Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Cộng đồng người việt nam ở nước ngoài những nét văn hóa đặc trưng...

Tài liệu Cộng đồng người việt nam ở nước ngoài những nét văn hóa đặc trưng

.PDF
45
14
134

Mô tả:

Chương III QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT 1. Quan ₫iểm của Đảng và Nhà nước ta về tăng cường sức mạnh Đại ₫oàn kết dân tộc, khai thác những thế mạnh của cộng ₫ồng NVNƠNN 1.1. Những c“ng tr˜nh nghi˚n cứu về tiềm lực vš khả năng ₫‚ng g‚p của cộng ₫ồng người Việt Nam ở nước ngoši với sự nghiệp c“ng nghiệp hoŸ vš hiện ₫ại hoŸ ₫ất nước Nghị  quyết  của  Bộ  Chính  trị  đánh  giá:  “Tiềm  lực  của  Cộng  đồng người Việt Nam ở nước ngoài đặc biệt là về khoa học và công  nghệ, về vốn, về khả năng tạo ra các mối quan hệ giữa các tổ chức  và cá nhân ở nước ngoài với nước ta là một lợi thế và một nguồn  lực quan trọng cần phải phát huy để bổ sung và hỗ trợ cho sự phát  triển của đất nước”.  Tiềm lực trên lĩnh vực khoa học công nghệ  Chúng ta hiện đang có một “kho tài nguyên” chất xám ở bên  ngoài. Đó là đội ngũ 400.000 trí thức Việt kiều có trình độ đại học  và trên đại học trong đó có hàng nghìn chuyên gia tầm cỡ quốc tế.  “Kho  chất  xám”  này  tập  trung  chủ  yếu  ở  các  nước  tư  bản  phát  triển nhất như Mĩ, Pháp, Đức, Canada, Úc,…  Trí  thức  Việt  kiều  có  những  lợi  thế  cơ  bản  so  với  trí  thức  trong  nước:  được  đào  tạo  có  hệ  thống,  tiếp  cận  với  tri  thức  khoa  119 học  công  nghệ  mũi  nhọn,  tiên  tiến  nhất  trên  thế  giới,  có  đủ  điều  kiện,  phương  tiện  nghiên  cứu  khoa  học  và  ứng  dụng  kết  quả  nghiên cứu khoa học.   Khai thác và sử dụng tối đa nguồn chất xám trong Việt kiều  là biện pháp tiết kiệm nhất ngân quỹ đất nước và rút ngắn khoảng  cách trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam với nước ngoài.   Tiềm lực vốn  Hiện nay, đã có hàng vạn công ty của người Việt Nam định cư  ở nước ngoài được thành lập. Tuy nhiên, các công ty của Việt kiều  đều  thuộc  loại  nhỏ,  ít  vốn.  Nhưng  nếu  số  vốn  tích  luỹ  của  cộng  đồng người Việt Nam ở nước ngoài được huy động vào công cuộc  công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam thì rất có ý nghĩa.  Tiềm lực tạo các mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân ở nước  ngoài với Việt Nam  Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế  nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế  nước  ngoài  và  quốc  tế.  Nhiều  trí  thức  có  trình  độ  học  vấn  và  chuyên môn cao, làm việc trong các cơ quan chính quyền các nước  sở  tại,  trong  các  tổ  chức  quốc  tế,  một  số  ngưòi  giữ  vị  trí  quan  trọng,  có  khả  năng tạo dựng quan hệ  với các cơ  sở  kinh  tế,  khoa  học nước sở tại và quốc tế.   Cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  ngày  càng  tham  gia  tích  cực  vào  các  hoạt  động  nhằm  thúc  đẩy  các  mối  quan  hệ  hợp  tác  giữa  các  nước  sở  tại  với  Việt  Nam,  thông  qua  việc  đề  xướng, tổ chức các chuyến thăm viếng lẫn nhau của các đoàn, cá  nhân, lập các tổ chức hữu nghị, kết nghĩa.   Cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  còn  giúp  tư  vấn,  môi  giới  chọn  đối  tác  nước  ngoài,  chọn  công  nghệ  tiên  tiến  phù  120 hợp với điều kiện trong nước, giúp quan hệ tìm hiểu và mở rộng  thị trường xuất khẩu. Họ cũng đóng vai trò trung gian trong việc  đưa các công ty lớn đầu tư vào Việt Nam.   Trong  cuốn  sách  này,  chúng  tôi  khẳng  định  sự  sẵn  sàng  tham  gia  đóng  góp  xây  dựng  đất  nước  dưới  nhiều  hình  thức  hoặc  gián  tiếp  hoặc  trực  tiếp  của  một  lực  lượng  không  nhỏ  những  Việt  kiều  có  tấm  lòng  với  quê  hương  đất  nước.  Một  nữ  trí  thức  nói:  “Minh  Hoa  cảm  thấy  nếu  mà  nước  Việt  Nam,  Chính phủ Việt Nam có thể làm sao để tăng cường dân trí, học  thức  cho  người  Việt  Nam  cũng  như  nâng  cao  cơ  hội  cho  tất  cả  những  người  Việt  Nam  ở  Việt  Nam  có  cơ  hội  được  đi  học,  có  công ăn việc làm đầy đủ và đời sống tốt đẹp thì người Việt kiều  ở bên Mĩ sẽ tự hào hơn. Chính phủ Việt Nam không phải lo về  cuộc  sống  của  người  Việt  kiều  bên  Mĩ.  Nếu  Chính  phủ  Việt  Nam  bỏ  hết  công  sức  để  tăng  cường  nước  Việt  Nam  của  mình  lên  mà  làm  cho  người  dân  Việt  Nam  mình  để  họ  được  hạnh  phúc thì chắc chắn người Việt kiều sẽ rất tự hào.   Hỏi: Có nghĩa là nếu trong đất nước mà phát triển thì kiều bào  ở  nước  ngoài  sẽ  rất  tự  hào  và  họ  sẽ  thấy  là  họ  đóng  góp  được  nhiều?  Đáp: Đúng vậy. Khi đó họ sẽ muốn trở về giúp nước.  Hỏi:  Câu  hỏi  cuối  cùng  tôi  muốn  hỏi  chị  là:  Với  tư  cách  là  một chuyên gia nghiên cứu về khoa học xã hội, chị có ý kiến gì về  hệ  thống  chính  sách  của  Chính  phủ,  Nhà  nước  Việt  Nam  với  bà  con Việt kiều ở Mĩ?  