Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện tam bình, tỉnh vĩnh long hiện nay. th...

Tài liệu Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện tam bình, tỉnh vĩnh long hiện nay. thực trạng và giải phá

.PDF
41
378
85

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG HIỆN NAY. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành: SƯ PHẠM GIÁO DỤC CÔNG DÂN Mã ngành: 52140204 Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện: ThS. PHAN VĂN THẠNG MSSV: 6044647 CẦN THƠ - 2008 NGUYỄN THỊ MỘNG TUYỀN LỜI CẢM ƠN Được làm luận văn tốt nghiệp là sự mong muốn của rất nhiều sinh viên, trong đó có bản thân em. Tuy nhiên, để có thể hoàn thành tốt luận văn là cả một quá trình phấn đấu, phải mất rất nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu, đồng thời còn phải được sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn và khoa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời đầu tiên, em xin chân thành cám ơn khoa MácLênin, Tư tưởng Hồ CHí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành được đề tài luận văn của mình.Và đặc biệt, em xin chân thành cám ơn đến thầy Phan Văn Thạng đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian qua để em có thể hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cám ơn Phòng văn hóa thông tin – thể dục huyện Tam Bình, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em huyện Tam Bình, Mặt trận Tổ quốc huyện Tam Bình, đã cung cấp cho em những tài liệu quí báu để phục vụ cho đề tài luận văn của mình. Do trình độ còn giới hạn, nên khi thực hiện đề tài em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự hướng dẫn, đóng góp ý kiến của quí thầy cô, cùng các bạn, để các bài nghiên cứu của em sau này được hoàn chỉnh và tốt hơn. Cuối lời, em xin kính chúc quí thầy, cô cùng toàn thể các bạn luôn dồi dào sức khỏe, vui vẻ, hạnh phúc và thành đạt. Chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ MỘNG TUYỀN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài............................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài....................................................................2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ..................................................2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài ......................................2 5. Kết cấu luận văn ............................................................................................3 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG ..................................... 4 1.1. Quan điểm về gia đình và gia đình văn hóa ................................... 4 1.1.1. Khái niệm về gia đình và gia đình văn hóa.................................. 4 1.1.1.1. Khái niệm về gia đình........................................................... 5 1.1.1.2. Khái niệm về gia đình văn hóa ............................................... 1.1.2.Các tiêu chuẩn để xây dựng gia đình văn hoá ở huyện Tam Bình 7 1.1.2.1. Tiêu chuẩn gia đình văn hóa.................................................. 7 1.1.2.2. Cách chấm điểm gia đình văn hóa ......................................... 9 1.1.2.3. Quy định công nhận gia đình văn hóa................................. 13 1.2. Thực trạng về công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình trong thời gian qua.............................................................. 14 1.2.1. Tình hình đời sống gia đình ở huyện Tam Bình ........................ 14 1.2.2. Thực trạng về công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình ................................................................................. 18 1.2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình ........................................................ 18 1.2.2.2. Những hạn chế trong công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình.................................................................. 26 CHƯƠNG 2: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................... 31 2.1. Nâng cao nhận thức về gia đình văn hóa cho tầng lớp nhân dân trong huyện ................................................................................... 31 2.2. Từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các gia đình trong huyện ................................................................................... 34 2.3. Phát huy vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong công tác xây dựng gia đình văn hoá .................................... 40 2.4. Đẩy mạnh xã hội hoá trong việc xây dựng gia đình văn hoá ở huyện Tam Bình........................................................................................ 48 PHẦN KẾT LUẬN............................................................................... 52 TÀI LỆU THAM KHẢO..................................................................... 53 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Hiện nay, trong phạm vi cả nước nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hòa cùng không khí đó, huyện Tam Bình cũng tích cực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những biến đổi sâu sắc về kinh tế xã hội ở huyện Tam Bình đã góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, tạo cơ hội để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ, con người trong huyện được giải phóng và vai trò cá thể được đề cao. Đất nước đang trên đà phát triển mạnh mẽ và toàn diện, hòa cùng xu thế đó gia đình ngày nay càng có một vị trí đặc biệt hơn. Gia đình là tế bào của xã hội, là một trong các tổ chức cơ sở để thực hiện các chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước về tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị văn hóa, giáo dục, môi trường… Gia đình Việt Nam là một nhân tố quan trọng góp phần để phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Đối với xã hội Việt Nam gia đình bao giờ cũng gắn liền với xã hội, vì lẽ đó không thể có một xã hội phát triển nếu các gia đình bị suy sụp, khủng hoảng. Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “… nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt…” Xã hội đang trên đà phát triển mạnh mẽ và toàn diện đó là sơ sở để khẳng định gia đình Việt Nam cũng đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Tuy nhiên, hiện nay ở huyện Tam Bình vấn đề xây dựng gia đình văn hóa bên cạnh những thành tựu đã đạt được cũng còn gặp không ít những khó khăn như: nạn ly hôn, ly thân giữa các cặp vợ chồng, nạn bạo lực, cha mẹ thiếu trách nhiệm trong giáo dục con cái… cùng một số tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, ma túy… đã gia tăng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa của huyện. Đây là một hiện trạng khẩn thiết không chỉ đối với các cấp, các ngành mà còn đối với cá nhân và gia đình trong huyện. Cần phải có hướng khắc phục và giải quyết có hiệu quả. Đứng trước thực trạng đó, là một thành viên của huyện Tam Bình nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” để làm Luận văn Tốt nghiệp của mình. Nội dung chủ yếu là tìm hiểu công tác xây dựng gia đình văn hóa của huyện – kết quả đạt được bên cạnh một số hạn chế mắc phải. Từ đó đưa ra những giải pháp để công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình ngày càng đạt hiệu quả hơn, góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước cũng như nâng cao vị thế của gia đình trong xã hội. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: Đánh giá đúng thực trạng của Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng gia đình văn hóa của huyện trong thời gian sắp tới. Để đạt được mục đích trên, luận văn đã tập trung tìm hiểu các vấn đề về đời sống gia đình của huyện, đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng gia đình và đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn nghiên cứu vấn đề Công tác xây dựng gia đình văn hóa của huyện Tam Bình từ khi tỉnh Vĩnh Long thực hiện 01/TU của Ban Thường vụ tỉnh ủy về cuộc vận động “ Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ban hành ngày 10/09/1996. Trong đó tập trung nghiên cứu từ năm 2005 đến năm 2007. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài: Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, tư tưởng của Đảng cộng Sản Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện. Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: thống kê, so sánh, điều tra, logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp. 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo Luận văn gồm có: phần mở đầu, phần nội dung (trong đó gồm 6 tiết và 11 tiểu tiết), phần kết luận. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HOÁ Ở HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG 1.1 Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về gia đình 1.1.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về gia đình Bác Hồ luôn luôn nhắc nhở cán bộ, Đảng viên phải rất quan tâm đến gia đình, xác định mối quan hệ đúng đắn giữa tình nhà và nghĩa nước. Việc xây dựng gia đình văn hoá là một trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Đọc tác phẩm “Đời sống mới” của Bác Hồ, chúng ta thấy rõ cái nhìn biện chứng, sâu sắc trong việc xây dựng nếp sống mới. Người nói: Nếp sống mới không phủ nhận, bác bỏ hoàn toàn cái cũ và cũng không nhất thiết cái gì cũng làm mới. Cái mới không tự nhiên xuất hiện mà phải được kế thừa từ truyền thống. Còn cái gì xấu thì nhất quyết phải bỏ, có những cái cũ tuy không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Còn cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Người chỉ rõ việc xây dựng đời sống văn hóa mới phải kiên trì vận động quần chúng. Việc quan trọng phải có người làm gương, gia đình làm gương để mọi người làm theo… Chính vì vậy, cán bộ, Đảng viên đi vận động xây dựng đời sống văn hóa phải mất công sức và có nghệ thuật để vận động, làm cho dân hiểu rõ đời sống văn hóa đem lại hạnh phúc cho mọi người. Sinh thời, Bác Hồ từng khuyên bảo chúng ta: cưới hỏi, giỗ tết nên đơn giản, tiết kiệm... Vậy xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa nên bắt đầu từ những việc cụ thể. Ngày nay chúng ta đã và đang thực hiện một chủ trương lớn là: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Để đạt được mục tiêu cao cả này, mọi người cần phải ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để xây dựng con người có văn hóa, đạo đức, xây dựng gia đình văn hóa mới. Trong tác phẩm “Đời sống mới” Người chỉ rõ cách ứng xử giữa người và người “phải thành thật, thân ái, giúp đỡ”; trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như giữa vợ và chồng phải hòa thuận thương yêu nhau; con cái phải hiếu thảo với cha mẹ; đạo lý giữa mẹ chồng nàng dâu; rồi tình làng nghĩa xóm... Các mối quan hệ này đều cần phải phát huy những mặt tốt đẹp của đạo đức truyền thống đã ăn sâu vào nếp sống của từng gia đình Việt Nam. Những nội dung về nếp sống mới mà Bác Hồ đưa ra bao giờ cũng gắn với thực tế cuộc sống. Chúng ta phải nghiên cứu thật sâu để thực hiện nếp sống mới có hiệu quả thiết thực để mỗi người là một bông hoa đẹp, mỗi gia đình là một bó hoa tươi thắm, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp. Người khẳng định nhân dân là gốc và “nếu mọi người đều cố gắng làm đời sống mới, thì dân tộc ta nhất định sẽ phú cường”. 1.1.2. Quan điểm của Đảng ta về gia đình Ở nước ta, vấn đề gia đình đang được đặt ra với vị trí mang tầm chiến lược quốc gia. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Các chính sách của Nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận và tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người”. Việt Nam đang ở vào thời điểm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho nên việc xây dựng gia đình và củng cố gia đình ở nước ta cần phải quán triệt các quan điểm, Nghị quyết của Đảng như: vận dụng sáng tạo những định hướng chủ yếu xây dựng gia đình mới trong chủ nghĩa xã hội (gia đình mới của chủ nghĩa xã hội ra đời trên sự kế thừa những nét đẹp gia đình truyền thống, đồng thời tiếp thu những tiến bộ của thời đại về gia đình; thực hiện hôn nhân tiến bộ; các thành viên trong gia đình có quan hệ bình đẳng, thương yêu và có trách nhiệm với nhau, cùng chia sẻ, gánh vác công việc gia đình; trên cơ sở gia đình hòa thuận, cần xây dựng tốt các quan hệ với cộng đồng, tổ chức bên ngoài gia đình; đảm bảo quyền tự do ly hôn) vào việc thực hiện xây dựng gia đình ở nước ta. Thực chất xây dựng gia đình mới nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hướng tới hình thành con người mới Việt Nam với những đặc tính cao đẹp. Bởi thế, gia đình mới ở Việt Nam chính là gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa Việt Nam trên cơ sở giữ gìn và phát huy phong tục, tập quán tốt đẹp, xóa bỏ những cái lạc hậu, những tàn tích phong kiến của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, chống ảnh hưởng xấu của chế độ hôn nhân và gia đình tư sản, đồng thời biết tiếp thu những tiến bộ của văn hóa nhân loại. Quan điểm đó đã được các Đại hội của Đảng lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Nếu như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, đảm bảo sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình” [7, tr.29] Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng và Nhà nước ta lại khẳng định: “Xây dựng gia đình văn hóa mới có ý nghĩa rất quan trọng trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực lượng sản xuất vật chất, ổn định và cải thiện đời sống, thực hiện kế hoạch hóa dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo đức, văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người. Kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống có văn hóa” [7, tr.67] Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác, thực hiện tốt luật hôn nhân và gia đình, phát huy người tốt việc tốt. Hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đạị” [7, tr.125]. Trước mắt “ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc” chính là những chuẩn mực cần vươn tới của gia đình mới ở nước ta. Sự ấm no là kết quả của lao động cần cù, sáng tạo và chính đáng của gia đình. Sự bình đẳng vừa thể hiện dân chủ vừa đảm bảo tính nề nếp và hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình. Gia đình tiến bộ trên cơ sở sự tiến bộ của mọi thành viên và không tách rời sự tiến bộ chung của xã hội. No ấm, bình đẳng và tiến bộ tạo nên hạnh phúc cho gia đình. Gia đình hạnh phúc không phải là cái gì trừu tượng mà là tổng hòa những nét đẹp thường ngày của cuộc sống gia đình. Và, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Nâng cao trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hóa, làm cho gia đình thực sự là một tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” [7, tr.125], ngăn chặn việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng trong xã hội. Ngày 04 tháng 05 năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg chọn ngày 28 tháng 06 hàng năm làm NGÀY GIA ĐÌNH VIỆT NAM nhằm tôn vinh những giá trị truyền thống của văn hóa gia đình, đồng thời hướng tới xây dựng những chuẩn mực đạo đức, gia phong mới phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Việc tổ chức ngày Gia đình Việt Nam hàng năm, chứng tỏ Đảng ta, Nhà nước ta, dân tộc ta rất quan tâm tới việc tôn tạo những giá trị gia đình, nêu lên tầm quan trọng của gia đình trong quá trình phát triển đất nước, thực hiện tiến bộ xã hội. Đây chính là một trong những nhân tố cơ bản để phát triển xã hội và bảo tồn giá trị của nền văn hóa dân tộc một cách bền vững trong tiến trình hội nhập quốc tế. 1.2. Các tiêu chuẩn để xây dựng gia đình văn hoá ở huyện Tam Bình 1.2.1. Tiêu chuẩn gia đình văn hoá Gồm có 6 tiêu chuẩn: 1.Gia đình có nếp sống văn hoá, lành mạnh, tiến bộ: - Gia đình hoà thuận. - Vợ chồng chung thuỷ. - Ông bà, cha mẹ mẫu mực. - Con cháu hiếu thảo. - Trẻ em trong độ tuổi đều đi học. - Đoàn kết tốt với xóm giềng. 2. Gia đình có đời sống ổn định, kinh tế phát triển: - Mọi người trong độ tuổi lao động đều chí thú làm ăn, có việc làm ổn định. - Gia đình thoát nghèo. - Đoàn kết giúp nhau thoát nghèo. - Đóng góp xây dựng công trình công cộng. 3. Xây dựng gia đình an toàn: - Làm tròn nghĩa vụ công dân theo qui định của pháp luật. - Chấp hành nghiêm trật tự an toàn giao thông. - Không vi phạm tệ nạn xã hội. - Không vi phạm pháp luật. - Có đăng ký tạm trú, tạm vắng, trẻ có khai sinh. - Tham dự đầy đủ các cuộc họp do tổ nhân dân tự quản và ấp, khóm mời. 4. Xây dựng gia đình sức khoẻ: - Không mắc các bệnh truyền nhiễm, không nghiện rượu, thuốc lá. - Trẻ sơ sinh đến năm tuổi được tiêm chủng đủ liều và không bị suy dinh dưỡng. - Không để ngộ độc, cháy nổ, tai nạn khác… - Phụ nữ có thai được khám và tiêm chủng đầy đủ. - Không sinh con thứ 3. - Có đủ ba công trình (nước sạch, nhà tắm, hố tiêu hợp vệ sinh). 5. Xây dựng gia đình xanh, sạch, đẹp: - Nhà lót gạch, có điện sử dụng. - Quanh nhà vệ sinh sạch, thoáng mát. - Có hàng rào, cột cờ, khẩu hiệu, bảng hiệu theo qui định. 6. Tham gia hoạt động đoàn thể: Mỗi thành viên trong hộ tham gia ít nhất 1 đoàn thể hoặc tổ chức xã hội. 1.2.2. Cách chấm điểm gia đình văn hoá Gồm có 6 tiêu chuẩn và chấm 100 điểm 1. Gia đình có nếp sống văn hoá, lành mạnh, tiến bộ. (20 điểm) - Gia đình hoà thuận: các thành viên trong hộ đều yêu thương, chăm sóc cho nhau trong sinh hoạt và đời sống. - Vợ chồng chung thuỷ: chỉ một vợ một chồng sống hạnh phúc. - Ông bà, cha mẹ mẫu mực: làm gương cho con cháu trong sinh hoạt và đời sống. - Con cháu hiếu thảo: tôn kính ông bà, cha mẹ và chăm sóc, nuôi dưỡng họ đến cuối đời. - Trẻ em trong độ tuổi từ 6 đến 14 đều đi học. - Đoàn kết tốt với xóm giềng: các thành viên trong hộ không gây gỗ, xích mích với bà con lối xóm và sẵn sàng giúp đõ nhau khi có hữu sự. Cách tính điểm: Có một trường hợp vi phạm trừ 2 điểm tính dài lên. Ví dụ: Có một thành viên trong hộ không hoà thuận trừ 2 điểm, có một trường hợp vợ hoặc chồng không chung thủy trừ 2 điểm, có một trường hợp trẻ trong độ tuổi chưa đến trường trừ 2 điểm… 2. Gia đình có đời sống ổn định, kinh tế phát triển. (20 điểm) - Mọi người trong độ tuổi lao động: nam từ 18 đến 60, nữ từ 18 đến 55 tuổi đều có việc làm ổn định và chí thú làm ăn (trừ người tàn tật, bệnh). + Việc làm ổn định: có việc làm thường xuyên, ít nhất trong tháng từ 15 ngày trở lên. + Chí thú làm ăn: hăng say lao động sản xuất, đảm bảo cuộc sống. - Gia đình vươn lên thoát nghèo (không còn sổ hộ nghèo). - Đoàn kết giúp nhau trong tổ, trong ấp, khóm thoát nghèo. Nếu trong tổ nhân dân tự quản, trong ấp, khóm còn hộ nghèo, tuỳ điêu kiện mà giúp hộ nghèo về phương án làm ăn, cây con giống, hỗ trợ tiền vốn… khi được tổ chức vận động. - Đóng góp xây dựng công trình công cộng: Tuỳ điều kiện của hộ mà đóng góp tiền, vật tư hoặc ngày công lao động vào việc xây dựng cầu, đường, trường, trạm… khi được tổ chức vận động. Cách tính điểm: Có một trường hợp vi phạm trừ 2 điểm tính dài lên. Ví dụ: Có một trường hợp chưa có việc làm ổn định trừ 2 điểm, có một trường hợp không chí thú làm ăn trừ 2 điểm, hộ không có tinh thần giúp hộ nghèo trừ 2 điểm… Riêng, ở trường hợp hộ còn sổ nghèo trừ 3 điểm; trường hợp đoàn kết giúp nhau trong tổ, ấp, khóm thoát nghèo và trường hợp đóng góp xây dựng công trình công cộng: hộ nghèo không bị trừ điểm. 3. Xây dựng gia đình an toàn. (30 điểm) - Làm tròn các nghĩa vụ: nộp thuế, quân sự, lao động công ích, cùng các nghĩa vụ khác theo qui định của chính quyền địa phương. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo qui định. - Chấp hành nghiêm trật tự an toàn giao thông: chấp hành tốt các qui định về an toàn giao thông, khi tham gia giao thông: xe phải có giấy chủ quyền, kèn, đèn, thắng, đội nón bảo hiểm và bằng lái xe theo qui định… - Không vi phạm tệ nạn xã hội như: tiêm chích ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan, đánh bạc dưới mọi hình thức - Không vi phạm tệ nạn xã hội như: mua bán tàng trữ ma tuý, chức hoặc môi giới mại dâm, trộm cướp, giết người, gây thương tích người khác, lừa đảo, gây rối thầu đề, giựt nợ, tàng trữ mua bán văn hoá phẩm Nhà nước cấm… - Có đăng ký tạm trú, tạm vắng, trẻ có sơ sinh. - Tham dự đầy đủ các cuộc họp do tổ nhân dân tự quản và đoàn thể hoặc ấp, khóm mời (đảm bảo mỗi quí họp tổ nhân dân tự quản một lần và họp đột xuất do tổ chức hoặc ấp, khóm mời). Cách tính điểm: Có một trường vi phạm trừ 2 điểm tính dài lên. Ví dụ: Hộ không nộp thuế đầy đủ theo qui định trừ 2 điểm, có một người tiêm chích ma túy trừ 2 điểm, một lần không họp tổ tự quản trừ 2 điểm, một trẻ em không khai sinh theo qui định trừ 2 điểm… Riêng nội dung 4, tùy mức độ mà trừ từ 2 điểm đến năm điểm cho mỗi trường hợp. Nếu hộ gia đình vắng họp có lý do, có tự chấm điểm và gởi sổ lại cho Tổ trưởng trong quí thì không phải bị trừ điểm (trong năm không được vắng quá 2 lần), không có lý do, không gởi sổ trừ 2 điểm. (Hộ gia đình an toàn phải đạt đủ 28 điểm, do Công an cấp xã chứng nhận hàng năm). 4. Xây dựng gia đình sức khỏe (15 điểm) Gồm 6 nội dung: - Không mắc các bệnh truyền nhiễm do thiếu ý thức phòng bệnh (sốt xuất huyết, tả, lỵ, thương hàn, viêm nảo, cúm gia cầm…) và không nghiện rượu, thuốc lá. - Trẻ sơ sinh đến 5 tuổi được tiêm chủng đủ liều và không bị suy dinh dưỡng. - Không xảy ra ngộ độc thực phẩm, thuốc trừ sâu, không để cháy nổ, điện giật, chết đuối… (chỉ tính trường hợp chủ quan do bản thân gây ra). - Phụ nữ có thay được khám, tiêm chủng đầy đủ theo qui định của y tế. - Không sinh con thứ 3. - Có đủ 3 công trình vệ sinh (nước sạch, nhà tắm, hố tiêu hợp vệ sinh). Cách tính điểm: Có một trường hợp vi phạm trừ 2 điểm tính dài lên. Ví dụ: Có một trẻ không tiêm chủng đủ liều trừ 2 điểm, có một người uống thuốc tự tử trừ 2 điểm, hộ thiếu nước sạch trừ 2 điểm, có một người nghiện rượu, thuốc lá trừ 2 điểm. (Hộ gia đình sức khỏe phải đủ 13 điểm và do trạm y tế cấp xã kiểm tra cấp giấy công nhận hàng năm). 5. Xây dựng gia đình xanh, sạch, đẹp: (10 điểm) Có 3 nội dung: - Nhà có lót gạch, có điện sử dụng. - Quanh nhà thoáng mát, không ao tù, nước động, cỏ rác hôi thối, ô nhiểm môi trừơng xung quanh - Có hàng rào bằng cây xanh hoặc vật liệu khác (nơi có điều kiện), cột cờ, khẩu hiệu, bảng hiệu theo qui định. Cách tính điểm: Có một trường hợp không đạt trừ 2 điểm tính dài lên. Ví dụ: Nhà không có điện trừ 2 điểm, không lót gạch trừ 2 điểm,… (Hộ gia đình đạt xanh, sạch, đẹp đạt đủ 8 điểm do Hội người cao tuổi cấp xã chứng nhận hàng năm). 6. Tham gia hoạt động đoàn thể và hoạt động xã hội: (5 điểm) Mỗi thành viên trong hộ từ 18 tuổi trở lên tham gia ít nhất một đoàn thể hoặc tổ chức xã hội (trừ người tàn tật, già yếu, mất sức lao động…) Đoàn thể và các tổ chức xã hội gồm: Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ, Hội Sinh Vật Cảnh, Hội Khuyến học, Hội Thân nhân kiều bào, Hội Đông y… Cách tính điểm: Có một thanh niên trong hộ không tham gia vào đoàn thể hoặc tổ chức xã hội trừ 1 điểm tính dài lên (tham gia một tổ chức đoàn thể hoặc một tổ chức xã hội ở trên là được, tham gia nhiều càng tốt). 1.2.3. Quy định công nhận gia đình văn hóa Tiêu chuẩn công nhận: - Hộ gia đình văn hóa: đạt từ 95 điểm trở lên. - Hộ gia đình tiên tiến: đạt từ 90 điểm đến dưới 95 điểm. Hộ gia đình văn hóa và tiên tiến không có người vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội (dù đủ điểm cũng không được công nhận). Phân cấp công nhận: - Hộ gia đình văn hóa, tiên tiến hàng năm do Ủy ban Nhân dân cấp xã công nhận. - Hộ gia đình văn hóa 5 năm, 10 năm do ủy ban Nhân dân cấp huyện công nhận. Khẩu hiệu thực hiện xây dựng hộ gia đình: Số nhà ……….. Tổ NDTQ: ………. Quyết tâm xây dựng gia đình văn hóa 0,2m 0,2m 0,2m (nền xanh, chữ trắng) Gia đình văn hóa 1m Gia đình tiên tiến (nền xanh, chữ trắng) (nền đỏ, chữ vàng) 0,3m 0,3m 1.3. Đời sống gia đình và công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình trong thời gian qua 1.3.1. Thực trạng về đời sống gia đình ở huyện Tam Bình Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục con người, là nơi bảo tồn và phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đồng thời gia đình cũng là nơi chống lại các tệ nạn xã hội và tạo ra nguồn nhân lực to lớn góp phần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo điều tra, huyện Tam Bình hiện nay có 34.012 hộ gia đình, với tổng dân số khoảng 144.211 người (31/12/2006) được phân bố ở 17 xã, thị trấn trong huyện. Trước đây, nếu kết cấu gia đình truyền thống (gia đình nhiều thế hệ) ở huyện Tam Bình chiếm qui mô lớn, thì trong những năm gần đây dưới tác động của chính sách dân số mô hình gia đình ở huyện Tam Bình hiện nay đang dần phù hợp với hướng phát triển của xã hội. Gia đình hai thế hệ chiếm khoảng 2/3 tổng số gia đình trong toàn huyện, gia đình ba thế hệ trở lên chiếm dưới 25%. Qui mô trung bình của hộ gia đình là 4,24 người /hộ, tỉ lệ gia đình có từ 3 – 4 người chiếm 49,65%. Đặc biệt vào những năm đổi mới với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về lĩnh vực kinh tế thì quá trình hạt nhân hóa ở huyện Tam Bình diễn ra khá mạnh mẽ. Điều này đã trở thành một xu thế chắc chắn không chỉ trong các vùng đồng bằng như huyện Tam Bình mà ngay cả ở đô thị, các dân tộc đa số và ngay cả một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, tỉ lệ gia đình hạt nhân ở người Mông tỉnh Lào Cai chiếm 80,6%, ở các xã thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, kể cả các vùng ít chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa tỉ lệ này là 80%, ở thành phố Hồ Chí Minh là 76,6%, vùng nông thôn Quảng Trị và Thái Bình đều chiếm 64,4%. Số liệu trên cho thấy cấu trúc gia đình ít thế hệ hiện đã chiếm một tỉ lệ rất lớn không những ở khu vực huyện Tam Bình mà ngay cả trên toàn quốc. Sự tăng giảm số lượng thành viên trung bình trong hộ gia đình được qui định bởi mức sinh, tử và quá trình nhập hay tách hộ, nhất là khi con cái lập gia đình thường sống tách khỏi bố mẹ. Ngoài ra do tuổi kết hôn trung bình tăng lên cũng như tăng số người sống độc thân đã làm giảm số nhân khẩu bình quân trong gia đình , thu nhỏ qui mô trong gia đình. Trong gia đình hạt nhân ở huyện Tam Bình, đôi vợ chồng có toàn quyền quyết định cuộc sống, song xu hướng truyền thống không vì thế mà bị xem nhẹ, trái lại vẫn tiếp tục được tôn trọng, đó là, con cái có nhu cầu được ở gần cha mẹ, ông bà để các thế hệ giúp đỡ lẫn nhau, gần gũi hơn về mặt tình cảm. Do vậy, ở huyện Tam Bình phần đông người già vẫn được con cái chăm sóc chu đáo và không phải vào viện dưỡng lão như ở một số nước phương Tây hay ở một số thành phố lớn trong nước. Chính cuộc sống gần gũi giữa trẻ và già đã giúp trẻ em trong huyện được cha mẹ, ông bà chăm sóc đỡ đần và người già khi cao tuổi không cảm thấy bị cô đơn, thiếu người phụng dưỡng. Cũng chính vì vậy mà nhiều người nghiên cứu cho rằng, trong gia đình nhiều thế hệ ở huyện Tam Bình ngày nay có nhiều điểm ngày càng khác với loại hình nhiều thế hệ trong lịch sử. Và gia đình hạt nhân ở huyện Tam Bình cũng khác gia đình hạt nhân ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây. Kết cấu và qui mô của gia đình trong huyện Tam bình hiện nay phản ánh sự biến đổi của hình thức gia đình vừa giữ gìn được bản sắc riêng, tích cực của gia đình truyền thống, vừa kết hợp với tính chất hiện đại của gia đình mới phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội trong quá trình đổi mới. Về kinh tế, nguồn sống chính của phần lớn gia đình ở huyện Tam Bình hiện vẫn còn chủ yếu dựa vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, chiếm khoảng 60% GDP của huyện và đã từng bước được đầu tư phát triển về vốn, khoa học kỹ thuật theo hướng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Vì vậy mà năng suất và chất lượng sản phẩm không ngừng được tăng lên. Bên cạnh đó còn có sự chuyển dịch sang tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ, đây là những yếu tố quan trọng góp phần nâng cao thu nhập gia đình. Do qui mô gia đình có xu hướng thu hẹp lại, thu nhập được cải thiện nên mức sống trong từng gia đình được nâng lên rõ rệt (thu nhập bình quân hàng tháng của một nhân khẩu từ 556.000 đồng tăng lên 719.000 đồng, tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 18,35% xuống còn 11,67% (năm 2007). Nhiều gia đình bắt đầu chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần thông qua việc xây dựng nhà ở kiên cố hơn, các phương tiện sinh hoạt trong gia đình cũng được mua sắm trang bị nhiều hơn (tivi, tủ lạnh, máy giặt, xe máy…) để phục vụ cho cuộc sống gia đình. Khi đời sống được nâng lên thì sự quan tâm về sức khỏe, học tập, thỏa mãn các nhu cầu về tình cảm – tinh thần của từng thành viên cũng được nâng lên. Từ đó người dân sẽ tham gia tích cực, hưởng ứng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do các tổ chức chính trị, đoàn thể, chính quyền các cấp khởi xướng. Do đó, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển ở cả nông thôn và thành thị. Bên cạnh đó, năng lực xã hội của từng cá nhân cũng được nâng lên. Đặc biệt ý thức tôn trọng, chấp hành tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, của cá nhân, gia đình đã tạo sự ổn định về mặt kinh tế - chính trị - xã hội - an ninh - quốc phòng, là cơ sở vững chắc để củng cố và phát triển gia đình. Tuy nhiên, trong bối cảnh ngày càng có nhiều gia đình mức sống được cải thiện, nâng cao, thì cũng còn không ít những gia đình đời sống còn gặp nhiều khó khăn. Nếu tính theo chỉ số của Ngân hàng thế giới về sử dụng mức chi tiêu cần thiết để đạt 2.100 calo cho một người trong một ngày, thì, ở huyện Tam Bình hiện nay 2,72% dân cư sống dưới mức nghèo khổ, trong đó tập trung nhiều nhất là ở khu vực nông thôn. Sự khác biệt đó không chỉ ở những gia đình giữa các vùng khác nhau mà còn có sự khác biệt lớn giữa gia đình người kinh và gia đình người dân tộc. Trong cả nước thì các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 25,9% lượng hộ nghèo cả nước. Thu nhập của các hộ gia đình trong huyện tuy có khá hơn trước nhưng chưa phải là cao, cơ cấu thu nhập chuyển biến chậm và mức chênh lệch thu nhập giữa các nhóm, vùng có xu hướng gia tăng. Nếu lấy thu nhập bình quân của một người trong tháng ở nông thôn là 1 thì thu nhập của người ở thị trấn (thành thị) gấp 2,55 lần. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do thu nhập ở khu vực nông thôn chủ yếu là nông nghiệp. Tốc độ gia tăng của sản xuất nông nghiệp thường chỉ bằng 1/3 đến 1/2 tốc độ tăng của công nghiệp, xây dựng và dịch vụ là những ngành sản xuất, kinh doanh tập trung ở khu vực thành thị. Việc vận dụng tăng thu nhập vào mục đích phát triển kinh tế hộ gia đình còn hạn chế. Các yếu tố khách quan như thị trường không ổn định, thiên tai, dịch bệnh… thường xuyên xảy ra đã tác động không nhỏ đến việc sản xuất của người dân, đến việc thực hiện chức năng kinh tế của gia đình. Khi nền kinh tế phát triển, thay đổi về cơ cấu sản xuất và điều kiện lao động cũng có ảnh hưởng nhất định đến các mối quan hệ truyền thống và sự bền vững của gia đình. Mối quan hệ vợ chồng của một số gia đình có nguy cơ bị phá vỡ do họ thiếu sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, con cái thiếu tôn kính đối với cha mẹ, có tâm lý ỷ lại, thích đua đòi, thích hưởng thụ do cha mẹ thiếu quan tâm, thiếu phương pháp giáo dục đúng đắn. Đây cũng chính là môi trường thuận lợi cho các tệ nạn xã hội có cơ hội thâm nhập vào gia đình. Bên cạnh đó, việc bình đẳng giới chưa được xã hội quan tâm và nhận thức đầy đủ, tư tưởng “gia trưởng”, “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng huyện Tam Bình. Theo Hội liên hiệp phụ nữ huyện Tam Bình, bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở những vùng nông thôn, trong những gia đình có trình độ học vấn thấp, đông con, kinh tế khó khăn, mà ngay cả trong một số gia đình trí thức, công chức, viên chức bạo lực gia đình cũng xảy ra. Tình trạng bạo lực trong gia đình, nhất là bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em vẫn còn xảy ra đã gây nên bức xúc trong dư luận xã hội. Ngoài ra tình trạng vi phạm pháp luật như: trộm cắp, cướp giật, mê tín dị đoan, cờ bạc… gây mất trật tự cũng là những vấn đề đặt ra hết sức gay gắt cho các cấp, các ngành. Với tâm lý muốn sinh nhiều con để có con trai nối dõi tông đường vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng trong huyện Tam Bình. Nhiều gia đình sinh con đông không đủ khả năng nuôi dạy con, con cái bị thất học hay phải nghỉ học sớm, ngược lại, cũng không ít gia đình tuy sinh ít con nhưng cha mẹ lại buông lỏng quản lý do chỉ chú tâm đến việc làm kinh tế cho gia đình, thiếu sự quan tâm giáo dục toàn diện dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ học, làm ảnh hưởng đến mục tiêu nâng cao chất lượng dân số và phát triển nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tình trạng nam nữ sống chung không có đăng ký kết hôn, quan hệ tình dục trước hôn nhân, trẻ em và người già bị bỏ rơi không có người thân chăm sóc luôn để lại những hậu quả nặng nề cho gia đình, khiến cho xã hội phải băn khoăn lo lắng. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài có xu hướng gia tăng. Tình trạng suy thoái về đạo đức, tha hóa trong lối sống như chạy theo đồng tiền, ảnh hưởng bởi tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng, đề cao tự do cá nhân dẫn đến gia đình tan vỡ, tác động tiêu cực đến xã hội. Đó chính là những thách thức to lớn trong việc xây dựng gia đình. 1.3.2. Công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình 1.3.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác xây dựng gia đình văn hóa ở huyện Tam Bình Gia đình là tế bào, đơn vị nhỏ nhất của xã hội, là nền tảng của xã hội. Từng gia đình khỏe mạnh, giàu có, văn minh thì cả ấp, cả xã, và toàn xã hội khỏe mạnh, giàu có, văn minh. Xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng từng tế bào của xã hội, làm cho từng tế bào khỏe mạnh thì cơ thể xã hội mới khỏe mạnh. Muốn xây dựng gia đình văn hóa thì xây dựng từng con người trong trong gia đình có văn hóa. Bác Hồ đã dạy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Từ những ý nghĩa trên, ta thấy rằng, việc xây dựng gia đình văn hóa là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, rất khó khăn, phải làm kiên trì liên tục và sử dụng lực lượng tổng hợp cả Đảng viên, cán bộ Nhà nước, Đoàn viên, Hội viên các đoàn thể chính trị, xã hội mới thành công. Tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và nếp sống văn minh nơi công cộng” theo đề cương sửa đổi, bổ sung của Ban chỉ đạo 01/TU tỉnh đầu năm 2006 và nội dung điều chỉnh bổ sung ngày 01/06/2007 nhằm ngày càng nâng cao chất lượng cuộc vận động đi vào chiều sâu. Xác định được mục tiêu, nhiệm vụ Ban chỉ đạo 01/TU huyện, các xã – thị trấn và Ban vận động 01/TU các địa phương tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc vận động, nhất là xây dựng hộ gia đình Văn hóa theo tiêu chí mới. Cuộc vận động này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và được các cấp, các ngành, các đoàn thể từ huyện đến cơ sở và quần chúng nhân dân nhiệt tình, đồng tình hưởng ứng, hoạt động này càng đi vào nề nếp và thực sự có hiệu quả, làm thay đổi bộ mặt nông thôn Tam Bình. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa, trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của các cấp Ủy Đảng từ trung ương đến cơ sở, Tam Bình đã tích cực xây dựng gia đình văn hóa theo các tiêu chí cụ thể: ấm no, hòa thuận, hạnh phúc, tiến bộ, chấp hành tốt các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các qui định của địa phương. Hàng năm, Ban vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng gia đình văn hóa” cùng các thành viên là trưởng, phó ban ngành, đoàn thể của huyện đã thường xuyên chỉ đạo việc tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức tới các đối tượng của Đảng, cơ quan của Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức xã hội và từng người dân trong huyện cùng nhau xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh – gia đình văn hóa. Đây là cuộc vận động thường xuyên, liên tục và việc xây dựng gia đình văn hóa cũng là một tiêu chuẩn bắt buộc trong việc xét đạt danh hiệu ấp – khóm văn hóa. Công tác tuyên truyền được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân. Đến nay, huyện Tam Bình đã tổ chức tuyên truyền sâu rộng về nội dung, ý nghĩa, tầm quan trọng của phong trào xây dựng gia đình văn hóa tới toàn thể nhân dân bằng các hình thức: thông qua các buổi sinh hoạt của các tổ chức đoàn thể, các hoạt động văn nghệ, phát thanh truyền hình, cùng các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là vai trò của Ban vận động khóm, ấp và tổ an ninh tự quản với phương thức “mưa dầm thấm lâu”, “đi từng ngõ, gõ từng nhà” quan tâm động viên tạo mọi điều kiện cho nhân dân phấn đấu đạt gia đình văn hóa, làm cho cuộc vận động đến với từng người, từng nhà và dần dần trở thành nếp sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống cộng đồng. Nội dung xây dựng gia đình văn hóa cũng được triển khai thường xuyên thông qua hoạt động tích cực của tổ nhân dân tự quản, các câu lạc bộ không sinh con thứ ba, phụ nữ giúp nhau làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, câu lạc bộ gia đình nông dân văn hóa, thanh niên với hạnh phúc gia đình. Từ khi phong trào xây dựng gia đình văn hóa, ấp văn hóa, khu phố văn hóa ở Tam Bình phát triển mạnh, từng bước đi vào nội dung, chất lượng, đã tạo cho đời sống văn hóa Tam Bình khởi sắc, phát triển trên nền tảng kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, tỉ lệ hộ giàu ngày càng tăng lên, tỉ lệ hộ nghèo ngày càng giảm xuống. Kết quả phong trào quần chúng nhân dân tham gia thực hiện các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh: Chương trình giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa: Cuộc vận động đã khơi dậy truyền thống đoàn kết nhân ái, thuỷ chung tình làng nghĩa xóm, tạo thêm nhiều tấm gương về người tốt việc tốt. Kết quả nổi bật do tác động của cuộc vận động ấy là do tác động của cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa, thực hiện chính sách xã hội giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Các hoạt động này không chỉ giúp về ăn, mặc, ở, xây dựng nhà tình nghĩa, thực hiện xoá đói giảm nghèo đối với các gia đình chính sách, mà còn giúp đỡ nhiều về văn hoá tinh thần. Thực hiện mục tiêu nhiệm vụ năm 2007 được các ngành, các cấp tập trung tổ chức các phong trào vận động trong các tầng lớp nhân dân kết hợp cuộc vận động huy động từ nhiều nguồn vốn trong năm trên 34,8 tỷ đồng giúp vốn cho hộ nghèo; giải quyết việc làm cho 7.064 lao động; xây dựng mới 134 căn nhà tình nghĩa, sửa chữa 6 căn; tặng 6 sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách; hoàn thành cơ bản việc xây nhà tình nghĩa cho hộ gia đình chính sách ở 13/17 xã, thị trấn, và có 73/132 ấp khóm không còn hộ gia đình chính sách nghèo; vận động các nhà hảo tâm, các tổ chức tôn giáo cứu hộ thường xuyên và đột xuất cho 5.973 hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn... Từ những việc làm thiết thực trong năm đã xoá được1.496 hộ nghèo, góp phần giảm tỉ lệ hộ nghèo toàn huyện từ 18,35% (6.386 hộ năm 2006) xuống đến nay còn 11,67% (hiện còn 4.233 hộ). Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng: Là mục tiêu trọng tâm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, được các ngành, các cấp và nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia như: phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, điện, trường học, trạm y tế... Trong năm với phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm đã tiến hành xây dựng và đưa vào sử dụng 38 tuyến giao thông nông thôn với 35.254 mét, 10 cây cầu, nâng đến nay toàn huyện có 132/132 ấp, khóm có đường giao thông liên ấp thông xe hai mùa (trong đó có 127 ấp, khóm 100% dal, đá và 15 ấp, khóm đạt 50% dal, đá). Về thuỷ lợi, thi công và nạo vết nâng cấp 64 công trình thuỷ lợi bằng 69.391 mét, tiến hành gia khoán đê bao 16/16 xã, đến nay có 132/132 ấp, khóm đảm bảo thuỷ lợi phục vụ 100% diện tích sản xuất. Về cơ sở vật chất dạy và học, luôn được quan tâm đầu tư xây dựng 90 phòng học , nâng đến nay toàn huyện có 722/755 phòng học được kiên cố chiếm tỉ lệ 95,63% (còn 14 phòng tre lá, 19 phòng mượn). Về điện, trong năm đã phát triển mới 410 hộ có điện sử dụng, nâng đến nay số hộ toàn huyện có điện sử dụng đạt 97,14% (35.240 hộ). Ngoài ra, huyện còn tiến hành đầu tư xây dựng phát triển điện và nước sạch ở 11/11 tuyến dân cư vượt lũ cho 1.655 hộ có điện và nước sạch. Chương trình văn hoá-xã hội và trật tự an toàn: Nội dung cuộc vận động được bổ sung sửa đổi thêm vào các tiêu chuẩn xây dựng hộ gia đình, tổ, ấp, khóm an toàn, sức khoẻ, xanh, sạch, đẹp đã tạo được sự chuyển biến tích cực trên địa bàn khu dân cư. Kết quả tình hình an ninh chính trị tiếp tục được ổn định, trật tự an toàn xã hội được kéo giảm 45 vụ so với cùng kỳ (trong năm xảy ra 97 vụ). Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được quan tâm và nâng cao chất lượng, trên địa bàn không xảy ra dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm.Theo kết quả báo cáo của các xã, thị trấn có 89/132 khu dân cư đảm bảo an toàn giao thông, 98 khu dân cư không còn tệ nạn xã hội, 110 khu dân cư không có người vi phạm pháp luật. Về lĩnh vực văn hoá: đầu tư xây dựng nhà văn hoá xã Mỹ Lộc, tu sửa sân bóng đá huyện, củng cố chính sách các ấp, khóm, nâng cao hoạt động các trạm truyền thông xã, ấp đảm bảo hoạt động phục vụ tốt cho cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khoá XII. Hiện nay có 62/132 khu dân cư có phòng đọc sách hoạt động, có 86/132 khu dân cư có sân thể dục thể thao. Về xây dựng thực lực chính trị: Từ phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư và xây dựng nếp sống văn minh nơi công cộng đã tạo cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên và nhân dân không ngừng nâng cao nhận thức về chính trị, thông hiểu về luật pháp. Mặt trận và các đoàn thể từng bước đổi mới phương thức vận động quần chúng, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch vững mạnh. Kết quả trong năm có 124/132 chi bộ ở khu dân cư đạt trong sạch vững mạnh, 15 chi bộ hoàn thành nhiệm vụ. Thực hiện tinh thần thông tri 06/TT đã có 8/17 đồng chí Chủ tịch Hội đồng nhân dân, 9/17 đồng chí Chủ tịch xã và 118/132 trưởng ấp, khóm tự tự phê ra dân. Qua phong trào đã phát triển mới được 12.703 đoàn viên, hội viên các đoàn thể, nâng đến nay toàn huyện có 80.148 đoàn viên, hội viên chiếm tỉ lệ 64% so độ tuổi quản lý, đã giới thiệu 355 đoàn viên, hội viên ưu tú cho Đảng, phát triển 193 đồng chí đảng viên mới. Phải nói rằng, phong trào xây dựng gia đình văn hoá ở huyện Tam Bình đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền đoàn thể và toàn bộ xã hội quan tâm thực hiện, thực sự có hiệu quả và chuyển dần thành ý thức tự giác của nhân dân, thể hiện bằng những kết quả mà Tam Bình đã đạt được: Kết quả xây dựng các loại hình: Xây dựng hộ gia đình: Toàn huyện vận động đăng ký tham gia thực hiện 34.012 hộ gia đình văn hoá, chiếm tỉ lệ 100% so với tổng số toàn huyện. Trong đó, hộ đạt chuẩn văn hoá là 25.769 hộ chiếm tỉ lệ 75,76% (giảm 4.221 hộ so với năm 2006), đạt 94,7% so với kế hoạch đề ra (là 80%). Hộ đạt chuẩn tiên tiến: 6.891 chiếm tỉ lệ 20,53% (tăng 2.744 hộ so với năm 2006), so với kế hoạch đề ra là 20%. Hộ đạt chuẩn an toàn 30.930 hộ chiếm tỉ lệ 90,94% (tăng 3.567 hộ so với năm 2006). Hộ đạt chuẩn sức khoẻ: 30.744 hộ chiếm tỉ lệ 90,39% (tăng 2.346 hộ so với năm 2006). Hộ xanh, sạch đẹp đạt 26.019 hộ, chiếm tỉ lệ 76,5% (giảm 523 hộ so với năm 2006). Qua kết quả bình nghị chấm điểm của các xã, thị trấn cho thấy: số hộ đạt chuẩn văn hoá không ngừng được nâng lên, một số địa phương chất lượng xây dựng hộ gia đình đạt chuẩn văn hoá có chuyển biến tích cực đi vào thực chất. Xây dựng hộ gia đình văn hoá ở nhiều địa phương đạt tỉ lệ khá cao, chất lượng hộ gia đình đạt chuẩn văn hoá, an toàn, sức khoẻ, xanh sạch đẹp ngày càng tăng, nhất là tiêu chí làm tròn nghĩa vụ công dân, xây dựng cảnh quan môi trường, các công trình của hộ như: hàng rào, cột cờ, bảng hiệu, các công trình vệ sinh... không ngừng được nâng lên. Trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng gia đình văn hoá, đạo đức gia đình được củng cố, ngày càng xuất hiện nhiều tấm gương ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền. Hiện tượng ngược đãi người cao tuổi, sống thiếu trách nhiệm với gia đình đã giảm hẳn. Các hộ gia đình có ý thức hơn trong việc chăm lo học hành cho con em của mình. Tình hình hộ gia đình đạt chuẩn năm 2007 Hộ đạt văn hoá Hộ đạt tiên tiến Hộ đạt an toàn Hộ đạt sức khỏe Hộ đạt xanh, sạch, đẹp TT Tên đơn vị TS hộ TS Đạt% TS Đạt% TS Đạt% TS Đạt% TS Đạt% 1 Thị trấn 1278 1212 94,84 56 4,38 1258 98,44 1272 99,83 1273 99,61 2 Tường Lộc 2379 1884 79,19 484 20,31 2368 99,41 2259 96,46 2314 97,27 3 MỹTTrung 2633 2297 87,27 336 12,73 2297 87,27 2297 87,27 2297 87,27 4 Hoà lộc 1646 1002 60,87 612 37,18 1476 98,67 1475 89,61 1358 82,50 5 Hoà Hiệp 1700 782 46 657 50,40 1694 99,65 1682 98,94 1535 90,92 6 Hoà Thạnh 2012 1580 78,72 427 21,22 1992 99,01 1789 88,92 1589 78,98 7 Tân Lộc 1223 971 79,39 250 20,44 1123 91,82 1058 86,51 952 77,84 8 Hậu Lộc 1399 1060 75,76 339 24,23 1399 100 1399 100 1035 73,98 9 Mỹ Lộc 1716 1466 85,43 151 8,79 1638 98,08 1608 93,71 1545 90,03 10 Phú Lộc 1627 1320 81,13 307 18,87 1380 84,82 1450 89,12 815 50,09 11 Song Phú 1941 1718 88,3 227 11,67 1718 88,3 1178 88,3 1718 88,3 12 Phú Thịnh 2587 2212 85,50 357 14,50 2417 93,43 2420 93,54 2219 85,78 13 Tân Phú 1866 967 51,82 706 37,83 1550 83,07 1545 82,80 1545 82,80 14 Long Phú 1923 1541 80,14 328 17,06 1035 53,82 1046 54,39 967 50,29 15 Bình Ninh 2244 1178 56,77 870 38,77 2180 97,15 2190 97,59 1160 51,69 16 Loan Mỹ 2754 2025 76,7 575 18,70 2362 85,77 2432 88,31 1800 65,30 17 Ngãi Tứ 3084 2554 82,81 368 11,93 3001 97,3 3068 99,48 1897 61,51 Cộng 34012 25769 75,76 6981 20,53 30,93 90,94 30,774 90,39 26019 76,5 Xây dựng khu dân cư văn hoá: Để phong trào đạt được kết quả tốt thì cần phải xem xét vai trò quan trọng của từng gia đình trong sự đóng góp chung. Do đó, xây dựng văn hoá sẽ là cái nền, là nội dung cốt lõi trong cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, cuộc sống mới ở khu dân cư. Ngược lại, cuộc sống mới ở khu dân cư chính là môi trường lành mạnh tác động đến việc xây dựng đời sống văn hoá. Trong năm, việc tập trung xây dựng khu dân cư văn hoá có nhiều cố gắng, từ đó góp phần tạo được phong trào chung của toàn huyện. Ngay từ đầu năm, Ban chỉ đạo 01/TU - huyện đã cho Ban chỉ đạo xã, thị trấn đăng ký xây dựng 17 khu dân cư điểm đến cuối năm đạt chuẩn văn hoá, từ đó xác định có tập trung đi vào củng cố Ban vận động ấp, khóm. Hầu hết các ấp, khóm đều có xây dựng kế hoạch thực hiện 10 tiêu chí của khu dân cư (ấp, khóm). Kết quả đến nay đã có 16/17 xã, thị trấn đề nghị phúc tra công nhận khu dân cư đạt chuẩn văn hoá, tiên tiến của năm 2007 là 22 ấp, khóm (trừ xã Tân Phú không đề nghị). Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2007, Ban chỉ đạo 01/TU – huyện đã thành lập đoàn khảo sát phúc tra 12/22 ấp, khóm. Kết quả có 6 ấp đạt điểm chuẩn văn hoá, 3 ấp đạt điểm chuẩn tiên tiến (đang đề nghị BCĐ 01/TU - tỉnh phúc tra). Tính đến nay nâng toàn huyện có 7 ấp đạt chuẩn văn hoá, chiếm tỉ lệ 5,30% (so kế hoạch đề ra là 40 – 45%) và 3 ấp đạt chuẩn tiên tiến năm 2007. Song song đó, công tác chăm sóc sức khoẻ cho gia đình ban đầu cho nhân dân cũng được xã hội hoá tốt, các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế được tổ chức thực hiện nghiêm túc, chương trình sức khoẻ cho mọi nhà được cộng đồng đặc biệt quan tâm, ý thức phòng chống dịch bệnh trong nhân dân đạt nhiều tiến bộ, các chương trình truyền thông dân số kế hoạch hoá gia đình được nhân dân tích cực hưởng ứng và ý thức tự giác ngày càng cao. Từ đó góp phần hạ tỉ lệ tăng dân số, như ở ấp Danh Tấm xã Hậu Lộc, ấp 4 xã Mỹ Lộc, ấp Phú Điền xã Song Phú... Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình tạo được sự phối hợp thường xuyên giữa nội dung xây dựng gia đình văn hoá với phương chăm gia đình ít con, nhờ vậy đã kéo giảm mức sinh từ trên 2,6% (2006) xuống còn dưới 1,58% (2007). Hầu hết các gia đình
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan