TRƯỜNG ĐẠI HỌC HOA SEN
BÁO CÁO CHUYẾN
ĐI THAM QUAN
BẢO TÀNG HỒ CHÍ
MINH
“Cảm nghĩ về Hồ Chủ Tịch”
KHOA : KINH TẾ THƯƠNG MẠI
NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Tên : ĐINH THỊ THU THÙY
Lớp : TV081A
Mssv : 081525
PHỤ LỤC
TRÍCH YẾU
PHẦN 1 : TÓM TẮT TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH
PHẦN 2 : LỊCH SỬ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
PHẦN 3 : CẢM NGHĨ VỀ HỒ CHỦ TỊCH
TRÍCH YẾU
Mục tiêu chính của cuốn “Báo cáo chuyến đi tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh”
chính là viết lên “Cảm nghĩ về Hồ Chủ Tịch”.Vì Bảo tàng Hồ Chí Minh lưu giữ
hơn 12 vạn tài liệu, hiện vật, phim ảnh gốc về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam trong
việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, học tập tư tưởng, đạo đức trong sáng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; bồi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Qua đó Tôi có thể phần nào
học hỏi kinh nghiệm cũng như rèn luyện đạo đức để trở thành một người có ích
cho xã hội.
PHẦN 1 : TÓM TẮT TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn gốc nông dân
ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách
thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởn sâu
sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những
nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường
đúng đắn để cứu dân, cứu nước.
Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi,
châu Mỹ. Người hòa mình với những côngnhân và những người dân thuộc địa, vừa lao động để
sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, thắng lợi vang dội của cách
mạng tháng Mười Nga đã đưa Hồ Chủ tịch đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ra sức nghiên cứu chủ
nghĩa Mác-Lênin, Người đã nhận rõ đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải
phóng xã hội.
Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp Việt Kiều ở Pháp.
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu
năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) "Bản yêusách của nhân dân Việt Nam", đòi Chính
phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam. .
Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu bước
ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoa chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo
"Người cùng khổ" ở Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản.
Cùng năm đó, Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế nông dân. Năm 1924, người dự Đại hội
lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương
Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.
Tháng 6/1925, Người tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, mà hạt nhân là Cộng
sản Đoàn, đồng thời ra báo Thanh niên và mở lớp huấn luyện đào tạo hàng trăm cán bộ đưa về
nước hoạt động.
Ngày 3/2/1930, Người triệu tập hội nghị hợp nhất tại Cửu Long (Hương Cảng) để thống nhất các
nhóm cộng sản trong nước thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thời gian từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản,
đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chị thị quý báu cho Ban chấp
hành Trung ương Đảng ta.
Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người về nước triệu tâp hội nghị n thứ tám của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh
phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước.
Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1945, trong không khí sôi sục cách mạng của thời kỳ tiền khởi nghĩa, Người cùng Trung
ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đã cử Người làm chủ tịch Chính phủ lâm thời
của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Người đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước nhân dân cả nước và nhân dân
toàn thế giới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á.
Trong những ngày đầu cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn chồng chất và bị bao vây bốn phía.
Nạn đói do phát xít Nhật - Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng 9/1945 câu
kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại
xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng tháng Tám.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân ra vừa đánh trả bọn
thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền
Bắc.
Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp. Quân Tưởng
Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam. Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền
Bắc và lấn dần từng bước ở miền Bắc, âm mưu tieến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến và
cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài
chống thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ (1954).
Tháng 7/1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng. Nhưng một
nửa nước ở miền Nam bị đế quốc Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với
Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9/1960, đại hội lần thứ ba của Đảng đã họp, thông qua nghị quyết về hai nhiệm vụ chiến lược
và bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của
Người và của Ban chấp hành Trung ương đảng, nhân dân ta vừa đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiếng chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền
Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của mộtngười cộng sản vĩ
đại, một kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời
mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì
hòa bình và công lý trên thế giới.
Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên hợp quốc UNESCO
ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt
Nam và là một nhà văn hóa lớn" (HỒ CHÍ MINH VIETNAMESE HERO OF NATIONAL LIBERATION
AND GREAT MAN OF CULTURE) vào năm 1990.
PHẦN 2 : LỊCH SỬ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH
Bến Nhà Rồng-di tích lịch sử
Bến Nhà Rồng - hay khu lưu niệm Bác Hồ nằm trên ngã ba sông Sài Gòn, đầu đường
Nguyễn Tất Thành. Nơi đây ngày 5/6/1911 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống tàu "Đô đốc
Latouche Tréville" ra đi tìm đường cứu nước.
Nhà Rồng nguyên là trụ sở của đại diện hãng chuyên chở hàng hải Pháp (thuộc Công ty vận
tải đường biển Pháp Messageries Pharitimes) xây cất năm 1862 làm nơi ở cho viên tổng quản
lý và là nơi bán vé tàu. Toà nhà có hình 2 con rồng trên nóc. Con tầu đầu tiên rời bến Nhà
Rồng vào tháng 11 năm 1862.
Ngày 3 tháng 9 năm 1979, Uỷ ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh quyết định lấy Nhà rồng là
"Khu lưu niệm chủ tịch Hồ Chí Minh" (tức Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến Nhà Rồng). Bên
trong khu nhà lưu niệm có trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật về đời hoạt động của Hồ Chủ
Tịch.
Từ đó đến nay, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Bến Nhà Rồng đã đón tiếp hàng chục triệu lượt
khách trong và ngoài nước vào tham quan. Ngoài ra, tại đây thường tổ chức những cuộc vui
lớn, biểu diễn nghệ thuật, nghe kể chuyện truyền thống, tổ chức lễ kết nạp Đảng, kết nạp
Đoàn viên...
Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh hiện tọa lạc tại số 1 Nguyễn Tất Thành,
phường 12, quận 4 ( Điện thoại: (84-8) 9 401 094. ). Là một đơn vị thuộc Sở Văn hoá Thông
tin TP. Hồ Chí Minh và là một chi nhánh nằm trong Hệ thống các Bảo tàng và Di tích về Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong cả nước.
Bảo tàng - trước đây là trụ sở của Tổng Công ty vận tải Hoàng đế (Messageries Impériales) một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn.
Ngôi nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc
phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mô típ
"Lưỡng long chầu nguyệt" - một kiểu kiến trúc quen thuộc của đình chùa Việt Nam. Với kiểu
kiến trúc độc đáo đó nên trụ sở của Tổng Công ty vận tải Hoàng đế (Hotel Des Messageries
Impériales) còn được gọi là Nhà Rồng và bến cảng cũng mang tên là Bến cảng Nhà Rồng.
Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam, thương cảng Sài Gòn được chuyển
giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý. Họ đã cho tu bổ lại mái ngôi nhà và thay
thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác với tư thế quay đầu ra. Năm 1965, ngôi Nhà
Rồng do quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan Tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ. Năm
1975, sau ngày đất nước thống nhất, Nhà Rồng - biểu tượng của cảng Sài Gòn - thuộc Cục
đường biển Việt Nam quản lý.
Để ghi nhớ sự kiện ngày 5/6/1911, Bác Hồ (lúc bấy giờ là Văn Ba) đã xuống tàu Amiral
Latouche Tréville từ bến cảng Sài Gòn, để đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, sau ngày
giải phóng đất nước Nhà Rồng được giữ lại làm Di tích Lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 2/9/1979 - nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của Người - nơi đây đã mở cửa đón khách
tham quan phần trưng bày về "Sự nghiệp tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1890 - 1945)". Đến ngày 20/9/1982, Ủy ban Nhân dân TP. Hồ Chí Minh ra quyết định số
236/QĐUB thành lập "Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh". Sau hơn 10 năm hoạt động,
đến ngày 30/10/1995, Ủy ban Nhân dân TP.Hồ Chí Minh ra quyết định số 7492/QĐ-UBNCVX chính thức chuyển "Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh" thành " Bảo tàng Hồ Chí
Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh". Bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu sưu tầm, bảo quản,
trưng bày, tuyên truyền về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trên cơ sở các tư liệu, hiện vật của Bảo tàng; đặc biệt nhấn mạnh đến sự kiện Bác Hồ ra
đi tìm đuờng cứu nước và mối quan hệ của Bác đối với nhân dân Sài Gòn và nhân dân miền
Nam Việt Nam.