Đáp: Mình cảm thấy là chính sách bắt đầu phải chú ý đến  những  người  có  tri  thức,  tài  năng  để  làm  sao  kêu  gọi  những  người đó về nước để đóng góp. Mà phải làm đủ phương tiện để  cho những người đó đi về. Bởi không phải là Việt kiều muốn trở  121 về Việt Nam nghiên cứu là được mà còn phải đi xin giấy phép,  phải quen, phải biết đúng người mới làm nghiên cứu được. Cái  đó  phải  chú  ý.  Và  những  giấy  tờ  ở  Việt  Nam  rất  phức  tạp.  Tôi  cảm thấy cần phải thủ tục gọn gàng hơn. Thứ hai là phải chú ý  đến  những Việt kiều  nào  mà họ  có tài  năng  thì  nên  kêu  gọi  họ  về  để  đóng  góp.  Thứ  ba,  nên  đưa  sinh  viên  Việt  kiều  về  Việt  Nam thực tập. (PVS, nữ, TS, nghiên cứu viên, Trung tâm nghiên  cứu Á Châu, Sanfransisco)  1.2. CŸc quan ₫iểm của Đảng vš Nhš nước về c“ng tŸc ₫ối với người Việt Nam ở nước ngoši Việt Nam đang đổi mới, vượt qua thử thách, đứng vững và  đi lên bằng trí tuệ và sức lực của mình, muốn làm bạn với tất cả  các nước, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.   Làm  thế  nào  để  đương  đầu  với  thách  thức,  vượt  qua  khó  khăn, tận dụng các cơ hội và khả năng thuận lợi để đưa đất nước  tiến  nhanh?  Câu  trả  lời  nằm  ở  sức  mạnh  đoàn  kết,  hoà  hợp  dân  tộc, sức mạnh này là động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước.  Về  chủ  trương, đường lối về công tác về người  Việt  Nam ở  nước ngoài, Đảng, Nhà nước ta đã có hàng loạt nghị quyết, chỉ thị,  chương trình hành động như:   ‐ Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.  ‐  Nghị  quyết  36  của  Bộ  Chính  trị  về  công  tác  đối  với  người  Việt  Nam ở nước ngoài.   ‐ Chương trình hành động của Bộ Ngoại giao thực hiện Nghị quyết  36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.  Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 36  của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.  122 Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của  Đảng ta đã nêu rõ: “Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn  dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ  vững  độc  lập,  thống  nhất  của  Tổ  quốc,  thực  hiện  thắng  lợi  sự  nghiệp  công  nghiệp  hóa,  hiện  đại  hóa  đất  nước  vì  mục  tiêu  dân  giàu,  nước  mạnh,  xã  hội  công  bằng,  dân  chủ,  văn  minh,  vững  bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đoàn kết, hoà hợp dân tộc không  chỉ là đường lối chính sách mà còn là một truyền thống được hun  đúc  trong  lịch  sử  hàng  ngàn  năm  dựng  nước  và  giữ  nước,  trở  thành bản sắc của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý  thức sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn truyền thống đó.   Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và  là  một  nguồn  lực  của  cộng  đồng  dân  tộc  Việt  Nam,  là  nhân  tố  quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa  nước ta với các nước. Luôn luôn coi trọng Cộng đồng người Việt  Nam  ở  nước  ngoài,  Đảng  và  Nhà  nước  ta  đã  đề  ra  nhiều  chủ  trương,  chính  sách  rộng  mở  và  biện  pháp  cụ  thể  nhằm  tạo  điều  kiện  ngày  càng  thuận  lợi  hơn  cho  đồng  bào  về  thăm  đất  nước,  người  thân,  đầu  tư,  kinh  doanh,  hợp  tác  khoa  học  ‐  công  nghệ,  hoạt động văn hoá‐nghệ thuật.  Nước ta, muốn tiến nhanh, không thể chỉ dựa vào cái đã có,  cái  đã  biết,  mà  phải  tiếp  cận  với  những  thành  tựu  khoa  học‐kỹ  thuật  trên  thế  giới,  tranh  thủ  vốn  và  công  nghệ  bên  ngoài,  nâng  cao năng lực nắm bắt và tiếp thu công nghệ hiện đại. Ở đây, tiềm  năng của cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là về trí tuệ  và công nghệ, kể cả công nghệ quản lý là một ưu thế và là nguồn  lực quan trọng bổ sung và hỗ trợ cho sự phát triển của đất nước.   Với hàng chục vạn trí thức có trình độ đại học trở lên, trong  đó  nhiều  người  có  vị  trí  quan  trọng  trong  các  viện  nghiên  cứu,  123 trường đại học, bệnh viện, các công ty kinh doanh, các tổ chức quốc  tế,  cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  thực  sự  có  một  tiềm  năng quan trọng về chất xám đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.  Trong  các  cuộc  kháng  chiến  chống  Pháp,  chống  Mĩ  và  trong  sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, cộng đồng người Việt  Nam ở nước ngoài đã có nhiều đóng góp quan trọng, có tinh thần  yêu nước hướng về quê hương.   ‐ Tiềm lực tạo các mối quan hệ giữa các tổ chức và cá nhân ở nước  ngoài với Việt Nam  Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có tiềm lực kinh tế  nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế  nước  ngoài  và  quốc  tế.  