Cuộc di cư ồ ạt người dân từ Bắc vào Nam có sự hỗ trợ đắc lực từ
phía Mỹ. Đồng thời, phía Mỹ và Ngô Đình Diệm phần nào đã thành công
trong việc truyền bá thông điệp cổ vũ di cư vào Nam đến dân chúng. Tác
giả Trần Nam Tiến đã dẫn ra tài liệu được giải mật của Lầu Năm Góc, nêu
rõ: “Không có sự yểm trợ của Mỹ, Diệm hầu như chắc chắn không thể
đứng vững được ở miền Nam...” (Tiến, 2015, tr 23).
Khi nghiên cứu về diễn biến cuộc di cư 1954, Lê Xuân Khoa, trong
công trình Việt Nam 1945-1995 - Chiến tranh tị nạn, bài học lịch sử, cho
rằng công cuộc di chuyển và định cư ngót một triệu dân di cư gồm ba công
tác chính: chuyên chở, tiếp đón và định cư. Việc chuyên chở do Pháp và
Hoa Kỳ phụ trách, còn tiếp đón và định cư là trách nhiệm của chính quyền
Quốc gia Việt Nam với sự viện trợ tài chính và vật liệu của Pháp, Hoa Kỳ
cùng một số chính phủ và tổ chức tư nhân ngoại quốc.
6
Có thể nói, trong khả năng tiếp cận nguồn tư liệu trong và ngoài
nước, cũng như từ quan điểm đánh giá riêng của bản thân, chúng tôi nhận
thấy ngoài Lê Xuân Khoa hầu như không có nhiều học giả trong và ngoài
nước nghiên cứu chi tiết về diễn biến cuộc di cư, hoặc nếu có thì cũng có
một khoảng cách nhất định về các cứ liệu lịch sử. Có lẽ mối quan tâm hoặc
khả năng tiếp cận nguồn tư liệu gốc là một trở ngại đối với các học giả các
giai đoạn trước đây. Chính vì vậy, đây sẽ là một mảng trống cần được khai
triển nghiên cứu sâu hơn trong luận án này của chúng tôi.
1.2.2. Định cư ở miền Nam
Khi khái quát về tình hình nghiên cứu công cuộc định cư đồng bào
công giáo di cư 1954, chúng tôi thấy rằng các học giả trong và ngoài nước
đã triển khai khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến Công giáo Việt
Nam trên nhiều chiều kích khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay những công
trình nghiên cứu về cuộc di cư và định cư của đồng bào Công giáo miền
Bắc vào miền Nam giai đoạn 1954 -1963 vẫn còn ít, có chăng là những
công trình nghiên cứu về di cư năm 1954 – 1959, quá trình thâu tóm quyền
lực và xây dựng nhà nước Cộng Hòa của Ngô Đình Diệm từ 1945 đến
1963, phân tích cuộc di cư dựa trên quan điểm và hệ tư tưởng của các tác
giả trong và ngoài nước. Ngoài ra, về nguyên nhân, diễn biến và số lượng
di cư vẫn chưa có sự thống nhất, đặc biệt là nghiên cứu về quá trình định cư
của đồng bào Công giáo Bắc Bộ nơi vùng đất Nam Bộ vẫn còn nhiều mảng
trống. Chính vì vậy, chúng tôi kỳ vọng lối tiếp cận nghiên cứu lịch sử xuất
phát từ các nguồn tư liệu gốc được lưu trữ tại TTLTQG II, gặp gỡ các nhân
chứng lịch sử là những người di cư năm 1954 sẽ phần nào lý giải một cách
thấu đáo nguyên nhân, diễn biến và công cuộc định cư của người Công
giáo di cư năm 1954 nơi vùng đất Nam Bộ (tiêu biểu là vùng Đông và Tây
Nam Bộ). Chúng tôi cũng kỳ vọng nghiên cứu này sẽ góp phần lý giải các
cứ liệu lịch sử, qua đó soi rọi quá khứ để tìm ra những bài học quý báu cho
sự phát triển quốc gia dân tộc.
Từ thực tiễn và tình hình hình nghiên cứu về cuộc di cư và định cư
của đồng bào Công giáo miền Bắc năm 1954 – 1963 như trên, chúng tôi
quyết định thực hiện đề tài Cuộc di cư và định cư của đồng bào công giáo
miền Bắc sau Hiệp định Genève 1954-1963.
7
CHƯƠNG 2
BỒI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN
CUỘC DI CƯ SAU HIỆP ĐỊNH GENÈVE NĂM 1954
2.1. Bối cảnh thế giới và Việt Nam trước Hiệp định Genève năm 1954
2.1.1. Bối cảnh thế giới trước Hiệp định Genève năm 1954
Bước vào giữa thế kỷ XX, bối cảnh thế giới sau chiến tranh thế
giới II, trở nên phức tạp và phân cực. Khi Liên Xô mới chiến thắng phát xít
Đức, sức mạnh và ảnh hướng lan rộng sang các nước vốn là những quốc
gia bị thực dân hóa bởi các nước tư bản phương Tây, phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc Á – Phi dâng cao. Điều này khiến cho tình hình
thế giới bước vào những năm 1950 là giai đoạn cao trào của Chiến tranh
lạnh, với sự phân cực rõ ràng giữa các nước tư bản phương Tây và các
nước khối xã hội chủ nghĩa.
Một trong những sự kiện tiêu biểu cho sự phân cực này là sự kiện
chiến tranh Triều Tiên (1950–1953) chấm dứt bằng một thoả hiệp quân sự
tại Bàn Môn Điếm (27/7/1953). Có thể nói Hiệp định (27/7/1953) tại Bàn
Môn Điếm đã trở thành mẫu hình cho các giải pháp hòa bình lúc bấy giờ.
Trận chiến Điện Biên Phủ cũng vì vậy mà có tính quyết định đến Hiệp định
Genève năm 1954. Trong bối cảnh Pháp trở nên suy yếu và rơi vào ngõ cụt
tại chiến trường Đông Dương, việc tìm lối thoát danh dự bằng thương
lượng đã được các cường quốc tư bản suy tính từ hồi đầu thập kỷ 50 của
thế kỷ XX.
Tuy nhiên, Mỹ cùng Anh ra tuyên bố chung Hiến chương Đại Tây
Dương (ngày 14/8/1941) và muốn chấm dứt cuộc chiến tranh Đông Dương,
nhưng mặt khác Mỹ lại muốn thay thế Pháp nắm tầm ảnh hưởng ở bán đảo
này, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản xuống Đông Nam Á –
nhiệm vụ mà Pháp đã bất lực. Do đó, Mỹ không muốn dùng giải pháp đàm
phán hòa bình với Việt Minh để giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông
Dương, mà Mỹ muốn Pháp trao trả "độc lập hoàn toàn" cho chính quyền
Bảo Đại.
2.1.2. Bối cảnh lịch sử của Việt Nam trước Hiệp định Genève
năm 1954
Cuối năm 1946, Pháp chính thức nổ súng tái xâm lược Việt Nam,
cũng từ đó quân đội Pháp phải đương đầu với cuộc kháng chiến bảo vệ độc
lập, tự do trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Việt Nam thời kỳ này hình
thành nên những vùng tự do, vùng bị địch tạm chiếm, vùng tranh chấp và
vùng giải phóng. Người Việt Nam bước vào thời kỳ 9 năm kháng chiến
8
chống Pháp và giành thắng lợi ở trận Điện Biên Phủ. Ý muốn tạo thế mạnh
trên bàn đàm phán tại Genève của Pháp thất bại.
2.2. Hội nghị Genève năm 1954
Hiệp định Genève 1954 được xem là hiệp định về khôi phục hòa
bình, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của các
quốc gia bản xứ, chính thức chấm dứt chế độ thực dân của Pháp tại Đông
Dương. Hội nghị kéo dài từ ngày 8/5 đến ngày 11/7/1954.
Từ ngày 8/5 đến ngày 23/6, các bên trình bày lập trường của mình
về cách giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Genève về Đông Dương bắt đầu được
ký kết. Về cơ bản, Hiệp định bao gồm những nội dung chính như: (1) Các
nước tham gia Hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; (2) Ngừng bắn đồng
thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương; (3) Sông Bến Hải,
tức vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt Việt
Nam làm hai miền, chính quyền và quân đội VNDCCH tập trung về miền
Bắc, chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam;
(4) 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành
việc tập trung, trong thời gian này, người dân được tự do đi lại giữa hai
miền; (5) Hai năm sau, tức ngày 20/7/1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do
trong cả nước để thống nhất Việt Nam; (6) Thành lập Ủy ban Quốc tế giám
sát và kiểm soát việc thi hành Hiệp định, gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada,
do Ấn Độ làm chủ tịch.
Trong đó đáng lưu ý nhất là điều 14d của hiệp định đình chiến ở
Việt Nam: “Trong thời gian kể từ khi Hiệp định bắt đầu có hiệu lực đến
ngày hoàn thành việc chuyển quân, nếu có một thường dân ở khu thuộc
quyền kiểm soát của bên này mà muốn sang ở một vùng giao cho bên kia
thì nhà chức trách của khu bên này cho phép giúp đỡ sự di chuyển ấy”.
Trước khi tiến tới tổng tuyển cử dự kiến vào tháng 7/1956.
Gần một trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ, và chín năm chiến tranh
liên tục, nhân dân Việt Nam khao khát hòa bình, nhưng ước muốn hòa bình
ấy dường như còn cách xa với nhân dân Việt Nam. Mặc dù Hiệp định
Genève về mặt chính trị đã công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ,
thống nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, với Hiệp định Genève, Việt Nam vẫn
tạm thời bị chia thành hai miền Nam - Bắc, lấy ranh giới là vĩ tuyến 17. Sau
hai năm, chậm nhất là vào tháng 7/1956, nhân dân hai miền sẽ đi bỏ phiếu
hiệp thương, tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. Như vậy, thực chất của
việc Hiệp định Genève được ký kết là để phục vụ cho sự tính toán lợi ích
9
của các nước lớn, do đó vấn đề Việt Nam, Lào, Campuchia đã được sử
dụng để phục vụ cho những dàn xếp mang tính lợi ích riêng của họ. Việt
Nam, với hai chế độ hoàn toàn khác nhau, miền Nam Việt Nam bắt đầu dần
có sự hiện diện của Mỹ, ban đầu là thông qua những kế hoạch viện trợ và
về sau là tham gia trực tiếp.
2.3. Vai trò các thể chế chính trị ở Việt Nam đối với cuộc di cư năm
1954
2.3.1. Tình hình chính quyền VNDCCH
Trong quá trình thực thi các điều khoản của Hiệp định Genève. Mỹ
và chính quyền VNCH thực hiện chiến lược chính trị quân sự thông qua
việc thúc đẩy di cư năm 1954. Lượng người di cư bỏ miền Bắc vào miền
Nam theo lời hiệu triệu của Ngô Đình Diệm là tổn thất rất lớn đối với chính
quyền VNDCCH (Lộc, 2013, tr 77-87). Ở miền Bắc Việt Nam, sau Hiệp
định Genève, hòa bình được lập lại, nhân dân miền Bắc bắt tay vào cuộc
đấu tranh với mục tiêu thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa Xã hội
trong điều kiện kinh tế khó khăn, do hệ quả của nạn đói năm 1945, và nhất
là do hậu quả nặng nề chiến tranh để lại. Tình trạng đói kém vẫn còn xuất
hiện, cộng thêm những chính sách chiêu dụ dân di cư của chính quyền
VNCH đã tác động lớn đến nhân dân Bắc Bộ, đặc biệt là đồng bào Công
giáo. Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, công tác đấu tranh chống kế
hoạch tuyên truyền, dụ dỗ và cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam của chính
quyền VNDCCH tiến hành không được mạnh mẽ nên ít có kết quả.
Những nguyên nhân chủ quan trên cộng với nguyên nhân khách
quan như đói kém và chính sách tuyên truyền mạnh mẽ của Mỹ và chính
quyền VNCH đã tác động lớn đến tâm lý của đồng bào Bắc Bộ, đặc biệt là
đồng bào Công giáo và hệ quả là một cuộc di cư lớn của thế kỷ XX được
diễn ra trong năm 1954.
2.3.2 Vai trò của Mỹ và VNCH đối với cuộc di cư năm 1954
Từ cuối năm 1949, nhằm thực hiện thành công chiến lược toàn cầu,
chính quyền Mỹ đã can thiệp vào cuộc chiến ở Việt Nam và Đông Dương,
vì thế chính quyền Mỹ “giúp” Pháp mở rộng và kéo dài cuộc chiến tranh
xâm lược. Khi Pháp thất bại hoàn toàn trên chiến trường Việt Nam và phải
ngồi vào bàn đàm phán, thì Mỹ ra sức ủng hộ cho chính quyền VNCH của
Ngô Đình Diệm ở miền Nam, sau Hiệp đình Genève, chính quyền VNCH
đã phát động một cuộc di cư quy mô lớn và nhận được sự hỗ trợ lớn từ Mỹ.
Trước sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ ngày 16/7/1955, Ngô Đình
Diệm lúc bấy giờ còn là Thủ tướng đã tuyên bố việc tổng tuyển cử là không
thể thực hiện được. Xuất phát từ tình hình nói trên, chính quyền VNCH với
10
sự hỗ trợ của Mỹ đã tiến hành nhiều biện pháp để ngăn trở cuộc Tổng tuyển
cử trong cả nước. Ngày 9/8/1955, chính quyền Ngô Đình Diệm chính thức
bác bỏ đề nghị của chính phủ VNDCCH về việc tổ chức Hội nghị hiệp
thương hai miền. Trong khi đó, phía VNDCCH vẫn luôn tôn trọng và
nghiêm chỉnh thi hành những điều khoản của Hiệp định Genève.
Việc thực hiện kế hoạch di cư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với
chính quyền VNCH vì họ sẽ bổ sung được một lực lượng đông đảo dân
chúng mộ đạo và tuyệt đối trung thành với chính quyền. Bên cạnh đó,
chính quyền Mỹ cũng từng bước hợp thức hóa sự có mặt của mình ở miền
Nam Việt Nam, thông qua đó gây ảnh hưởng lên chính quyền VNCH.
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến cuộc di cư năm 1954
Khi nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến cuộc di cư năm 1954,
chúng tôi thấy rằng cuộc di cư của người dân miền Bắc vào miền Nam có
thể tóm gọn trong một vài nguyên nhân chính yếu sau:
Thứ nhất, chính quyền Mỹ xem cuộc di cư là một phần quan trọng
trong chiến lược toàn cầu của mình, muốn biến miền Nam Việt Nam thành
căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới, phục vụ lợi ích và chiến lược toàn
cầu của Mỹ. Do đó chính quyền Mỹ đã ra sức giúp đỡ chính quyền VNCH
trong việc di chuyển dân chúng vào Nam. Theo chúng tôi, nếu không có sự
giúp đỡ này, cuộc di cư sẽ khó có thể có quy mô lớn và nhanh chóng như
vậy.
Thứ hai là sự tuyên truyền mạnh mẽ của chính quyền VNCH,
trong đó có những lời tuyên truyền bóp méo sự thật.
Thứ ba, vai trò quan trọng của Giáo hội và phản ứng của các vị
linh mục trước thời cuộc, đã có những tác động rất lớn đến quyết định nên
đi vào Nam hay không của giáo dân.
Thứ tư là phản ứng chậm trễ của chính quyền VNDCCH trước kế
hoạch di cư đồng bào Công giáo miền Bắc của Chính quyền VNCH.
Cuối cùng, dư âm của nạn đói, sự tàn phá của chiến tranh, nền
kinh tế khó khăn,… khiến một số người di cư vì muốn tìm đến nơi làm ăn
thuận lợi hơn. Đó là lý do mà trong cuộc di cư này không chỉ có người
Công giáo mà còn có bộ phận dân cư theo tôn giáo khác như Phật Giáo, Tin
Lành, người không có đạo,…
11
Tiểu kết chương 2
Có thể thấy rằng việc chính quyền Mỹ thành lập nên chính quyền
VNCH ở miền Nam Việt Nam là biểu hiện của cuộc cạnh tranh ý thức hệ,
Mỹ muốn ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan rộng ra khu vực Đông Nam Á nói
riêng và Châu Á nói chung. Mỹ mong muốn vươn rộng quyền lực chi phối
của mình ra toàn Đông Nam Á và Châu Á, vì thế miền Nam Việt Nam trở
nên rất quan trọng với Mỹ. Đó là lý do vì sao chính quyền Mỹ ủng hộ chính
quyền VNCH không thi hành Hiệp định Genève, bác bỏ cuộc tổng tuyển
cử, hỗ trợ và kêu gọi hỗ trợ về phương tiện, vật chất, tiền bạc,… từ các
nước đồng minh cho chính quyền VNCH.
Việc bác bỏ cuộc tổng tuyển cử và thực hiện thành công kế hoạch
di cư năm 1954 sẽ khiến cho miền Bắc mất đi một lượng dân trí thức, công
nhân có tay nghề, nguồn lao động trong nông nghiệp, thủ công nghiệp…
Từ đó sẽ xuất hiện hiện tượng xáo động, sản xuất sẽ giảm xuống, kinh tế
không ổn định… Những khó khăn này sẽ tác động mạnh mẽ đến tinh thần
đoàn kết giữa chính quyền VNDCCH và nhân dân Bắc Bộ.
Thứ nhất, gây ảnh hưởng chính trị xấu cho VNDCCH. Từ đó
tranh thủ dư luận quốc tế, chuẩn bị phá tổng tuyển cử, phá hoại việc thống
nhất Việt Nam.
Thứ hai, cuộc di cư nếu thành công sẽ bổ sung thêm nhân lực cho
quân đội VNCH và làm tăng dân số ở miền Nam, số dân tăng này là những
người trung thành với chính quyền, từ đó tạo nên sự vững chắc cho chính
quyền. Ngoài ra, họ còn góp phần vào việc khai hoang, phát triển sản xuất
ở miền Nam Việt Nam.
12
CHƯƠNG 3
DIỄN BIẾN CUỘC DI CƯ VÀ ĐỊNH CƯ CỦA ĐỒNG BÀO CÔNG
GIÁO MIỀN BẮC TẠI NAM BỘ TRONG GIAI ĐOẠN ĐẦU (19541956)
3.1. Kế hoạch di cư đồng bào miền Bắc vào miền Nam của Mỹ - Diệm
năm 1954
Chính quyền của Ngô Đình Diệm đã thiết kế một chương trình di
cư, với quy mô lớn, và đặt ra các thứ hạng ưu tiên trong cuộc di cư. Song
song đó Ngô Đình Diệm tính toán tới chiến lược cơ cấu nghề nghiệp dân
cư, vốn được xem là nền tảng để xây dựng một thể chế mới thân tín của
mình tại miền Nam. Chính vì vậy, tất cả đồng bào di cư vào Nam đều
được chính phủ miền Nam giúp đỡ: một là đưa đến tận nơi tạm trú; hai là
cho tạm trú lúc đầu; ba là cấp sinh hoạt phí trong một thời gian đầu; bốn là
tìm việc, cấp đất, làm giúp nhà ở, cấp phương tiện sản xuất. Cần nhấn
mạnh sự tổ chức nhẹ nhàng, gạt bỏ các thể lệ phiền phức, bãi bỏ thể lệ
cấm đoán thanh niên tản cư.
Qua chỉ thị của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, ta thấy rằng việc di cư
đồng bào Công giáo từ Bắc vào Nam có vai trò rất quan trọng đối với chính
quyền VNCH. Việc phân định ưu tiên về thành phần dân di cư là một minh
chứng.
Nếu so sánh lời Hiệu triệu với kế hoạch di cư của chính quyền
VNCH ta sẽ thấy có sự mâu thuẫn. Một mặt, bản Hiệu triệu kêu gọi sự ra đi
của toàn thể đồng bào miền Bắc, nhưng trong kế hoạch di cư thì lại phân
loại thành phần ưu tiên. Mục đích của việc làm này, theo chúng tôi, có lẽ là
chính quyền Ngô Đình Diệm muốn nhân cơ hội này tập trung, thu hút một
số đông những người có trình độ, có tay nghề, có tư tưởng trung thành với
chính quyền, làm suy yếu nguồn nhân lực của miền Bắc, gây cho miền Bắc
sự khó khăn về nhân lực trong quá trình hồi phục sau chiến tranh. Mặt
khác, chính quyền Ngô Đình Diệm có thêm một lực lượng chính trị trung
kiên, gắn quyền lợi với chính quyền VNCH, qua đó địa vị chính trị của
Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam được vững chắc hơn, tăng khả năng
đối trọng với chính quyền miền Bắc.
3.2. Diễn biến cuộc di cư năm 1954
Khi dân chúng ở khắp nơi đổ dồn về Hà Nội, Hải Dương, Hải
Phòng ngày một đông, với sự hỗ trợ của Mỹ, Pháp, Ủy ban bảo vệ Bắc Việt
phải tìm chỗ tạm cư cho người dân trong lúc chờ di cư, công việc này gặp
13
phải không ít khó khăn, vì trong một thời gian ngắn, dân đổ về quá nhiều.
Do đó họ đã chọn trường học để người dân có chỗ tạm trú. Những trại tiếp
cư tạm thời trong giai đoạn đầu khi đồng bào di chuyển đến Hà Nội, Hải
Phòng, Hải Dương để chờ di cư vào Nam là những khu lều vải được dựng
lên để những tốp người này có chỗ trú ngụ, hết tốp này đến tốp khác.
Chính sách kêu gọi và hứa hẹn của chính quyền VNCH, sự hỗ trợ
rất nhiều của Mỹ, Pháp và một số nước tham gia ký Hiệp định Genève,
cộng với tác động về kinh tế, chính trị, tôn giáo như đã trình bày ở chương
1 đã thúc đẩy người dân Công giáo miền Bắc đi đến quyết định di cư vào
Nam. Điều này cũng phản ánh cảnh tượng dân chúng từ nhiều nơi kéo về
tập trung ở Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng. Trong giai đoạn tiếp cư ở các
điểm tập kết để chuẩn bị vào Nam, công tác tổ chức còn nhiều yếu kém, bị
động, số lượng người dân kéo đến để di cư quá đông đã tạo ra một cảnh
tượng rất hỗn độn.
Chính quyền VNCH tổ chức nhiều hình thức di chuyển dân di cư
như: đường hàng không, đường biển, đường bộ. Chỉ riêng vận chuyển
đường bộ cũng đã tốn một khoản chi phí lớn, chưa kể các hình thức di
chuyển khác.
Xét đến lượng dân di cư cần vận chuyển, bản thân chính quyền
VNCH không thể đảm đương nổi chi phí khổng lồ trong thời gian chuyển
cư có hạn như vậy. Chính vì vậy, họ phải cầu viện sự giúp đỡ về vật chất,
tiền bạc và phương tiện của chính phủ Pháp và chính phủ Mỹ. Tổng cộng
số tiền viện trợ trong hai năm 1954 – 1955 là 6.363.600 USD và
189.034.000 USD.( Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa (1954 1963), Hồ sơ số 18961). Từ những con số trên, chúng ta có thể thấy rằng
chính quyền VNCH đã nhận được sự giúp đỡ rất lớn từ chính quyền Mỹ,
bên cạnh đó nước Pháp, Giáo hội Công Giáo Vatican và các nước đồng
minh của chính phủ Mỹ cũng có những sự hỗ trợ đáng kể. Và cũng qua con
số nói trên, ta có thể hiểu được rằng, trong cuộc di cư này Mỹ là nước hỗ
trợ chính về tiền của, vật chất, kỹ thuật cho chính quyền VNCH.
3.3. Tổ chức các trại tạm cư định hình các cộng đồng dân di cư tại khu
vực đô thị và lân cận (1954-1955)
3.3.1. Kế hoạch tổ chức các trại tạm cư
Trong thời gian tiếp nhận dân di cư Miền Bắc vào Nam, chính
quyền VNCH đã thiết lập các trại tạm cư trên đường đi Biên Hòa, Đà Lạt
14
và trong tỉnh Gia Định vì đây là những nơi có tính an ninh tương đối cao
cho chính quyền VNCH, mặc dù theo đánh giá của chính quyền thì những
nơi này vẫn bị xem là khu vực thiếu điều kiện vật chất cho việc sinh sống
ổn định. Số dân di cư vào Nam thời gian này tăng liên tục tính theo ngày.
Đến tháng 12/1955, số làng định cư được tính như sau: Tin Lành
có 3 làng, Phật Giáo có 18 làng và Công Giáo có 265 làng. Tổng cộng là
286 làng.
Giai đoạn đầu của cuộc di cư kéo dài từ 1954 – 1955. Trong thời
gian này, nhiệm vụ của phủ TUDCTN là tiếp đón người di cư mới đến và
di chuyển đồng bào đang chờ đợi tại Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh lỵ khác
đến các trại định cư, tùy theo điều kiện quân sự và chính trị lúc bấy giờ.
Khi di chuyển những đồng bào Bắc di cư này, chính quyền VNCH đã chia
theo nhóm nghề nghiệp và cho họ định cư ở những vùng có điều kiện thuận
lợi cho công cuộc mưu sinh lâu dài. Nhưng do số lượng người di cư vào
Nam quá đông, chính quyền VNCH đã phần nào bị động trong thời gian
đầu khi phân bố chỗ ở tạm cho dân di cư. Khi trù liệu được số người di cư,
họ sẽ có sự bố trí và tổ chức dân cư hợp lý hơn. Đó là lý do vì sao dân di cư
trong giai đoạn đầu tập trung ở một số địa điểm rất đông. Nội dung này sẽ
được làm rõ ở phần địa phương hóa các trại định cư.
3.3.2. Chính sách của chính quyền VNCH đối với người dân di
cư giai đoạn 1954-1955
Trong giai đoạn đầu, dân di cư bình thường theo kế hoạch của
chính quyền được chu cấp lương thực, đồ dùng và một ít tiền, còn công
chức và binh sĩ đã có lương và di cư theo sở, ngành thì những sở, ngành đó
có trách nhiệm lo cho họ về phương diện việc làm, đời sống, nơi ở. Do số
người di cư quá đông nên chính quyền VNCH tạm thời sử dụng các trường
học để làm nơi tiếp cư trong thời gian đầu.
Về sau, chính quyền VNCH dần ổn định và di chuyển dân về các
trại định cư để ổn định cuộc sống mới cho người dân di cư, về lâu dài, thiết
lập những làng di cư kết hợp và gắn kết với làng của người dân địa phương.
Giai đoạn này chính quyền VNCH bắt đầu xây dựng các công quán, trường
học, trạm y tế, đào giếng, phát hoang, làm đường… mục đích là từng bước
giúp người di cư ổn định cuộc sống và tiến đến tự lực mưu sinh.
Tóm lại, mặt dù chính quyền VNCH đã có nhiều chính sách hỗ trợ
cho đồng bào di cư, nhưng đời sống người dân di cư trong giai đoạn này đã
15
gặp rất nhiều khó khăn, túng quẫn, nghèo khổ, thiếu thốn, bệnh đau luôn
vây quanh họ. Thực tại mà họ đối mặt trong giai đoạn này hoàn toàn khác
với viễn cảnh tốt đẹp mà Ngô Đình Diệm đã tô vẽ nên. Dù nhà cầm quyền
hỗ trợ về mọi mặt nhưng họ vẫn cảm thấy bị bơ vơ nơi vùng đất mới, như
lời mô tả của ông Bùi Văn Lương “có nơi tuy bề ngoài sung túc nhưng thủy
thổ không hợp thành ra bị ma bệnh ám ảnh”.
3.3.3 Hoàn tất công cuộc di cư và định cư (1955 - 1956)
Giai đoạn kiện toàn cuộc di cư là bước đệm giữa giai đoạn di cư và
giai đoạn định cư lâu dài. Trong giai đoạn này, chính quyền phải có những
hành động cụ thể về cơ sở vật chất, tinh thần, quản lý hành chính công,…
nhằm đáp ứng công cuộc định cư lâu dài của một khối dân di cư lên đến
887.895 người (con số thống kê đến đầu tháng 7/1955, số dân có thể thay
đổi trong thời gian sau).
Ngoài việc ổn định tình hình dân cư, công cuộc xây dựng và hỗ trợ
người dân xây cất nhà, trường học, công tác y tế được thúc đẩy nhanh
chóng, song song đó là hỗ trợ tiền, công cụ lao động, khai hoang, gia súc,
gia cầm, con giống, hạt giống…
Tóm lại, trong giai đoạn kiện toàn các trại định cư, chính quyền
VNCH đã bước đầu ổn định cuộc sống cho một lượng lớn dân di cư. Trong
đợt này, họ đã đưa đi định cư thêm 136.149 người. Nếu cộng đợt 1 và đợt
2, số lượng đồng bào được định cư là 604.384 người trong tổng số 887.895
đồng bào di cư, chiếm tỷ lệ 68%.
Tất cả những hỗ trợ trên của chính quyền VNCH là nhằm mục đích
nhanh chóng ổn định đời sống người dân di cư.
3.3.4. Cơ cấu tổ chức hành chính trong trại định cư
Tổ chức hành chính công quyền trong các trại định cư có nhiệm vụ
quản lý các công việc công cộng, tổ chức đời sống, sinh hoạt và công việc
hành chính của dân di cư.
Bao gồm có: Ủy ban định cư địa điểm, Ủy ban hành chính, Ủy ban
Hỗ trợ Định cư.
Trong đó, ủy ban định cư có nhiệm vụ: thống kê dân số, kiểm tra,
lập danh sách gia đình và cá nhân, tổ chức tiếp tế sinh hoạt, tổ chức trật tự
an ninh, kiểm soát vệ sinh chung, kiến thiết các trại định cư, phân phát vật
liệu, tặng phẩm, đề xuất các nhu cầu của trại, việc tổ chức và điều hành các
16
trại định cư hoàn toàn do dân chúng đảm nhiệm. Trong thành phần của ủy
ban định cư trại không có một viên chức nào do chính quyền chỉ định. Chủ
tịch và hai đại diện đều là những người của cộng đồng và do chính dân
chúng trong trại bầu lên. Chính ủy ban định cư thu thập nhu cầu, nguyện
vọng của toàn thể dân chúng trong trại, đúc kết các nhu cầu, nguyện vọng
đó để lập bảng nhu cầu của trại. Tùy theo thứ tự ưu tiên, ủy ban định cư sẽ
giải quyết các nhu cầu này với sự đóng góp của chính người dân trong trại.
Đến năm 1955, khi cuộc di cư dân chúng từ Miền Bắc vào Nam về
cơ bản đã hoàn thành thì chính quyền VNCH mới bắt tay vào việc ổn định
đời sống dân di cư, thiết lập các cơ sở vật chất và tổ chức một hệ thống
quản lý tại các trại định cư. Sắc lệnh về tổ chức sự quản trị thôn xã năm
1955 do Ngô Đình Diệm ký đã đề ra một chương trình tổng quát quản lý
thôn xã ở trên toàn bộ lãnh thổ của VNCH là việc thành lập hội đồng
hương chính.
3.3.5. Công tác an ninh ở các trại định cư
Trong các trại định cư hình thành các “Ủy ban tự vệ”, các ủy ban
này có trách nhiệm giữ trật tự an ninh. Thành phần tham gia trong các ủy
ban này xuất thân từ nhiều thành phần, nhưng yêu cầu chung là phải trung
thành tuyệt đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Nhiệm vụ của họ là dò
xét cuộc sống của người dân trong địa bàn họ quản lý, mật báo và áp giải
lên chính quyền nếu họ cho rằng người đó có hành vi “mờ ám”, phạm pháp.
Và các thành viên trong các ủy ban này có quan hệ chặt chẽ với các chi khu
hoặc tiểu khu của quân đội. Như vậy, ủy ban tự vệ được thành lập với
nhiệm vụ là giữ trật tự an ninh trong các trại định cư, vừa hỗ trợ cho hội
đồng hương chính và ủy ban định cư giữ gìn các công sở, nhà cửa, tài sản,
của người dân trong trại định cư, vừa là cánh tay nối dài của nhà cầm quyền
trong việc kiểm soát vấn đề an ninh chính trị tại.
Tiểu kết chương 3
Nhìn chung, trong giai đoạn 1954 – 1955, mục tiêu của chính
quyền VNCH là ổn định đời sống dân di cư, tạo đà cơ bản cho bước chuyển
hướng sang giai đoạn định cư. Và họ đã thực hiện được những mục tiêu cơ
bản trong giai đoạn này: Thứ nhất, sắp xếp cho dân định cư ở những nơi
phù hợp với nghề nghiệp; Thứ hai, phân bố lượng dân số cho hợp lý; Thứ
ba, tiếp tục đưa những người còn lại đến những điểm định cư mới; Thứ tư,
xúc tiến việc xây cất nhà cửa; Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện cơ sở hành
chính công cộng, ổn định về xã hội, chính trị, kinh tế; Cuối cùng, tiếp tục
khuyến khích và thúc đẩy công cuộc “tự lực mưu sinh” nhằm giúp dân di
17
cư hòa nhập vào đời sống của người dân địa phương và trở thành một bộ
phận dân cư ở miền Nam Việt Nam. Sau giai đoạn kiện toàn công cuộc di
cư này là giai đoạn địa phương hóa đồng bào di cư kéo dài từ năm 1956
đến năm 1957 và định cư lâu dài đồng bào di cư trong các địa điểm dinh
điền kéo dài từ năm 1957 đến năm 1963, sẽ trình bày ở chương tiếp theo.
18
CHƯƠNG 4:
CHIẾN LƯỢC CỦA CHÍNH QUYỀN VNCH VỀ ĐỊA PHƯƠNG
HÓA, PHÂN BỔ DÂN DI CƯ VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI (19571963)
4.1. Chiến lược của chính quyền VNCH về địa phương hóa và phân bổ
dân cư
4.1.1. Chủ trương ổn định dân di cư
Chính quyền VNCH từ sau năm 1954 do Ngô Đình Diệm đứng đầu
cho rằng, việc phân bổ hợp lý dân di cư, không những tạo ra vành đai an
toàn bảo vệ quyền lực họ Ngô trước những đe dọa của các lực lượng, phe
phái chống đối trong chính quyền, mà còn là giải pháp quan trọng nhằm sử
dụng dân di cư kiềm chế, tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền
Nam. Bởi thành phần dân di cư, đa số là người theo Công giáo, có sự mâu
thuẫn với chủ nghĩa vô thần vốn là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Cộng
sản mà chính quyền VNDCCH theo đuổi lúc bấy giờ. Động cơ của đồng
bào Công giáo khi di cư vào Nam với hy vọng có nhiều cơ hội để “phụng
sự Thiên chúa”, xây dựng cuộc sống tốt đẹp, no đủ như lời hứa của Ngô
Đình Diệm vốn là người đồng đạo và được Mỹ hậu thuẫn.
Vấn đề đặt ra là với số lượng người di cư khá lớn, sẽ đặt ra bài toán
cho chính quyền VNCH cần phải tính đến như: bố trí khu vực định cư, hỗ
trợ ban đầu, giải quyết công ăn việc làm, đất canh tác, định hướng về mối
quan hệ với các khu vực dân cư đã có từ trước như thế nào?
Lúc đầu chính quyền VNCH xác định các vùng định cư là các vành
đai chiến lược có tác dụng bảo vệ Chính quyền và chống cách mạng. Hầu
hết các vùng này đều có điều kiện, thế mạnh về đất đai, khí hậu để phát
triển sản xuất nông nghiệp. Sau một thời gian triển khai, họ nhận thấy có
nhiều điểm cần bổ sung về chiến lược, do ngoài đối tượng lao động chính
là nông dân, thì học cũng cần phải chú ý đến thành phần lao động khác như
lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp. Hiện tượng
dân số miền Nam tăng đột biến đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi
đòi hỏi họ phải có sự điều chỉnh về chiến lược.
Từ những khó khăn trong thực tế, Chính quyền VNCH đề ra chủ
trương cải cách điền địa, đẩy mạnh khai hoang, chia ruộng đất, thực hiện
chính sách dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược …. Trong bối cảnh đó, các
vị linh mục và giáo dân di cư rất hưởng ứng việc xây dựng các địa điểm
- Xem thêm -