Ngoài những hoạt động chính, Bảo tàng còn tiến hành những hoạt động tuyên truyền giáo
dục rộng rãi nhằm làm cho tư tưởng và đạo đức của Hồ Chủ tịch đi sâu vào quần chúng nhân
dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đó là các hoạt động như: tổ chức các Hội nghị khoa học, các cuộc
tọa đàm giữa các thế hệ, nói chuyện chuyên đề về Bác, chiếu phim, thực hiện sưu tập những
tư liệu hồi ký về Bác, các ấn phẩm về Bảo tàng, tổ chức kết nạp Đảng, Đoàn, Đội; tổ chức thi
Tiếng hát về Bác Hồ. . . Bảo tàng còn là nơi hội họp, gặp gỡ của các tổ chức, đoàn thể đến
sinh hoạt truyền thống, học tập và vui chơi; là nơi ra quân của nhiều phong trào cách mạng
sôi nổi của thành phố, đặc biệt các ngày 30/4, 1/5, 5/6, 2/9…
Trong hơn 20 năm hoạt động, Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh đã trở
thành một trung tâm giáo dục về lịch sử cách mạng, về tư tưởng đạo đức và cuộc đời hoạt
động cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bảo tàng đã đón tiếp trên 15 triệu lượt
khách tham quan từ khắp nơi trong nước và khách quốc tế, đặc biệt có hàng trăm đoàn
nguyên thủ quốc gia và cao cấp các nước đến thăm viếng, tìm hiểu nghiên cứu về Chủ tịch
Hồ Chí Minh. . . Với những thành tích trên, sau 5 năm 1992 - 1996 Bảo tàng vinh dự được
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao Động hạng III. Đặc biệt, năm 1998 nhân dịp kỷ
niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà Rồng đã được chọn làm biểu tượng
của Thành phố. Đồng thời UBND Thành phố đã phối hợp với Hiệp hội Lyon của Pháp đầu tư
trang bị hệ thống chiếu sáng mỹ thuật cho Bảo tàng, công trình đã khánh thành vào ngày
21/11/1998, làm nổi bật một cách hài hòa các khối kiến trúc đem lại sức sống và năng động
cho ngôi Nhà Rồng về đêm.
Bến Nhà Rồng khởi đầu là một thương cảng lớn của Sài Gòn. Thương cảng này nằm trên
sông Sài Gòn và được xây dựng từ 1864, trên khu vực gần cầu Khánh Hội, nay thuộc quận 4.
Tại nơi đây, vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này lây
tên là Hồ Chí Minh) đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện
sang châu Âu. Do đó, từ 1975 toà trụ sở xưa của thương cảng Nhà Rồng đã được chính
quyền Việt Nam xây dựng lại thành khu lưu niệm Hồ Chí Minh.
Kiến trúc của Nhà Rồng
Nhà Rồng được khởi công xây dựng ngày 4 tháng 3 năm 1863, do “Công ty vận tải đường
biển” Pháp Messageries Maritimes xây cất để làm nơi ở cho viên Tổng quản lý và nơi bán vé
tàu. Nóc nhà gắn hình rồng, ở giữa thay vì trái châu thì là chiếc phù hiệu mang hình “Đầu
ngựa và chiếc mỏ neo”. Phù hiệu “Đầu ngựa” hàm chỉ thời trước bên Pháp, công ty này
chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe, còn “Mỏ neo” tượng trưng cho tàu thuyền. Trụ
sở công ty được giới bình dân gọi là nhà Rồng, có nhiều thuyết về cái tên này: có thuyết nói
rằng vì có gắn đôi rồng lớn bằng đất nung tráng men xanh trên nóc nhà[1], một thuyết khác
cho rằng khác là Nhà Rồng có nghĩa là Gia Long với Nhà là Gia, Rồng là Long, bến Nhà
Rồng được người Pháp đặt để nhớ tới quan hệ của vua Gia Long với nước Pháp[2]. Người
lớn tuổi gọi tên là Sở Ông Năm, vì hãng tàu biển này do quan năm Pháp Domergue đứng ra
sáng lập.
Vào tháng 10 năm 1865, người Pháp cho dựng cột cờ Thủ Ngữ. Từ "Thủ ngữ" có nghĩa là sở
canh tuần tàu biển. Cột cờ treo cờ hiệu để cho tàu thuyền ra vào Cảng nên biết vào ngay hay
chờ đợi.
Năm 1893, trụ sở công ty Nhà Rồng dùng đèn điện, dùng bóng đèn 16 nến, sáng leo lét, kém
xa mấy ngọn đèn lồng thắp dầu lửa mà tòa đô chính cho thắp thử ở đường Catina (Đồng
Khởi).
Gần cuối năm 1899, công ty được phép xây cất bến cho tàu cặp vào. Bến lót ván dày, đặt trên
trụ sắt dọc theo mé sông 42 mét (phía tàu cặp vào). Bến này cách bến kia 18 mét. Bề ngang
của moai bến vào phía trong bờ là 8 mét. Từ bờ ra bến có cầu rộng 10 mét. Ban đầu xây hai
bến rồi xây thêm bến thứ ba.
Năm 1919, công ty được phép xây bến bằng xi măng cốt sắt, nhưng không thực hiện được,
phải đến tháng 3 năm 1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ một bến nhưng dài 430 mét.
Toàn bộ kiến trúc xưa của tòa trụ sở thương cảng Nhà Rồng hầu như còn nguyên vẹn cho đến
ngày nay.
PHẦN 3 : CẢM NGHĨ VỀ HỒ CHỦ TỊCH
Đôi điều suy nghĩ khi tham quan bảo tàng
Khi tham quan Bảo tàng tôi thấy được chia làm 3 không gian chính gắn liền với những giai
đoạn lịch sử của cuộc đời Hồ Chí Minh, phía bên phải là hình ảnh đất nước ta, phía bên trái
là bối cảnh thế giới trong những năm đầu thế kỷ XX, và chính giữa là “con đường Hồ Chí
Minh”.
Hình ảnh tiếp theo được giới thiệu tới các bạn sinh viên là bức phù điêu có tên gọi “Con rồng
cháu tiên” - hình ảnh quen thuộc đối với mỗi người dân Việt Nam. Tiếp theo đó là làng sen
quê Bác, là căn nhà nhỏ nơi Người đã sinh ra và lớn lên. Từ đây, hàng loạt những sự kiện
quan trọng, như là những mốc đánh dấu cho cuộc đời hoạt động cách mạng và cho tư tưởng
của Người, lần lượt được khắc họa như: hình ảnh của những con sóng thể hiện cuộc hành
trình năm 1911 đến trước năm 1920 trước khi Người đến với bản Luận cương của Lê-nin…,
sự mô phỏng của những bức phù điêu về cuộc hợp nhất thành lập Đảng cộng sản Việt Nam,
hay những mô hình về cuộc sống của nhân dân ta, về những địa danh, về lịch sử kháng chiến
của dân tộc, về hang Pắcpó, về suối Lênin…, tất cả đều được tái hiện và đi kèm với lời kể
của người hướng dẫn như đưa các bạn sinh viên trở về với một thời hào hùng của cả dân tộc.
Khi tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh và bảo tàng Tôn Đức Thắng ,tôi được nhìn lại chặng
đường làm việc của hai Bác, một niềm kính trọng dâng đầy trong tôi. Hai con người, 2 tư
tưởng lớn đã kề vai sát cánh cùng nhau đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh, đưa đất nước
phát triển. Tham quan bảo tàng tôi cũng thấy bất ngờ về chính mình, đã từ lâu tôi hầu như ít
còn để ý đến những cảm xúc, những suy tư, trăn trở về cuộc sống, về những con người đang
sống quanh mình. Nhịp sống hối hả của đô thị đã cuốn tôi vào vóng xoáy, học tập , làm thêm,
tham gia chỗ này chỗ khác đã dành hết thời gian cuả tôi, tôi chỉ muốn có thêm nhiều thời
gian nhưng chỉ là để ngủ.Thế nhưng, hôm nay khi đi tham quan bảo tàng tôi đã gặp lại cảm
xúc của mình cách đây khá lâu, cảm xúc biết ơn những người đi trước, những người đã đổ
máu xương để chúng ta sống, học tập ngày hôm nay, để sáng dậy, mở mắt ra ta được nhìn
thấy những người thân yêu, được hít thở bầu không khí trong lành, được làm những công
việc yêu thích.
Điều thú vị đối với các bạn sinh viên khi tới với bảo tàng Hồ Chí Minh là có thể tận mắt nhìn
thấy những bài báo, những bài thơ, những văn kiện quan trọng mà chúng ta vẫn thường được
nghe trên giảng đường. Đặc biệt, rất nhiều những lá thư mà Người viết cho những cán bộ của
Đảng ta, viết cho nhân dân ta, và kể cả những lá thư riêng. Qua lời người hướng dẫn, mỗi là
thư Bác viết dù việc công hay tư đều chứa dựng tình cảm dạt dào và nó đã động viên nhân
dân ta quyết tâm, đoàn kết để kháng chiến. Ngoài những vần thơ, những bài báo, các bạn sinh
viên còn có thể hiểu thêm về tư tưởng, tình cảm và những chặng đường hoạt động của Người
qua các di vật, qua những món quà mà nhân dân ta, cũng như nhân dân trên thế giới gửi biếu
Bác.
Nếu như cảm giác ban đầu trong mỗi sinh viên là được quay trở về với lịch sử thì càng về sau
sự xúc động nghẹn ngào không thể dấu kín trên nét mặt của mỗi bạn khi nghe về những năm
tháng cuối cùng của cuộc đời Bác. Bác không có gia đình, không có con của mình, nhưng
toàn thể dân tộc ta là đại gia đình, là những người thân yêu nhất của Người. Mong muốn sau
cùng của cuộc đời Bác là được về thăm lại miền Nam nhưng mong muốn đó không thực hiện
được và đã trở thành một nỗi day dứt trước khi Người đi xa.
“…… Bác ơi, tim Bác mênh mông thế!
Ôm cả non sông mọi kiếp người…………..”
Hình ảnh cuối cùng về Bác mà các bạn sinh viên chiêm ngưỡng là bức ảnh Người vẫn tay
chào, do nhân dân Nhật Bản gửi tặng Bảo tàng. Điều đặc biệt của bức ảnh lớn đó là nó được
làm từ 40.000 hạt gốm mà khi ta đứng ở bất kỳ vị trí nào cũng thấy được ánh mắt hiền hòa
của Bác đang trìu mến nhìn chúng ta.
Sau khi nghe về bức ảnh, buổi thăm quan kết thúc nhưng những cảm xúc cũng như những
suy nghĩ thì chắc chắn vẫn không hết trong mỗi bạn sinh viên. Mỗi người sẽ có những cảm
nhận của riêng mình, sẽ có những hình ảnh ấn tượng của riêng mình. Nhưng chung lại, các
bạn sẽ đều cảm thấy được giá trị của buổi học nhận thức, nó đưa ta đến với nhiều điều thực tế
và sinh động hơn, những điều mà có thể trước đây ta chưa từng nghĩ về nó…
Thế mà đã có những lúc ta cảm thấy chán nản, thấy ta thật bất hạnh biết bao. Chắc các bạn đi
tham quan bảo tàng cũng có những cảm xúc như tôi, sẽ cảm thấy cuộc sống thật đáng quý
biết bao, sẽ tự hứa với mình sẽ cố gắng để sống thật tốt, thật có ích. Tham quan bảo tàng thật
ích biết bao!
- Xem thêm -