Nhiều  trí  thức  có  trình  độ  học  vấn  và  chuyên môn cao, làm việc trong các cơ quan chính quyền các nước  sở  tại,  trong  các  tổ  chức  quốc  tế,  một  số  ngưòi  giữ  vị  trí  quan  trọng, có  khả năng tạo dựng  quan  hệ  với  các cơ  sở  kinh  tế,  khoa  học nước sở tại và quốc tế.    Nhiều  cá  nhân  tổ  chức  mà  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  đang đứng đầu ngành có thể phối hợp tốt với các tổ chức cá nhân  các nhà khoa học trong nước thực hiện các công trình nghiên cứu,  các chương trình chữa bệnh nhân đạo, từ thiện vv. Các hoạt động  phi lợi nhuận của Việt kiều có tác động tích cức xóa đi những mặc  cảm  và  hằn  thù  dân  tộc,  trên  cơ  sở  đó  có  thể  xây  dựng  khối  đại  đoàn kết dân tộc trên nền tảng cửa sự tin tưởng lẫn nhau.  Cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  ngày  càng  tham  gia  tích  cực  vào  các  hoạt  động  nhằm  thúc  đẩy  các  mối  quan  hệ  hợp  tác  giữa  các  nước  sở  tại  với  Việt  Nam,  thông  qua  việc  đề  xướng, tổ chức các chuyến thăm viếng lẫn nhau của các đoàn, cá  nhân, lập các tổ chức hữu nghị, kết nghĩa.   124 Cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  còn  giúp  tư  vấn  môi  giới  chọn  đối  tác  nước  ngoài,  chọn  công  nghệ  tiên  tiến  phù  hợp với điều kiện trong nước, giúp quan hệ tìm hiểu và mở rộng  thị trường xuất khẩu. Họ cũng đóng vai trò trung gian trong việc  đưa các công ty lớn đầu tư vào Việt Nam.  Chương  trình  hành  động  của  Chính  phủ  thực  hiện  Nghị  quyết  36  của  Bộ  Chính  trị  về  công  tác  đối  với  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  đã  đề  ra  những  nội  dung  chính  như:  Công  tác  triển  khai, thông tin tuyên truyền về nội dung Nghị quyết của Bộ Chính  trị và Chương trình hành động; Các biện pháp, chính sách nhằm  tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, hội  nhập  vào  đời  sống  xã  hội  nước  sở  tại;  Tạo  điều  kiện  cho  người  Việt Nam ở nước ngoài gắn bó hơn nữa với quê hương, đất nước;  Phát  huy  tiềm  năng  tri  thức  của  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài;  Phát huy tiềm năng của người Việt Nam ở nước ngoài trong hợp  tác  kinh  tế,  đầu  tư,  kinh  doanh;  Tăng  cường  công  tác  thông  tin‐ văn hoá phục vụ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; Quan  tâm đến việc dạy và học tiếng Việt cho thế hệ trẻ người Việt Nam  ở nước ngoài; Tăng cường các hoạt động giao lưu giữa người Việt  Nam  ở  trong  và  ngoài  nước;  Chính  sách  khen  thưởng  của  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài;  Đổi  mới  phương  thức  vận  động  người  Việt Nam ở nước ngoài.  “Non sông Việt Nam là của mọi người Việt Nam. Xây dựng  đất  nước  Việt  Nam  là  trách  nhiệm  và  nghĩa  vụ  không  thể  thoái  thác của mỗi người Việt Nam. Bất kỳ ai góp phần vào sự nghiệp  dân giàu, nước mạnh, tôn trọng Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam  đều có chỗ đứng trong khối đoàn kết hoà hợp dân tộc”1.  1 Bài nói của Thủ tướng Võ Văn Kiệt tại Hội nghị Việt kiều ngày 7/2/1993. 125 Như các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta nhiều lần  khẳng  định  Cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  là  một  bộ  phận của dân tộc Việt Nam, có tinh thần dân tộc, yêu quê hương,  chắc  chắn,  sẽ  có  những  đóng  góp  xứng  đáng  vào  công  cuộc  đẩy  nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.  Rất nhiều công trình nghiên cứu bằng nhiều thứ tiếng, dưới  nhiều góc độ đánh giá đã cho thấy phần nào đời sống của cộng  đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Tuy vậy, có thể thấy, những  công trình mang tính xã hội học với những cái nhìn toàn diện về  cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  trong  đó  nhấn  mạnh  khía  cạnh  về  đặc  trưng  con  người  và  văn  hoá  vẫn  còn  ch.ưa  nhiều,  chưa  đáp  ứng  những  đòi  hỏi  của  thực  tiễn  hội  nhập  thế  giới hiện nay.  2. Những vấn ₫ề ₫ặt ra cần giải quyết 2.1. Về ph˝a Đảng, ch˝nh phủ Việt Nam Một là, có thể nói những chủ trương, chính sách của Đảng và  Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài vẫn chưa thực sự  tạo ra tính bình đẳng cao nhất cho người Việt trong nước và người  Việt ở ngoài nước. Cụ thể như vấn đề cấp thủ tục Visa với người  Việt  ở  nước  ngoài  hay  một  số  những  quyền  lợi  mà  người  Việt  trong  nước  có  được  mà  người  Việt  ở  ngoài  nước  chưa  có  được  như mua đất, mua nhà hay làm đại biểu Quốc hội để đại diện cho  tâm tư và quyền lợi của cộng đồng người Việt ở ngoài nước… Bên  cạnh  đó,  các  hoạt  động  giao  lưu,  biểu  diễn  văn  hóa,  nghệ  thuật,  thể dục thể thao giữa cộng động người Việt trong nước và ngoài  nước chưa thực sự diễn ra sôi động vì mục đích đoàn kết và hòa  hợp dân tộc. Tất cả điều này phần nào đó vô tình tạo nên sự mặc  cảm đối với người Việt ở ngoài nước. Họ không hiểu rõ tình hình  trong nước, cũng như không hiểu rõ thái độ của người dân trong  126 nước với họ. Từ đó, một bộ phận Việt kiều mang tâm lí dao động,  không  có  lập  trường,  quan  điểm  rõ  rệt  và  dễ  bị  các  phần  tử  âm  mưu chống phá chế độ lôi kéo thực hiện các hành động không có  lợi cho nước mình cũng như quan hệ Việt‐Mĩ.  Hai là chính sách đối với người Việt ở nước ngoài của Đảng  và  Nhà  nước  ta  sau  chiến  tranh,  ban  đầu  còn  chưa  hoàn  thiện,  chưa  đánh  giá  đúng  được  tầm  quan  trọng  của  cộng  đồng  người  Việt ở nước ngoài mà đặc biệt là cộng đồng người Việt ở Mĩ. Ví dụ  như về chính sách đoàn kết của Đảng và Nhà nước ta trước kia chỉ  bao  gồm  nội  dung  đoàn  kết  các  giai  cấp,  tầng  lớp:  công  nhân,  nông dân và sau đó là tầng lớp trí thức. Sự đoàn kết tất cả các giai  cấp,  tầng  lớp  ấy  đều  chỉ  nằm  trong  phạm  vi  trong  nước,  ít  hoặc  không  đề  cập  đến  phạm  vi  ngoài  nước,  trong  khi  số  lượng  cộng  đồng người Việt ở ngoài nước chiếm tỷ lệ ngày càng cao, tới nay  đã có hơn 3 triệu người. Có thể nói đây là một trong những nhân  tố chưa hướng tới được việc đoàn kết giữa cộng đồng người Việt  trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, sau mỗi Kỳ họp Đại hội đại  biểu  toàn  quốc  của  Đảng  thì  Đảng  và  Nhà  nước  ta  đã  có  những  thay  đổi,  bổ  sung  kịp  thời,  về  đường  lối,  chính  sách  đối  ngoại  trong  đó  có  những  chính  sách  đối  với  cộng  đồng  người  Việt  ở  nước ngoài, tiêu biểu như “Nghị quyết về phát huy sức mạnh Đại  đoàn kết toàn dân tộc” được thông qua tại Hội nghị Trung ương 7  khoá IX  từ  ngày  13/1  đến ngày  21/1/2003.  Như  vậy, từ  việc đoàn  kết công‐nông‐trí thức dẫn tới việc công khai quan điểm của Đảng  và Nhà nước về việc thực hiện các biện pháp giúp cộng đồng Việt  kiều  gắn  bó  với  đất  nước  với  tư  cách  “cộng  đồng  người  Việt  ở  nước  ngoài  là  một  bộ  phận  của  dân  tộc  và  là  một  nguồn  lực  của  dân tộc” theo Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị vào tháng 3/2004 là  một  bước  chuyển  mới  quan  trọng  mang  tính  chất  tích  cực,  phản  ánh sự  quan  tâm sâu sát tình hình  cộng đồng  người  Việt ở  nước  127 ngoài của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ  Việt  Nam  còn  có  những  chương  trình  hành  động,  chính  sách  cụ  thể  đối  với  cộng  đồng  Việt  kiều  và  chính  sách  của  Đảng,  Nhà  nước ngày càng tạo điều kiện tốt nhất cho bà con Việt kiều tham  gia  tích  cực  vào  các  họat  động  lớn  ở  trong  nước.  Tất  cả  những  minh chứng nêu trên đã thể hiện chính sách đoàn kết cộng đồng  người Việt trong và ngoài nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam  ngày càng đúng đắn, sáng suốt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh  chủ quan và khách quan trong và ngoài nước.  Ba là, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những chính sách  về  đoàn  kết  dân  tộc,  luôn  luôn  coi  cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc  Việt  Nam,  và  đã  đề  ra  nhiều  chủ  trương,  chính  sách  rộng  mở  và  biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho đồng  bào  về  thăm  đất  nước,  người  thân,  đầu  tư,  kinh  doanh,  hợp  tác  khoa  học‐công  nghệ,  hoạt  động  văn  hóa‐nghệ  thuật.  Tuy  nhiên,  các  chủ  trương,  chính  sách  đó  vẫn  chưa  được  quán  triệt  sâu  sắc,  thực hiện đầy đủ ở các cấp, các ngành liên quan. Nhiều khi, công  tác  nghiên  cứu,  tham  mưu  về  chính  sách  chưa  theo  kịp  những  chuyển biến mới. Công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của người  Việt Nam ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Các chính  sách đã ban hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần  đại  đoàn  kết  toàn  dân  tộc;  chưa  khuyến  khích  mạnh  mẽ  người  Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng góp cho công  cuộc  phát  triển  đất  nước.  Chưa  có  hình  thức  thỏa  đáng  để  cung  cấp  kịp  thời  và  đầy  đủ  thông  tin  cho  đồng  bào  về  tình  hình  đất  nước và chính sách của Đảng và Nhà nước. Hình thức vận động  cộng đồng còn chưa thực sự đổi mới, đa dạng và linh hoạt để có  thể quy tụ, động viên đông đảo bà con tham gia các hoạt động có  ích  cho  cộng  đồng  và  quê  hương.  Việc  phát  hiện,  bồi  dưỡng  128 những nhân tố tích cực, việc khen thưởng, động viên những người  có  thành  tích  chưa  được  chú  trọng  nhiều. Nguyên  nhân  chủ  yếu  của những yếu kém trên xuất phát từ việc các cấp, các ngành, các  đoàn thể nhân dân chưa nhận thức thật sự đầy đủ và sâu sắc các  quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối với người Việt Nam ở  nước ngoài, nhiều cấp ủy Đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp  chưa  quan  tâm  đúng  mức  và  chưa  thường  xuyên  kiểm  tra,  đôn  đốc việc thực hiện công tác này. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành  liên  quan,  giữa  Trung  ương  và  địa  phương,  giữa  trong  và  ngoài  nước  còn  thiếu  chặt  chẽ,  các  cơ  quan  trực  tiếp  làm  công  tác  về  người Việt Nam ở nước ngoài chưa được kiện toàn đủ mạnh, kinh  phí còn hạn chế.  Bốn là, chính sách huy động chất xám từ trí thức kiều bào của  Đảng và Nhà nước ta còn tự phát và manh mún, mới dừng ở việc  mời các nhà khoa học về nước làm tư vấn cho một số dự án, tham  gia giảng dạy tại các cơ sở giáo dục. Việc động viên khuyến khích  các  nhà  khoa  học  kiều  bào  tầm  cỡ  tham  gia  vào  các  lĩnh  vực  ưu  tiên của đất nước vẫn chưa có nhiều chuyển biến rõ rệt. Nhiều trí  thức người Việt ở nước ngoài mong muốn đóng góp trí tuệ và tâm  huyết  của  mình  cho  đất  nước,  nhưng  họ  không  biết  trong  nước  cần gì và làm thế nào để có thể đóng góp, trong khi họ bị những  ràng  buộc  về  pháp  lý,  về  thời  gian...  Trong  khi  đó,  các  cơ  quan  chức  năng  trong  nước  chưa  đưa  ra  những  kế  hoạch  lâu  dài,  yêu  cầu  cụ  thể  cũng  như  những  biện  pháp,  chính  sách  thoả  đáng  để  tranh thủ sự đóng góp chất xám của trí thức kiều bào. Quan trọng  hơn là còn thiếu một cơ chế thông thoáng để trí thức kiều bào có  nhiều cơ hội làm việc và phát triển, đóng góp trí tuệ của mình cho  đất  nước.  Thực  tế  những  thành  tựu  của  sự  nghiệp  đổi  mới  đất  nước trong những năm gần đây đã tác động nhiều đến cộng đồng  người Việt ở nước ngoài, trong đó có giới trí thức. Nhiều người đã  129 bớt dần mặc cảm, về nước thăm thân nhân, gặp gỡ đồng nghiệp,  bạn bè trong nước, trao đổi chuyên môn, tính chuyện làm ăn, đầu  tư  về  nước...  Tuy  nhiên,  bên  cạnh  niềm  phấn  khởi  ấy,  không  ít  người bày  tỏ  lo lắng  về  khả  năng tụt  hậu,  về những  bất cập tiêu  cực của đất nước, muốn đổi mới mạnh hơn nữa. Trong khi đó số  trí thức trẻ, thanh niên sinh ra ở nước ngoài, không có mặc cảm về  quá  khứ  song  mối  liên  hệ  với  quê  hương  và  thân  nhân  không  nhiều như cha mẹ, ông bà của họ. Rào cản trong mối quan hệ với  quê hương là họ không nói được tiếng Việt và ít hiểu biết về văn  hóa  Việt.  Nhiều  người  đã  về  quê  khám  phá,  tìm  hiểu  và  qua  đó  tình cảm, mối liên hệ với quê hương đã được nối lại. Nhưng việc  trở về của trí thức trẻ kiều bào hầu như là tự phát, đến nay chưa  có cơ  quan,  tổ  chức  nào  có khả  năng và  năng lực để  tập  hợp, hỗ  trợ những chuyến về nguồn này một cách quy mô và có tổ chức.  Nhiều người cho rằng tuy nhà nước có nhiều chính sách rất tốt để  “chiêu  hiền  đãi  sĩ”,  đặc  biệt  đối  với  trí  thức  kiều  bào,  nhưng  những  chính  sách  ấy  còn  “chung  chung”  và  nhiều  khi  còn  thể  hiện tư duy bao cấp, chưa có tác dụng thu hút và khuyến khích  cao. Mặt khác những chính sách ấy lại không chú ý đến việc mời  và tạo điều kiện để trí thức kiều bào làm việc với doanh nghiệp,  nhất  là  doanh  nghiệp  tư  nhân.  Một  số  chính  sách  được  nêu  rải  rác trong một số văn bản đến nay đã lỗi thời, không thực tế, hoặc  khó  thực  hiện  do  những  quy  định  thủ  tục  phức  tạp  đối  với  trí  thức và cơ quan sử dụng trong nước. Và do vậy sau nghị quyết  36 của Bộ Chính trị, rất cần những chính sách cụ thể để huy động  sức đóng góp của giới trí thức nói riêng và Việt kiều nói chung.  Năm là chưa có một môi trường mang tính thị trường cho trí  thức, chất xám và thực tế chưa có khách hàng có nhu cầu thật sự  và sẵn sàng trả giá cho chất xám ở Việt Nam. Nói cách khác, phần  lớn các cơ quan, tổ chức, địa phương nêu yêu cầu sử dụng trí thức  130 Việt  kiều  đều  là  những  cơ  quan  hưởng  ngân  sách  nhà  nước,  nghiên  cứu,  sản  xuất  theo  kế  hoạch,  theo  đơn  đặt  hàng  của  Nhà  nước,  có  thêm  chất  xám  Việt  kiều  thì  tốt,  không  có  cũng  không  sao. Điều này còn thể hiện ở chỗ: ngay các đề tài nghiên cứu trong  nước cũng ít được ứng dụng, trí thức trong nước chưa được trọng  dụng, được trả lương xứng đáng, trong lúc họ cũng được đào tạo  ở nước ngoài...  Sáu là  hệ thống pháp  luật của Việt Nam còn thiếu đồng  bộ,  hay thay đổi, và mỗi lần thay đổi hầu như đều gây thiệt hại hoặc  khó  khăn  cho  doanh  nghiệp  kiều  bào.  Với  hệ  thống  pháp  lí  hiện  tại, kiều bào cảm thấy thiếu an toàn khi đưa vốn và công nghệ đầu  tư về nước. Các thủ tục hành chính vẫn còn nhiều phiền hà, tình  trạng  nhũng  nhiễu,  tiêu  cực  ở  một  số  cơ  quan,  cá  nhân  trong  bộ  máy hành chính từ trung ương đến các địa phương trong cả nước  cũng là một trong nhiều nhân tố làm nản lòng ý muốn đầu tư của  kiều bào.  Bảy  là  thái  độ,  cách  nhìn  của  một  số  người  dân  trong  nước  với kiều bào nhiều khi vẫn còn hẹp hòi, thành kiến, nghi kỵ thậm  chí thái độ “vơ đũa cả nắm” đối với kiều bào mà số đông ra đi vì  những  biến  cố  lịch  sử  hoặc  vào  thời  kỳ  đất  nước  gặp  nhiều  khó  khăn  nhất.  Điều  đó  thể  hiện  khá  phổ  biến  trong  giao  tiếp  cũng  như trong việc xử lý các vấn đề, kể cả vấn đề pháp lý có liên quan  đến người Việt Nam ở nước ngoài. Một số ít người trong nước có  những hành vi đầu cơ, trục lợi, làm ăn bất chính cũng ít nhiều gây  ảnh  hưởng  xấu  đến  những  kiều  bào  đang  làm  ăn  chân  chính  tại  quê  nhà.  Về  mặt  tình  cảm,  mỗi  khi  kiều  bào  về  nước  thăm  thân  nhân, đầu tư, kinh doanh đều mong muốn được Nhà nước ta đối  xử bình đẳng như đồng bào ở trong nước. Tuy nhiên, trong nước  vẫn còn khuynh hướng nặng về khai thác, tranh thủ sự đóng góp  vật chất của kiều bào, chưa chú ý dành cho họ sự cảm thông, sự  131 quan tâm và hỗ trợ cả về tinh thần lẫn vật chất. Sự phối hợp giữa  các  bộ,  ngành,  địa  phương  liên  quan  còn  thiếu  nhịp  nhàng,  chặt  chẽ,  nhất  là  trong  xử  lý  các  tình  huống,  các  vấn  đề  bức  xúc  liên  quan đến kiều bào khi họ ở nước ngoài hoặc khi về nước.  Đây là những nguyên nhân lí giải cho những mặt chưa tích  cực và những đóng góp còn hạn chế của cộng đồng người Việt ở  nước ngoài nói chung và cộng đồng người Việt ở Mĩ nói riêng với  Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ để phát huy ngày càng nhiều hơn vai  trò và những đóng góp tích cực của cộng đồng người Việt tại Mĩ  với quê nhà Việt Nam thì việc khắc phục những hạn chế nêu trên  là cần thiết với cả hai phía; nhưng trước tiên cần phải có được sự  đổi  mới  trong  những  chủ  trương,  chính  sách  của  Đảng  và  Nhà  nước Việt Nam đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Nếu  có  được  những  chính  sách  đãi  ngộ  xứng  đáng  dành  cho  những  đóng góp tích cực của Kiều bào thì chắc chắn tiềm năng đóng góp  của lực lượng này sẽ được nhân lên gấp bội. 2.2. Giải phŸp 2.2.1. Về ph˝a trong nước Nhằm phát huy sức mạnh cũng như vai trò tích cực và khắc  phục những vai trò còn hạn chế của cộng đồng người Việt tại Mĩ,  thiết nghĩ chúng ta cần thực hiện những biện pháp như sau:  1.  Cần  tập  trung  xây  dựng  những  bước  đi  và  biện  pháp  cụ  thể thực hiện đúng chủ trương hoà giải, hoà hợp dân tộc, khép lại  quá  khứ,  hướng  tới  tương  lai,  khuyến  khích  và  tạo  điều  kiện  để  kiều bào về nước thăm nhân thân, du lịch, đầu tư kinh doanh, hợp  tác nghiên  cứu khoa  học, thực hiện  các hoạt động  từ  thiện, nhân  đạo.... Qua đó, đáp ứng nhanh chóng các yêu cầu của kiều bào về  xuất  nhập  cảnh,  hồi  hương,  cấp  đổi  hộ  chiếu,  thủ  tục  giải  quyết  132 các vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam, nguyện vọng được  mua và sở hữu nhà ở để nghỉ ngơi, dưỡng già tại quê nhà...  2. Cần hoạch định những chính sách cụ thể cho sự phát triển  bền  vững  của  các  cộng  đồng  người  Việt  ở  nước  ngoài.  Giúp  các  doanh nghiệp Việt Nam trong và ngoài nước liên kết, hợp tác với  nhau,  tạo  môi  trường  đầu  tư  thuận  lợi  cho  Việt  kiều  cũng  như  giúp các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra các nước.  3. Xây dựng trung tâm cung cấp thông tin, tăng cường sự  hiểu biết của người Việt xa xứ về đất nước; cũng như người Việt  Nam  trong  nước  hiểu  biết  về  cộng  đồng  người  Việt  ở  nước  ngoài. Cần có chương trình riêng về giao lưu, thông tin của các  cộng  đồng  người  Việt  ở  các  nước  trên  các  chương  trình  truyền  hình trong nước và VTV4 nhằm động viên, giúp các cộng đồng  hiểu  biết,  học  tập  kinh  nghiệm  của  nhau  trong  các  hoạt  động  xây  dựng,  phát  triển  cộng  đồng.  Một  bước  tiến  bộ  mới  trong  công  tác  thông  tin  truyền  hình  của  nước  ta  hiện  nay  là  đã  có  những chương trình góp phần giới thiệu, cung cấp thông tin về  những  Việt  kiều  thành  đạt  trên  thế  giới  như  “Talk  Vietnam”.  Qua  đó,  giúp  cho  mỗi  người  Việt  Nam  càng  thêm  hiểu,  tự  hào  về  con  người  Việt  Nam  để  tiếp  tục  phát  huy  thành  công  này,  Đài truyền hình Việt Nam cũng như Đài tiếng nói Việt Nam nên  xây dựng nhiều hơn nữa những chương trình như thế. Ngoài ra,  Việt  Nam  cũng  cần  có  một  trụ  sở  về  thông  tin,  truyền  hình  thường trú phục vụ cho cộng đồng người Việt trên thế giới mà  cần hơn cả là tại Mĩ, như ở bang California để cung cấp những  thông  tin  chính  xác  nhất,  cập  nhật  nhất.  Có  như  thế  thì  việc  xuyên  tạc,  bóp  méo  thông  tin  sẽ  được  hạn  chế.  Bên  cạnh  đó  cũng nên lập một trang web hay một chương trình truyền hình  giao  lưu  hàng  năm,  hàng  tháng  nhằm  kết  nối  giữa  người  Việt  đã  hồi  hương  hay  đã  sinh  sống  ở  Việt  Nam,  trao  đổi  kinh  133 nghiệm  sinh  sống  với  cộng  đồng  người  Việt  trên  toàn  thế  giới  và kết nối giữa cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Hoặc  xuất bản  các  tạp chí  chung  cho các cộng  đồng  người  Việt  Nam  tại các khu vực, các nước lớn trên thế giới, có thể bằng song ngữ  với  ngôn ngữ  Việt  và ngôn  ngữ  nước sở  tại giúp các thế  hệ  trẻ  của Việt kiều, và người bản xứ hiểu biết hơn về Việt Nam.  4.  Đảng  và  Nhà  nước  nên  có  những  biện  pháp  nhằm  giáo  dục niềm tự hào dân tộc, truyền tinh thần cao đẹp, dũng cảm, bất  khuất,  nghị  lực  phi  thường  của  dân  tộc  tới  cộng  đồng  kiều  bào  hơn nữa. Phải chứng minh cho kiều bào thấy rõ Nhà nước Cộng  hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng  sản Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Qua bao năm  chiến  tranh  lầm  than,  phải  đổ  biết  bao  xương  máu  để  giành  lại  độc  lập, tự  do,  hòa bình  thống nhất đất nước. Sự  phát  triển của  Đất  nước  từ  sau  chiến  tranh  là  điều  không  thể  phủ  nhận.  Quan  trọng  hơn  cả  là  bây  giờ,  Đảng  và  Nhà  nước  cần  giữ  vững  lập  trường kiên định, sáng suốt, xây dựng đất nước ngày càng giàu  mạnh,  triệt  để  ngăn  chặn  tệ  nạn  tham  nhũng,  quan  liêu,  hối  lộ,  cải  cách  hành  chính  cho  phù  hợp  nhất,  đặc  biệt  là  các  thủ  tục  hành chính đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tất cả những  điều  đó,  sẽ  là  những  minh  chứng  thuyết  phục  nhất  nhằm  khơi  dậy sức mạnh của kiều bào, vai trò tích cực của kiều bào Mĩ nói  riêng và kiều bào các nước trên thế giới nói chung  5. Cần thiết nhất vẫn là đẩy mạnh tiến trình cụ thể hóa Nghị  quyết  36,  ngăn  chặn  tình  trạng  “trên  thông  dưới  không  thoáng”.  Đây  là  nghị  quyết  có  ý  nghĩa  rất  quan  trọng  đối  với  toàn  Đảng,  toàn dân liên quan tới tất cả các ngành, các cấp, các địa phương,  các  đoàn  thể  và  tổ  chức.  Việc  thực  hiện  tốt  nội  dung  của  Nghị  quyết 36 sẽ là định hướng cho việc xây dựng chính sách về công  134 tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài của Đảng và Nhà nước  Việt Nam trong thời gian tới. Chú trọng nhất là các nội dung:  * Đưa ra các biện pháp, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận  lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, hội nhập vào đời sống  xã hội nước sở tại.   *  Phát  huy  tiềm  năng  của  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  trong hợp tác kinh tế, đầu tư, kinh doanh.  * Tăng cường công tác thông tin‐văn hóa phục vụ cộng đồng  người Việt Nam ở nước ngoài  *  Tăng  cường  các  kênh  thông  tin  để  hỗ  trợ  cho  việc  dạy  và  học tiếng Việt cho thế hệ trẻ người Việt Nam ở nước ngoài.  * Tăng cường các hoạt động giao lưu giữa người Việt Nam ở  trong và ngoài nước.  *  Có  chính  sách  khen  thưởng,  đãi  ngộ  người  Việt  Nam  ở  nước ngoài có nhiều đóng góp cho đất nước.  * Tiếp tục đổi mới phương thúc vận động người Việt Nam ở  nước ngoài.  Thực hiện thắng lợi Nghị quyết nêu trên của Bộ Chính trị sẽ  góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều  kiện  thuận  lợi  cho  cộng  đồng  người  Việt  Nam  ở  nước  ngoài  ổn  định  cuộc  sống  và  phát  triển,  giữ  gìn  bản  sắc  dân  tộc  Việt  Nam,  hướng về Tổ quốc, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam  thực  hiện  mục  tiêu  dân  giàu,  nước  mạnh,  xã  hội  công  bằng,  dân  chủ, văn minh.  Từ  trước  đến  nay,  quan  điểm  và  chủ  trương  chính  sách  của  Đảng  và  Nhà  nước  ta  đối  với  kiều  bào  là  rõ  ràng,  nhất  quán  và  đúng  đắn.  Chính  phủ  cũng  như  chính  quyền  các  cấp  địa  phương  135 luôn tạo mọi thuận lợi và trân trọng mọi sự đóng góp  của bà con  kiều  bào  theo  những  hình  thức  và  khả  năng  phù  hợp  của  bà  con.  Nhưng để làm tốt hơn nữa công tác đối với người Việt Nam ở nước  ngoài, cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, tạo sự  chuyển biến  mạnh mẽ trong nhận thức, sự đồng thuận, nhất trí cao về công tác  này  của  toàn  Đảng,  toàn  dân,  thực  sự  đưa  Nghị  quyết  36  và  Chương trình hành động của Chính phủ đi vào cuộc sống; tiếp tục  tạo điều  kiện  thuận lợi  và  hỗ  trợ đồng bào ở  nước  ngoài yên  tâm  làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại. Và việc  cần làm bây giờ là thế, giáo dục niềm tự hào dân tộc, dạy lịch sử vẻ  vang của dân tộc, truyền tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc  tới cộng đồng này đặc biệt là thế hệ con cháu sinh trưởng ở ngoài  nước là một giải pháp đáng quan tâm nhất hiện nay.  2.2.2. Đối với cộng ₫ồng người Việt ở Mĩ So với cộng đồng người Hoa sống tại Mĩ, thì cộng đồng người  Việt còn thiếu tính cố kết cộng đồng. Chúng ta vẫn chưa hình thành  được  một  “Vietnamese  town”  có  quy  mô  lớn  bằng  một  “Chinese  town”  của  cộng  đồng  người  Hoa  tại  Mĩ.  Chính  vì  thế  tinh  thần  đoàn kết của cộng đồng người Việt tại Mĩ không lúc nào cần thiết  và ý nghĩa hơn bây giờ khi Đảng và Nhà nước đã có những chính  sách tích cực, giúp đỡ kiều bào. Vậy để có một “Vietnamese town”  thực  sự,  thiết  nghĩ  cộng  đồng  người  Việt  tại  Mĩ  cần  thực  hiện  những biện pháp sau:  Thứ nhất, cần phải chủ động trong các hoạt động của mình,  giúp  các  doanh  nghiệp  có  điều  kiện  làm  ăn  ổn  định,  giúp  các  thành viên trong cộng đồng có cuộc sống tinh thần phong phú và  làm tốt các hoạt động đối nội, đối ngoại., hỗ trợ việc duy trì văn  hoá,  ngôn  ngữ  Việt.  Không  chỉ  ở  Mĩ,  các  cộng  đồng  người  Việt  Nam tại các nước cần có những chương trình cùng hợp tác cho các  136 hoạt  động  chung  hướng  về  đất  nước  và  quảng  bá  hình  ảnh  đất  Việt,  tạo  môi  truờng  giao  lưu  cho  cộng  đồng  thông  qua  các  hoạt  động  quảng  bá  như  Ngày  văn  hoá  Việt  Nam,  các  chương  trình  giao lưu, du lịch… Tất cả các hoạt động đó sẽ góp phần xây dựng  đất nước, xây dựng  nhịp cầu hữu nghị giữa Việt Nam với Mĩ và  Việt  Nam  và  các  quốc  gia  khác  trên  thế  giới.  Mỗi  kiều  bào  có  ý  thức, tinh thần dân tộc vì đất nước, vì tổ quốc mình chính là mỗi  sứ giả đại diện suất sắc nhất của dân tộc.  Thứ  hai,  cần  phát  huy  tinh  thần  tự  hào  dân  tộc,  chung  tay  xây  dựng  đất  nước,  tổ  quốc  và  phải  coi  đó  là  những  mục  tiêu  chính  mà  cộng  đồng  người  Việt  ở  Mĩ  cần  làm  hiện  nay.  Trong  một  cuộc  trả  lời  đối  thoại  với  thanh  niên  Việt  Nam  vào  tháng  3  năm  2007,  Chủ  tịch  nước  Nguyễn  Minh  Triết  đã  thẳng  thắn  đề  cập tới tinh thần đó. Có thể diễn đạt như sau: Các bạn (các thanh  niên  Việt  Nam  ở  trong  và  ngoài  nước)  nếu  hiện  tại  chưa  thích  nghi với chế độ xã hội chủ nghĩa này thì cũng đừng chống lại nó,  hãy  sống,  xây  dựng,  phát  triển  vì  đất  nước,  tổ  quốc  của  mình,  mới  thấy  nhận  thức  được  chế  độ  mình.  Cũng  trong  buổi  đối  thoại  đó,  Chủ  tịch  nước  cũng  đề  cập  tới  lí  tưởng  của  thế  hệ  trẻ  hiện  nay  và  ông  cũng  khẳng  định  rằng  không  có  gì  hơn  ngoài  lòng yêu nước. Lí tưởng yêu nước là lí tưởng chung, là lí tưởng  cao nhất, đẹp nhất. Chính vì thế, cộng đồng kiều bào cần nêu cao  tinh  thần  lí  tưởng  đó,  cùng  chung  tay  xây  dựng  đất  nước,  tổ  quốc, quê hương, cội nguồn của mình.  Thứ ba, cần đẩy lùi tâm lí nghi kỵ, hận thù chế độ ra khỏi suy  nghĩ  của  mình.  Cộng  đồng  cũng  cần  nhận  thức  rằng  chế  độ  nào  mà làm cho dân giàu nước mạnh, dân chủ, tự do, người dân được  quyền tự  do  phát triển, được sống dân chủ, được học  tập và  rèn  luyện, được làm việc… thì chế độ đó tồn tại và phát triển. Chế độ  một Đảng cầm quyền hiện nay là chế độ đã được nhân dân ta lựa  137 chọn  và  sự  thật  là  sống  dưới  chế  độ,  mỗi  người  dân  Việt  Nam  ngày càng tiến bộ, phát triển cùng với sự phát triển của đất nước.  Thiết  nghĩ  sau  gần  40  năm  từ  ngày  kết  thúc  chiến  tranh  (1975),  mục  tiêu  đối  ngoại  được  coi  là  khó  khăn  nhất  đối  với  Đảng  và  Nhà nước đó là đoàn kết cộng đồng người Việt ở nước ngoài mà  chủ yếu là người Việt ở Mĩ với cộng đồng người Việt trong nước,  làm sao đạt được tiếng nói chung nhất, niềm tin vào chế độ để xây  dựng, phát triển đất nước. Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ  với Mĩ, đã sẵn sàng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, cộng  đồng  người  Việt  ở  Mĩ  nên  đề  cao  tinh  thần  đó,  từ  bỏ  những  thù  hận, bất đồng thành hợp tác, đoàn kết hòa hợp dân tộc.  Thứ  tư:  mở  các  trung  tâm  thương  mại  với  vốn  đầu  tư  của  nhà nước để xây dựng các tổ chức thương mại kiểu vệ tinh và tạo  niềm tin cho Việt kiều cả về mặt tinh thần lẫn điều kiện vật chất.  Việt  kiều  có  thể  làm  việc  cho  các  công  ty  của  Việt  Nam  ngay  tại  địa  phương  nơi  mình  ở.  Điều  đó  vừa  có  lợi  cho  doanh  nghiệp  trong nước vừa có lợi cho Việt kiều đặc biệt là Việt kiều Mĩ. Thực  hiện chính sách “Trăm nghe không bằng một thấy” ngay trên đất  Mĩ  hoặc  các  nước  tư  bản  lớn  sẽ  tạo  ra  cú  hích  tinh  thần  tích  cực  cho người Việt Nam ở nước ngoài.  Thứ năm: Xây dựng các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước  ngoài.  Tại  đó  có  thể  tuyên  truyền  và  trao  đổi  các  sản  phẩm  văn  hóa, giao lưu văn hóa, dạy văn hóa Việt Nam và tiếng Việt cho cả  người Việt lẫn người nước ngoài. Tại vì nhu cầu tiếng Việt và văn  hóa Việt Nam cho người Việt và người nước ngoài là rất lớn.  Tóm  lại,  trong  những  năm  qua,  Nhà  nước  ta  đã  ban  hành  nhiều chính sách quan trọng liên quan đến cộng đồng người Việt  Nam  ở  nước  ngoài.  Tuy  nhiên,  chúng  ta  cũng  cần  quan  tâm  nhiều  hơn  đến  việc  giải  quyết  những  nguyện  vọng  bức  xúc  của  kiều  bào,  nổi  bật  nhất  là  mong  muốn  được  Nhà  nước  bảo  hộ  138
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan